Giới thiệu khái quát huyện Đức Huệ

Giới thiệu khái quát huyện Đức Huệ

Giới thiệu khái quát huyện Đức Huệ

ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN

1. Các yếu tố khí hậu, thời tiết, thủy văn:

  Khí hậu, thời tiết:

   Khí hậu huyện Đức Huệ mang tính chất đặc trưng nhiệt đới gió mùa với nền nhiệt cao đều quanh năm, ánh sáng dồi dào, lượng mưa khá lớn và phân bố theo mùa.

   Nhiệt độ: nhiệt độ trung bình năm là 26,80C, nhiệt độ bình quân cao nhất 31,10C và  thấp nhất là 23,80C. Dao động nhiệt độ giữa ngày và đêm thấp từ 80C đến 100C.

   Chế độ mưa: lượng mưa trung bình năm 1.840mm, phân bố theo mùa rõ rệt (mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11).

   Độ ẩm không khí trung bình tương đối ổn định giao động từ 77,3% đến 83,4%, trung bình hàng năm là 83,4%.

   Đây là điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh, đặc biệt là cây mía, lúa, ngô, rau đậu thực phẩm. Tuy nhiên, Mùa mưa trùng với mùa lũ thường gây ngập úng, cản trở quá trình sản xuất của phần lớn diện tích đất nông nghiệp.

   Chế độ thủy văn

   Chế độ thủy triều: Sông rạch huyện Đức Huệ chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều không đều cửa biển Đông và các nguồn nước thượng nguồn đổ về sông VCĐ và VCT. Thời gian một ngày triều là: 24 giờ 50 phút, có hai đỉnh và hai chân triều, song biến động không đều theo tháng. Đỉnh triều lớn nhất vào tháng 12, nhỏ nhất vào tháng 4,tháng5. Biên độ triều trung bình mùa kiệt: 0,75-0,85m, mùa lũ: 0,45-0,60m. Do vậy, vào mùa khô có thể lợi dụng thủy triều để tưới nước hoàn toàn tự chảy; song do biên độ triều không lớn và cường độ triều không đủ mạnh như ngoài dòng chính nên khả năng đẩy nước từ sông VCĐ vào sâu trong nội đồng bị yếu dần.

   Đặc điểm của các Sông, kênh lớn ở Đức Huệ có lòng rộng ( 12-27m) và lưu lượng dòng chảy tốt. Do đó, trong điều kiện mưa lớn và tập trung không gây lũ lớn, không ảnh hưởng đến sản xuất và giao thông. Hệ thống kênh rạch ở đây ít bị nhiễm mặn do có nguồn nước ngọt của Hồ Dầu Tiến xả xuống sông VCĐ Và VCT vào các tháng mùa khô.

   Lũ lụt ở Đức Huệ do ảnh hưởng của hai nguồn sinh lũ là: lũ từ thượng nguồn sông VCĐ và lũ từ sông MêKông chuyển qua sông VCT gây ra. Lũ đến muộn (tháng 9,10), độ sâu ngập dao động từ 0,7-1,5m, nơi ngập sâu nhất là các xã phía Nam như Bình Hòa Hưng, Bình Thành, Bình Hòa Nam. Tuy nhiên, lũ lụt ở Đức Huệ xuất hiện không đều qua các năm nên mức độ ảnh hưởng không nhiều đến hoạt động sản xuất và sinh hoạt của người dân.

2. Tài nguyên đất đai

   Theo kết quả điều tra xây dựng bản đồ đất tỉ lệ 1/25.000 năm 1998 của Phân viện Quy hoạch-TKNN: Toàn huyện có 3 nhóm đất với 9 đơn vị chú giải bản đồ đất:

   Nhóm đất phù sa nhiễm phèn: chiếm 7,11% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố chủ yếu dọc theo hai bên bờ sông VCĐ tại các xã: Mỹ Thạnh Đông, Mỹ Thạnh Bắc, Bình Hòa Bắc, Bình Hòa Nam và Mỹ Quý Đông. Nhóm đất này có thành phần cơ giới nặng, hàm lượng sét vật lý khoảng 45-60%, kém thoát nước, độ phì cao, thích hợp cho việc trồng lúa.

  Nhóm đất xám có: chiếm 36,02% tổng diện tích tự nhiên, hình thành trên đất phù sa cổ, thành phần cơ giới nhẹ, phân bố hầu hết các xã (ngoại trừ xã Mỹ Quý Đông) và nằm xen với khối đất phèn. Loại đất này thích hợp để làm đất ở hoặc xây dựng cơ bản, nếu sử dụng để trồng lúa hoặc luân canh lúa với cây trồng cạn thì cần chú ý 3 vấn đề: dinh dưỡng, tầng kết von và mức độ gley.

   Nhóm đất phèn: chiếm 55,75% tổng diện tích tự nhiên, nằm ở địa hình thấp (lòng sông cổ), vật liệu hình thành đất là phù sa cổ và phù sa mới chồng xếp lên nhau nên rất khó cải tạo. Đây chính là nguyên nhân sâu xa lý giải tại sao đất hoang hóa ở Đức Huệ khai thác chậm và hiện nay vẫn còn nhiều nhất tỉnh Long An (6.513 ha).

   Phân hạng đất theo bộ thuế

Đất Đức Huệ có đến 90% thuộc hạng 5 và hạng 6, chỉ có khoảng 2.500 ha đất phù sa nhiễm phèn thuộc hạng 3 và hạng 4.

  Đánh giá đất theo mức độ thích nghi với cây trồng

   Như vậy, 100% diện tích đất của huyện Đức Huệ được xếp ở cấp ít thích nghi hoặc phải cải tạo mới thích nghi với 2 vụ lúa, mía, đậu phộng, đậu đỗ, dưa và chanh …. Nên cây sinh trưởng phát triển cho năng suất thấp hơn các vùng đất tốt (đất phù sa). Vì vậy, đây cũng là một hạn chế lớn trong sản xuất nông nghiệp.

3. Tài nguyên nước

Nguồn nước mặt.

   Nguồn cấp nước ngọt chính của huyện Đức Huệ từ hồ Dầu Tiếng xả nước qua kênh Tây đẩy mặn (4g/l) lùi xuống Xuân Khánh, phần sông VCĐ thuộc Đức Huệ đã được ngọt hóa quanh năm. Bằng hệ thống các kênh nối trực tiếp với sông VCĐ như kênh 61, Kênh Ba Reng – Rạch Gốc,… kéo nước ngọt vào nội đồng (hướng Đông-Tây) và kênh Rạch Tràm – Mỹ Bình theo hướng Bắc Nam đã tạo động lực quan trọng và có ý nghĩa gần như quyết định thúc đẩy sản xuất và cải thiện đời sống cho nhân dân ở huyện Đức Huệ.

 Nguồn nước ngầm.

   Trên bề mặt đất huyện Đức Huệ có 62,86% diện tích được phủ bởi lớp trầm tích Holocene (QIV), còn gọi là phù sa mới; còn lại 36,02 % phủ bằng trầm tích cổ Pleistocene (QI-QIII).

   Trong trầm tích Holocene, nước ngầm bị nhiễm phèn, độ sâu xuất hiện tầng nước ngầm từ 120-200m, có độ khoáng hóa cao (>3g/l). Nước ngầm ở trầm tích cổ có hàm lượng tổng số độ khoáng hóa: 1-3 g/l.

   Quá trình thực hiện chương trình nước sạch nông thôn và khoan, khai thác nước ngầm của UNICEF thường phải khoan sâu > 150m, nước giếng khoan muốn sử dụng an toàn phải qua thiết bị lọc.

   Như vậy, Đức Huệ là nơi nghèo nước ngầm, nước có độ khoáng hóa cao, đầu tư khoan khai thác (giếng) phải đủ độ sâu và bắt buộc phải có thiết bị lọc nước mới sử dụng cho sinh hoạt được, nên cần đầu tư vốn lớn và đồng bộ.

4. Tài nguyên rừng

   Tài nguyên rừng là thế mạnh của Đức Huệ, theo kết quả kiểm kê và thống kê đất đainăm 2010, diện tích đất lâm nghiệp của huyện có 7.548,4ha, chiếm 17,5% diện tích tự nhiên; trong đó, rừng sản xuất chiếm 99,6% diện tích đất lâm nghiệp, còn lại là rừng phòng hộ và rừng  đặc dụng chiếm 0,4% diện tích đất lâm nghiệp. Diện tích trồng rừng chủ yếu là tràm xà cừ, bạch đàn,… Đây là nguồn nguyên liệu phục vụ chính cho sản xuất giấy, nhưng đến nay vẫn chưa được khai thác đúng mức và hiệu quả.

   Nguồn tài nguyên động vật dưới tán rừng đã dần được phục hồi, đây là thành quả đáng ghi nhận của chương trình 327/CT, 773/ttg và 661, đã góp phần sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên cũng như khôi phục hệ sinh thái vốn có của vùng đất phèn.

5. Tài  nguyên khoáng sản

    Theo các tài liệu điều tra địa chất thổ nhưỡng, trên địa bàn huyện Đức Huệ nghèo về khoáng sản. Tài nguyên khoáng sản của huyện chủ yếu là than bùn, tập trung nhiều ở xã Mỹ Quý Tây. Thành phần than bùn có độ tro thấp, mùn cao, lượng khoáng cao, có thể sử dụng làm phân bón hoặc chất đốt. Ngoài ra, trên sông VCĐ từ cửa Rạch Tràm đến đầu kênh Trà Cú Thượng có trữ lượng cát khoảng 1 triệu m3, có thể khai thác để phục vụ xây dựng.

Nhận định chung

    Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên đã tạo cho huyện Đức Huệ những thuận lợi cần được phát huy:

    Có vị trí là nằm giữa Campuchia và Tp.HCM, Campuchia và các tỉnh ĐBSCL nên Đức Huệ được xem là một trong những đầu mối giao lưu giữa TP.HCM, các tỉnh ĐBSCL với Campuchia thông qua hai tuyến đường trục của huyện là 838 và 839.

    Khả năng giao lưu đường thủy tốt do nằm dọc theo sông VCĐ với các hệ thống kênh rạch kết nối từ nội vùng ra sông.

    Điều kiện tự nhiên nhìn chung có nhiều thuận lợi:với nền nhiệt và quang năng dồi dào; không bị gió bão, đất không bị nhiễm mặn và nguồn nước tưới phong phú được cung cấp từ hồ Dầu Tiếng thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.

   Tuy nhiên, vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên cũng mang lại cho huyện những hạn chế cần phải chú ý:

   Huyện nằm ở vùng khó khăn của tỉnh Long An, hạ tầng chưa được đầu tư hoàn thiện nên khả năng giao lưu đường bộ còn hạn chế.

   Vùng đất bị nhiễm phèn, phân bố không đều đang xen giữa giồng, bưng, trũng nên sẽ gây khó khăn cho phát triển nông nghiệp theo vùng. Đặc biệt huyện là vùng có nguồn nước ngầm rất thấp và có độ khoáng cao. Do đó, khi phát triển cần tận dụng nguồn nước mặt từ Hồ Dầu Tiếng.

TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA

Quá trình hình thành vùng đất và truyền thống văn hóa của người dân Đức Huệ gắn liền với dòng lịch sử đấu tranh, bảo vệ và dựng xây quê hương trên tuyến biên cương của Tổ quốc.           Khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, các địa phương đã bắt tay vào sản xuất, ổn định, phát triển cuộc sống. Đức Huệ lại phải tiếp tục chiến đấu chống đạo quân xâm lược Pôn Pốt – Ieng Xa Ry (30/4/1977 – 07/01/1979) để bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và giúp đỡ nhân dân nước bạn Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng. Ngược dòng lịch sử để thấy sự vươn lên mãnh liệt của đất và người dân Đức Huệ anh hùng.

1. Quá trình khôi phục vùng đất trắng

          Trải qua ba cuộc chiến tranh ác liệt, nạn lũ lụt lớn, thiếu đói lương thực, đời sống vô cùng khó khăn, nhưng người dân Đức Huệ vẫn một lòng đoàn kết, không ngại gian khổ, hiểm nguy về khai phá bom mìn, hăng hái khai vỡ đất đai, đào kênh thủy lợi, nuôi cá ao hồ, trồng lúa, đắp đường giao thông… Nhân dân hưởng ứng tham gia nhiều phong trào sôi nổi như: phong trào khôi phục ruộng vườn, phong trào xóa nạn đói, nạn mù chữ, Đức Huệ là một trong vài địa phương cấp huyện đi đầu diệt xong giặc dốt đầu tiên ở Miền Nam. Trong phong trào xây dựng đường giao thông, nhân dân đóng góp hàng vạn ngày công, điển hình như tuyến đường Hiệp Hòa – Quéo Ba, tuyến đường quan trọng trực tiếp lưu thông sản xuất của huyện.

Cùng với việc phát triển kinh tế – xã hội, phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao cũng có nhiều bước phát triển, trong thời gian ngắn từ huyện đến các xã, thị trấn đã hình thành nhiều đội ca múa kịch với nhiều diễn viên quần chúng, các câu lạc bộ đờn ca tài tử với những nghệ nhân dân gian mang giọng ca ngọt ngào sâu lắng; các câu lạc bộ bóng đá, bóng chuyền thường xuyên tổ chức thi đấu giao lưu tạo phong trào thi đua sôi nổi,…

2. Các di tích lịch sử trên địa bàn huyện

          Toàn huyện có 01 Di tích lịch sử cấp quốc gia là Khu Di tích lịch sử cách mạng tỉnh Long An và 10 di tích lịch sử cấp tỉnh gồm:  Di tích lịch sử Địa điểm thực dân Pháp thảm sát nhân dân Kinh Lò Đường ngày 28/01/1947; Di tích lịch sử Địa điểm Đế quốc Mỹ thảm sát nhân dân Vàm Rạch Gốc; Di tích lịch sử Miếu ông Lê Công Trình; Di tích lịch sử Khu vực Bến phà Đức Huệ; Di tích lịch sử Khu vực Sân Vận Động Quéo Ba; Di tích lịch sử Địa điểm thành lập Khu 7, Khu 8, Khu 9; Di tích lịch sử Khu Hội Đồng Sầm; Di tích Khu vực Quéo Ba; Di tích Giồng Dinh; Di tích Miếu ông Giồng Lớn.

3. Nét văn hóa truyền thống của huyện

3.1. Các món ăn truyền thống

Đến Đức Huệ để du lịch tâm linh kết hợp du khảo về nguồn thăm lại chiến trường xưa với các món ăn dân gian bình dị mà mang đậm nét đặc trưng của miền sông nước bưng biền như cá lóc, cá con um, mắm cá đồng, mắm lia lia, canh chua cá đồng nấu với bông điên điển, bông súng, mắm kho, chim nướng, chuột khìa, rắn bầm xào nghệ… đều là các món ăn đặc sản, đơn giản mà đậm đà hương vị.

3.2. Các kiểu nhà truyền thống

Cuộc sống, sinh hoạt của người dân đơn giản, dễ cơ động. Văn hoá ăn, ở mang đặc thù riêng và phù hợp với môi trường, sinh thái tự nhiên. Kiểu nhà truyền thống có các loại như: nọc ngựa; chữ đinh; bát dần, ở giữa gian nhà chính có bàn thờ tổ tiên, trước sân nhà có bàn thờ ông thiêng.

3.3. Phong tục, tập quán

Các phong tục tập quán mang những nét tương đồng gắn liền với nền sản xuất thuần nông nghiệp. Chịu ảnh hưởng về “Tam giáo” (Nho, Lão, Phật) nên phần đông người dân Đức Huệ lấy đạo thờ cùng ông bà làm trọng. Việc tín ngưỡng dân gian đã thành phong tục tập quán của nhân dân, những năm gần đây lễ hội cúng miễu Ông Lê Công Trình đã thành truyền thống.

Người dân chuộng sự phóng khoáng, thẳng thắn, bộc trực, coi trọng tình nghĩa, sinh hoạt đơn giản, ít chú ý đến hình thức bên ngoài, không cầu kỳ, lao động cật lực, nhưng cũng ăn xài thoải mái. Bản chất người Đức Huệ giàu lòng nhân ái, thương người, mến khách, dễ gặp gỡ và dễ thân thiện… 

3.4. Về tôn giáo

Các tôn giáo ở Đức Huệ bao gồm: Phật giáo, Công giáo, Cao Đài Tây Ninh, Tin Lành, Phật giáo Hòa Hảo hoạt động tuân thủ pháp luật, giúp đỡ nhân dân, sống tốt đời đẹp đạo từ khi còn thời chiến đến lúc thời bình.

3.5. Về Dân tộc

Các dân tộc ở huyện Đức Huệ bao gồm: Kinh, Người Hoa, Khơ Me, Chăm, Tày, Nùng, Cao Lang cùng sống đoàn kết tương trợ nhau.

Trãi qua những thăng trầm lịch sử, trên con đường xây dựng và bảo vệ tổ quốc, người dân Đức Huệ luôn là người lính tiên phong đứng trên tuyến đầu bảo vệ biên giới, lãnh thổ thân yêu, vượt qua gian khổ, hy sinh, tôi luyện ý chí kiến cường bất khuất, đoàn kết, sáng tạo đã hình thành nên tính cách, phẩm chất năng lực và truyền thống tốt đẹp viết nên trang sử Đức Huệ anh hùng, góp phần trong truyền thống của Long An “Trung dũng kiên cường”. Phát huy truyền thống cách mạng, từ một huyện nghèo biên giới tiến lên trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong thời gian tới huyện ra sức phấn đấu phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh, xây dựng bộ mặt của huyện ngày càng thay đổi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần  cho nhân dân, tiếp tục công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.

DI TÍCH – DANH THẮNG – DANH NHÂN

1. KHU VỰC BÌNH THÀNH

KHU DI TÍCH LỊCH SỬ CÁCH MẠNG TỈNH LONG AN

(Xã Bình Hòa Hưng – huyện Đức Huệ – tỉnh Long An)

Bình Thành là một địa danh xuấ​t hiện khá sớm trong lịch sử khai phá vùng Đức Huệ ngày nay. Từ năm 1867 đã thấy tên Bình Thành thôn là một trong các thôn xã của Tổng Cửu Cư Thượng – huyện Tân Long. Khu vực Bình Thành là vùng đất nằm giữa hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây với trung tâm là Giồng Ông Bạn – xã Bình Thành nay thuộc xã Bình Hòa Hưng thuộc huyện Đức Huệ tỉnh Long An). Trước đây nhân dân trong vùng sống ở ven sông và trên các giồng lớn, phần lớn đất đai còn lại trong khu vực đều hoang vu mọc đầy tràm gió, đưng, năn, lau sậy… Ngày nay, công cuộc khai hoang đã biến đồng bưng thành rộng đồng tươi tốt.

Cùng với sự ra đời và phát triển của những phong trào đấu tranh chống xâm lược, căn cứ khu vực Bình Thành đã trở thành một địa danh lịch sử. Nơi đây, sau khởi nghĩa nam Kỳ, các chiến sĩ cách mạng đã xây dựng căn cứ địa đầu tiên ở Nam bộ để tiếp tục chiến đấu. Trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954), là quân khu Đông Thành, có một thời gian là căn cứ của Bộ Tư Lệnh khu 7 và Tỉnh Ủy Chợ Lớn. trong 21 năm chống Mỹ, khu vực Bình hành với bề dày truyền thống đã được Tỉnh ủy Long An chọn làm căn cứ để tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đến ngày thắng lợi hoàn toàn.

Căn cứ cách mạng Bình Thành trong kháng chiến chống Mỹ rộng lớn, cơ động, linh hoạt bởi lẽ cuộc chiến rất ác liệt, địch dùng mọi thủ đoạn để tiêu diệt, nên tỉnh ủy Long An phải linh đông dời đổi địa điểm và phạm vi hoạt động  nhiều lần, tuy vẫn bám trụ căn cứ. Di tích khu vực Bình Thành là trung tâm của căn cứ, là nơi tỉnh ủy và các ban ngành của tỉnh đứng chân lâu nhất, các phế tích còn lại rõ nhất. Di tích khu vực Bình Thành được giới hạn bởi kinh Hai Ngàn và tỉnh lộ 839 ở phía Bắc, kinh 62 ở phía Đông, kinh T4 ở phía Tây, kinh 1000 ở phía nam với tổng diện tích 90ha. Đây là vùng trũng thấp có nhiều bưng trấp xen lẫn với những giồng đất cao mọc nhiều loài cây hoang dại như: tràm, đưng, bàng, lau sậy…

Năm 1920 huyện Cửu An được đổi tên thành huyện Thủ Thừa, lúc này di tích thuộc xã Bình Thành, tổng Cửu Cư Thượng, thuộc huyện Thủ Thừa tỉnh Tân An. Địa giới này được giữ nguyên đến năm 1945.

Năm 1946 Ủy ban hành chính kháng chiến Nam bộ ra quyết định thánh lập Quân Khu Đông Thành gồm 5 xã: Thạnh Lợi, Bình Hòa, Bình Thành, Mỹ Thạnh, Mỹ Quý. Năm 1949 đổi lại là khu Đông Thành rồi huyện Đông Thành được nhập với huyện Đức Hòa lấy tên là Đức Hòa Thành.

Năm 1959 Ngô Đình Diệm cắt 3 xã của huyện Đức Hòa và 5 xã của huyện Thủ Thừa lập huyện Đức Huệ tỉnh Long An. Đến năm 1963 Ngô Đình Diệm lại cắt huyện Đức Huệ , Đức Hòa của Long An nhập với Trảng Bàng, Củ Chi thành lập tỉnh Hậu Nghĩa.

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng ngày 13/3/1976 NĐNN nước CHXHCNVN ra quyết định nhập huyện Đức Huệ, Đức Hòa vào địa giới tỉnh Long An. Di tích lúc bấy giờ thuộc xã Bình Thành – huyện Đức Huệ.

Ngày 13/1/1994, một phần đất của xã Bình Thành được tách ra thành lập một xã mới lấy tên là xã Bình Hòa Hưng. Hiện di tích tọa lạc tại xã Bình Thành và Bình Hòa Hưng, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An. Di tích cách thị trấn Đông Thành – Đức Huệ 20km về phía Đông, cách Mỏ Vẹt (biên giới Campuchia) 3km về phía Tây.

Khu di tích lịch sử cách mạng tỉnh Long An là nơi ghi dấu những sự kiện lịch sử trọng đại – trong quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đặc biệt, di tích ghi đậm nét quá trình ra đời và hoạt động của Tỉnh ủy, Tỉnh đội Long An trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ. Tại đây, Tỉnh ủy Long An đã kiên cường bám trụ, trước mọi thủ đạon nhằm hủy diệt của giặc, để lãnh đạo phong trào đấu tranh, góp phần quyết định vào thành tích cao quý TRUNG DŨNG KIÊN CƯỜNG.

Di tích cũng là nơi ghi dấu sự có mặt và hoạt động của Xứ ủy Nam bộ, các cơ quan cao cấp Xứ, cấp Khu, nhiều đơn vị vũ trang của Miền, nhiều nhà lãnh đạo Đảng và quân đội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước;  là bằng chứng cụ thể của quá trình đấu tranh gian khổ và hy sinh cao cả từ buổi đầu kháng Pháp đến chống Mỹ, cứu nước của đồng bào, chiến sĩ không riêng ở Long An mà từ khắp mọi miền đất nước.

Khu di tích lịch sử cách mạng tỉnh Long An là nơi hội tụ những giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp nhất. Đó là lòng yêu nước, chí quật cường, tinh thần chiến đấu dũng cảm với niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng của Đảng bộ và nhân dân Long An, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong sự chuyển mình của đất nước đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, những giá trị truyền thống tốt đẹp ấy, nhất thiết phải được bảo tồn và phát huy cao độ. Với những ý nghĩa trên. Khu di tích lịch sử cách mạng tỉnh Long An xứng đáng được bảo tồn, tôn tạo nhằm phát huy tác dụng giáo dục cho thế hệ mai sau.

2. DI TÍCH LỊCH SỬ: “KHU HỘI ĐỒNG SẦM”

ĐỊA ĐIỂM THÀNH LẬP MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG TỈNH LONG AN 30/12/1960

(Ấp Tân Hòa xã Bình Hòa Bắc – Đức Huệ – Long An.)

Di tích có tên gọi là ” Khu Hội Đồng Sầm”. Hội đồng Sầm là một địa chủ, người gốc Bà Chiểu – Sài Gòn đến khai phá lập đồn điền trồng cao su và lúa từ trước năm 1922. Toàn bộ đất đai là 32 lô, mỗi lô là 25 mẫu, một nửa ở Bình Hòa Bắc, một nửa ở Bình Thành. Dinh cơ và cơ sở vật chất của tên địa chủ như kho tàng và rất nhiều nhà cửa thì tập trng một khu khoảng 20 mẫu, mọi người gọi là khu hội đồng Sầm, thuộc ấp Hòa Tây ( nay là ấp Tân Hòa – trung tâm xã Bình Hòa Bắc).

Sau năm 1945 đất này thuộc chiến Khu Đông Thành do chính quyền kháng chiến quản lý cấp cho nhân dân và có tên là xóm công đoàn. Ngày 30/12/1960 Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh Long An (MTDTGPTLA) ra đời tại trường học của xóm công đoàn (nay là trường tiểu học Nguyễn Văn Nguyên). Tuy nhiên từ đó đến nay cách gọi Khu hội đồng Sầm vẫn mặc nhiên tồn tại và trở thành thông dụng. Ngày nay nhân dân địa hương và các ngành chức năng đều gọi địa điểm này là Khu hội đồng Sầm nơi ghi dấu sự kiện thành lập MTDTGPTLA.

Sau khi đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp, chúng nhảy vào miền Nam thành lập chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm. Bằng những chính sách cực kì phản động, chế độ phát xít Ngô Đình Diệm thẳng tay đàn áp các phong trào yêu nước miền Nam. Trước hoàn cảnh đó cũng như phong trào cách mạng miền Nam ngày càng dân cao ngày 20/12/1960 mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời đã tập hợp một khối đoàn kết yêu nước vĩ đại và tạo ra một thế đối trọng với kế hoạch bình định mới của Mỹ – Diệm: Xtalây – Talơ.

Long An là hành lang chiến lược của Nam bộ, là trọng điểm kế hoạch Xtalây – Talơ, cuộc đồng khởi 1960 ở Long An càng thấy rõ đã đến lúc phải có một tổ chức công khai kêu gọi đoàn kết chống Mỹ – Diệm, hào nhập cùng phong trào yêu nước miền Nam vùng lên giải phóng Nam bộ.

Trong hoàn cảnh đó ngày 30/12/1960 Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh Long An (MTDTGPTLA) ra đời ở “Khu Hội Đồng Sầm”  đánh dấu một bước ngoặc lớn lao, đánh dấu một bước ngoặc lớn lao, trở thành trung tâm đoàn kết tất cả các lực lượng yêu nước của tỉnh , không phân biệt giai cấp, dân tộc, đảng phái, tôn giáo, xu hướng chính trị…để cùng hòa chung vào nhịp đập của phong trào yêu nước miền nam vùng lên giải phóng dân tộc.

Lịch sử đã chứng minh sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc là sức mạnh vô địch. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam nói chung, Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh Long An nói riêng là một nhân tố quyết định thắng lợi của nhân ta trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

3. DI TÍCH LỊCH SỬ “KHU VỰC QUÉO BA”

NƠI GHI DẤU CHIẾN CÔNG PHÁ TAN KHU TRÙ MẬT GIẢI PHÓNG HUYỆN ĐỨC HUỆ 18-10-1964.

(xã Mỹ Quý Tây – huyện Đức Huệ – Tỉnh Long An)

“Khu vực Quéo Ba” là nơi xưa kia có 3 cây quéo cổ thụ (một loại xoài hoang dại, trái nhỏ, hột to) mọc chung  một chỗ nay thuộc xã Mỹ Quý Tây – huyện Đức Huệ – Tỉnh Long An. Dần dần theo thời gian tên Quéo Ba trở thành địa danh một ấp gọi là Quéo Ba. Tại khu vực này vào 1957 tổng thống Ngụy Ngô Đình Diệm đã cho xây dựng nơi đây một khu trù mật Quéo Ba. Dưới sức tấn công liên tục của quân và dân Đức Huệ ngày 18-10-1964 khu trù mật đã bị phá hủy hoàn toàn, huyện Đức Huệ được giải phóng đầu tiên trên địa bàn tỉnh Long An.

Địa danh Quéo Ba đã đi vào lịch sử chống xâm lăng của dân tộc ta, đồng thời ghi dấu tội ác của Mỹ – Diệm đối với nhân dân Đức Huệ trong việc thiết lập khu trù mật, một hình thức kìm kẹp tinh vi.

Với những giá trị cơ bản trên di tích lịch sử “KHU VỰC QUÉO BA” xứng đáng được bảo vệ và phát huy tác dụng trong công tác giáo dục truyền thống.

4. DI TÍCH LỊCH SỬ ” KHU VỰC BẾN PHÀ ĐỨC HUỆ”

ĐỊA ĐIỀM GHI DẤU CHIẾN THẮNG CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG LONG AN. TRONG TRẬN ĐẤU TIÊU DIỆT MỘT ĐẠI ĐỘI CHỦ LỰC THUỘC SƯ ĐOÀN 07 NGỤY, VÀO NGÀY 12/12/1961.

(Thị trấn Đông Thành – Đức huệ – Long An)

Bến phà Đức Huệ là nơi lưu thông, nối dài hai huyện Đức Hòa và Đức Huệ, bị ngăn bởi sông Vàm Cỏ Đông.

Sông Vám Cỏ Đông bắt nguồn từ Campuchia chảy vào nước ta qua tỉnh Tây Ninh, rồi vào Long An làm thành ranh rới thiên nhiên phân chia hai thị trấn Hiệp Hòa (Đức Hòa) và TT Đông Thành (Đức Huệ). Trước kia việc qua lại của nhân dân hai huyện  chủ yếu là xuồng, ghe, đò máy đưa rước. Bến đò lúc đó được gọi là bến đò Mỹ Thạnh Đông đi nhà Thờ Hiệp Hòa và ngược lại. Sau ngày Miền Nam giải phóng, huyện Đức Huệ tiến hành cho đóng  phà qua lại trên sông, giao thông từ đó được nhanh chóng và thuận lợi hơn. Lâu dần thành quen, nhân dân địa phương thường gọi địa điểm này là Bến Phà Đức Huệ.

Di tích “KHU VỰC BẾN PHÀ ĐỨC HUỆ” gắn liền với sự kiện lực lượng vũ trang Long An đánh thắng – diệt gọn – một đại đội chủ lực thuộc sư đoàn 07, Ngụy vào ngày 12/12/1961. Đây là một di tích lịch sử ghi dấu chiến công chống xâm lượt của quân đội ta thời kỳ 21 năm đánh Mỹ – diệt Ngụy trên vùng đất “Long An Trung dũng kiên cường toàn dân đánh giặc”.

            Với giá trị cơ bản trên, di tích lịch sử: “KHU VỰC BẾN PHÀ ĐỨC HUỆ” xứng đáng được Nhà nước bảo vệ để xây dựng tại đây một công trình tưởng niệm, nhằm phát huy tác dụng của công tác giáo dục truyền thống yêu nước đấu tranh cách mạng, cho các thế hệ hôm nay và mai sau.

 

5. DI TÍCH LỊCH SỬ: “KHU VỰC SÂN VẬN ĐỘNG QUÉO BA”

ấp II – xã Mỹ Quý Tây – Đức Huệ – Long An.

Sân vận động Quéo Ba nằm trong vùng đấy giồng, thuộc ấp Quéo Ba (nay là ấp II) xã Mỹ Quý Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An.

Sở dĩ có tên gọi Quéo Ba theo lời kể của các bô lão địa phương – là do vùng đất này xa xưa rất hoang vu, đầy rừng rậm, thú dữ,… Tại đây lúc trước có 3 cấy Xoài quéo (một loại cây xoài trái nhỏ), tàn cây rất lớn tỏa bóng mát xung quanh. Ba cây xoài này đứng kế nhau, gốc to đến mấy người ôm không xuể, nên đã được dâ ở đây gọi tên cho vùng đất này. Dần dần qua truyền miệng dân gian, dần có sự thay đỗi hành chính khác nhau từng thời kì lịch sử thế nào đi chăng nữa, nhưng ở đây dân địa phương vẫn gọi và nhớ về quê mình bằng hai chử “Quéo Ba”.

Tại khu vực sân vận động Quéo Ba, ngày 01/05/1948 đã đi vào lịch sử với sự kiện thực dân Pháp thả bom thảm sát hàng trăm nhân dân các xã của huyện Đức Hòa – huyện Đức Huệ (Long An), Trảng Bàng (Tây Ninh), và một số sư sãi người huyện Soài Tiệp (tỉnh Soài Riêng – Campuchia)…. Trong lúc đang tập trung ở đây chuẩn bị tham dự cuộc mit-tinh kỷ niệm ngày lể Quốc Tế Lao Động 01.05.

Di tích: “KHU VỰC SÂN VẬN ĐỘNG QUÉO BA” gắn liền với sự kiện Thực Dân Pháp thả bom thảm sát hàng trăm đồng bào ta vào ngày 1/5/1948, trong khi mọi người ở đây chuẩn bị tham dự cuộc mit-tinh kỷ niệm ngày lể Quốc Tế Lao Động 01.05.

Di tích này còn là một điểm son, một địa chỉ đỏ của Long An: Nơi đây từng là điểm đóng quân và huấn luyện cán bộ chiến sĩ của Quân Khu Đông Thành, một trong những chiến khu nổi tiếng của Cách mạng Miền Nam thời kỳ đầu quân dân ta đứng lên kháng chiến chống Pháp xâm lượt.

Với những giá trị cơ bản trên, di tích lịch sử: “KHU VỰC SÂN VẬN ĐỘNG QUÉO BA” xứng đáng được nhà nước bảo vệ và phát huy tác dụng trong công tác giáo dục truyền thống cho các thế hệ hôm nay và mai sau.

 

6. DI TÍCH LỊCH SỬ

MIẾU ÔNG LÊ CÔNG TRÌNH

Ấp 4, Mỹ Thạnh Đông, huyện Đức Huệ, Long An

Di tích lịch sử gọi là Miếu Ông, dân gian thường gọi là Miếu Ông Giồng Đế. Đây là nơi thời tự ông Lê Công Trình một người có công đánh giặc, cứu nước theo truyền thuyết dân gian.

Miếu Ông ngoài chức năng là cơ sở tính ngưỡng dân gian, còn là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Miếu Ông ngoài chức năng là cơ sở tính ngưỡng dân gian, còn là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 theo truyền thuyết của dân gian. Miếu Ông là trung tâm tín ngưỡng của nhân dân địa phương, thể hiện khối gắn kết cộng động, phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân.

Trong cuộc cách mạng tháng tám năm 1945, Miếu Ông là nơi thành lập và hoạt động của tổ chức Thanh Niên Tiền Phong, lực lượng nòng cốt góp phần khởi nghĩa thành công trên địa bàn xã Mỹ Thạnh Đông ngày 25-8-195.

Trong 9 năm trường kì kháng chiến chống Pháp, Miếu Ông là địa điểm mở lớp Bình dân học vụ (1948-1952), góp phần quan trọng cho phong trào xóa nạn mù chử ở địa phương lúc bấy giờ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ánh sáng văn hóa, giáo dục trong kháng chiến lan tỏa khắn nơi, soi rọi đến cả những vùng xa xôi hẻo lánh. Đối với người nông dân, việc biết đọc, biết viết là sự đổi đời thực sự mà cách mạng đã mang lại cho họ. Ngoài ra, Miếu Ông còn là địa điểm mít tinh của quần chúng, nơi tổ chức văn nghệ phục vụ nhân dân thời kỳ 9 năm chống  Pháp.

Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, Miếu Ông là nơi diễn ra nhiều cuộc họp bí mật, trong đó có cuộc họp quyết định phát động quần chúng nổi dậy phá thế kiềm kẹp của địch ở vùng nông thôn, tiến tới giải phóng xã nhà trong phong trào Đồng Khởi 1960-1961, góp phần giải phóng xã nhà huyện Đức Huệ năm 1964. Ngoài ra Miếu Ông còn là địa điểm xử tội, kết án từ hình những tên Việt gian bán nước, tay sai ác ôn có nhiều nợ máu với cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Mỹ Thạnh Đông.

Với những giá trị trên, di tích xứng đáng được bảo vệ, phục hồi, tôn tạo phục cụ tham quan du lịch, đồng thời góp phần giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ hôm nay và mai sau.

7. DI TÍCH LỊCH SỬ

ĐỊA ĐIỂM THÀNH LẬP KHU 7, KHU 8, KHU 9

Xã Bình Hòa Nam, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An

Địa điểm thành lập Khu 7, Khu 8, Khu 9 tọa lạc tại khu kinh Cùng và rạch Xèo Tràm, làng Bình Hòa, quận Thủ Thừa, tỉnh Tân An (nay thuộc ấp 3, xã Bình Hòa Nam, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An). Nơi đây, ngày 10/12/1945, Xứ ủy lâm thời Nam Bộ tổ chứ hội nghị thành lập Khu 7, Khu 8, Khu 9. Đây là sự kiện lịch sử, đánh dấu bước công tác quan trọng về tổ chức quân sự – hành chính của Đàng ở Nam Bộ, để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến 9 năm trường trì chống thực dân Pháp xâm lược.

Với vị trí đặn thù của vùng sông, rạch chằng chịt, địa hình rậm rạp và đặn biệt là tinh thần yêu nước của nhân dân nơi đây, làng Bình Hòa (nay là Bình Hòa Namvà Bình Hòa Bắc) đã được Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ chọn làm điểm đóng quân ngay sau khi thực dân Pháp nổ súng tại Sài Gòn và đánh lan rộng cách tỉnh ở Nam Bộ.

Di tích còn là địa điểm đóng quân của Văn phòng Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ (lúc bấy giờ gọi là cơ quan Tổng phát hành), tổng hành dinh Khu 7, Quan Y và các đơn vị bộ đội như chi đội 13 và chi đội 15. Các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và lục lượng vũ trang như Tôn Đức Thắng, Lê Duẫn, Hoàng Quốc Việt, Phạm Hùng, Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Nguyễn Bình, Trần Văn Trà đã từng hoạt động nơi đây. Các đồng chí lãnh đạo đã thể hiện bản lĩnh, ý chí, tinh thần cách mạng cao cả trong hoàn cảnh vô cùng phức tạp của Nam Bộ lúc bấy giờ, góp phần quan trọng vào tháng lợi vẻ vang trong sự nghiệp đấu tranh chống giặc ngoại xâm trên mảnh đất Nam Bộ thành đồng Tổ Quốc. Di tích đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng ta trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc. Với tình hình hết sức phức tạp ở Nam Bộ sau cách mạng tháng tám năm 1945, bằng tầm nhìn chiếc lược, Đảng ta đã xây dựng lực lượng vũ trang Nam Bộ thành một khối thống nhấ, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, động viên, kiêu gọi đồng bào Nam Bộ và nhân dân cả nước quyết tâm kháng chiến đến cùng, dù trải qua gian khổ, hy sinh, quyết bảo vệ nền độc lập dân tộc. Di tích đã gợi cho chúng ta về sức mạnh và truyền thống cách mạng của nhân dân địa phương. Họ đã cưu mang, bảo vệ các cơ quan, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo được an toàn trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, rối ren, phức tạp trước sự đánh phá của kẻ thù xâm lược.

Với những giá trị lịch sử quan trọng trên, di tích Địa điểm thành lập Khu 7, Khu 8, Khu 9 thuộc xã Bình Hòa Nam, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An xứng đáng được bảo vệ, tôn tạo và phát huy tác dụng trong công tác giáo dục truyền thống và tham quan du lịch.

8. DI TÍCH LỊCH SỬ

” ĐỊA ĐIỂM ĐẾ QUỐC MỸ THẢM SÁT

NHÂN DÂN VÀM RẠCH GỐC”

Rạch Gốc là một con rạch nhỏ chảy từ sông Vàm Cỏ Đông và trong vùng bưng, thuộc xã Mỹ Thạnh Đông, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An. Do lòng  rạch quanh co, nước chảy siếc nên lâu ngày đất ở hai bên bờ rạch bị xói lở, cây cối bị trốc gốc, lòi rễ vì thế nên nhân dân thường gọi là Rạch Gốc.

Tại nhà ông Võ Văn Cứng, đầu Vàm Rạch Gốc, ngày 27/11 năm Mậu Thân (15/1/1969), đế quốc Mỹ đã thảm sát dã man 16 người dân vô tội trong đó có 3 phụ nữ đang mang thai gần đến ngày sinh. Từ đó về sau, dân nhân thường gọi sự kiện này là vụ thảm sát Vàm rạch Gốc.

Địa điểm đế quốc Mỹ thảm sát nhân dân Vàm Rạch Gốc là nơi ghi dấu tội ác dã man của kẻ thù, là bằng chứng hùng hồn nhất để tố cáo bản chất cuộc chiến tranh phi nghĩa mà đế quốc Mỹ và bọn tay sai đã tiến hành tại Việt Nam.

Địa điểm thảm sát Vàm Rạch Gốc đã đi vào lịch sử với tính chất là một trong những cuộc thảm sát với thủ đoạn đã man, tàn độc nhất của đế quốc Mỹ đối với nhân dân Mỹ Thạnh Đông nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Di tích địa điểm thảm sát Vàm Rạch Gốc là bằng chứng cho tinh thần quật khởi, lòng yêu nước, quyết tâm bám đất, bám làng, ủng hộ sự nghiệp cách mạng cao cả của người dân Rạch Gốc nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung dù biết rằng họ phải trãi qua những đau thương, mất mắc không gì bù đấp được.

Với những giá trị trên, di tích lịch sử “Địa điểm đế quốc Mỹ thảm sát nhân dân  Vàm Rạch Gốc ngày 27/11 năm Mậu Thân (15/1/1969)”  xứng đáng được bảo vệ, tôn tạo nhằm giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ đương thời và mai sau.

 

9. DI TÍCH GIỒNG DINH

Ấp Dinh – xã Mỹ Thạnh Tây – Đức Huệ – Long An

“Giồng Dinh” là tên 1 ấp thuộc xã Mỹ Thạnh Tây – huyện Đức Huệ – tỉnh Long An. Nằm về phía Tây Bắc của Thị Xã Tân An (Long An). Trong thời kì kháng chiến chống Pháp lần hai nó thuộc chiến khu Đông Thành, do vị trí đặc biệt của 5 xã Bắc Thủ Thừa; Thạnh Hội; Bình Thành; Mỹ Thạnh; Mỹ Quý. Phần lớn các cơ quan lãnh đạo kháng chiến Cấp Điền; Khu 7, Thành Phố Sài Gòn – Chợ Lớn và một số tỉnh,… đã tập trung về đóng nơi đây. Trước tình hình đó 1946 Ủy Ban Kháng Chiến Miền Nam quyết định thành lập Quân Khu Đông Thành. Một chiến khu có vị trí chiến lượt rất quan trọng. tháng 3-1947 Thực dân Pháp mở cuộc càn quét qui mô lớn vào Đông Thành, trọng điểm là dùng binh chủng dù đánh vào Giồng Dinh nhằm tiêu diệt các cơ quan đầu não ở đây của ta.

Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chánh Nam Bộ. Xứ Ủy Nam Bộ, Khu 7,…. Và tại nơi đây ngày 9/3/1947 trung đội bảo vệ thuộc Chi Đội Hải ngoại IV cùng các lực lượng địa phương đã bẻ gãy cuộc tấn công này, tiêu diệt gọn hai Trung đội lính dù của Thực dân Pháp.

Chiến thắng Giồng Dinh đã tạo niềm tin đối với quân dân ta, khẳng định ta hoàn toàn đánh bại được những lực lượng hiện đại và tinh nhuệ của thực dân Pháp. Chiến thắng Giồng Dinh đã đi vào lịch sử, mãi mãi là niềm tự hào bất diệt của quân dân Đông Thành nói riêng, nhân dân ta nói chung.

 

10. DI TÍCH

MIẾU ÔNG GIỒNG LỚN

Di tích có tên gọi là Miếu Ông, dân gian thường gọi Miếu Ông Giồng Lớn, là nơi thờ tự ông Lê Công Trình. Miếu Ông là cơ sở tín ngưỡng dân, đồng thời nơi đây đã diễn ra những sự kiện lịch sử quan trọng trong hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ở địa phương.

Miếu Ông tọa lạc tại ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Thạnh Tây,huyện Đức Huệ, tỉnh Long An.

Trong cuộc “Nam tiến” của lưu dân người Việt để khai phá vùng đất Nam Bộ dưới thời các chúa Nguyễn vào thế kỷ XVII, cùng Đồng Tháp Mười ngày nay lúc bấy giờ còn hoan vu, thưa thớt bóng người. Đến thế kỷ XVIII, dọc theo lưu vực sông Vàm Cỏ Đông, giữ những vùng đất trũng đà hình thành một số cao sau này có tên gọi là Giồng Lớn, Giồng Dinh, Giồng Doi, Giồng Đế,…

Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, năm 1947, Ủy Ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ quyết định thay đổi tên gọi hành chánh (quận đổi thành huyện, làng đổi thành xã) cũng như chia tách địa bàn một số làng để phù hợp tình hình và thuận lợi trong công tác chỉ đạo thời chiến.

Trên cơ sở đó, làng Mỹ Thạnh Đông được chia làm 3 xã: Mỹ Thạnh Đông, Mỹ Thạnh Tây, Mỹ Thạnh Bắc (tên gọi này vẫn tồn tại đến ngày nay). Lúc này, di tích thuộc xã Mỹ Thạnh Tây, huyện huyện Thủ Thừa, tỉnh Tân An.

Thời kì chống Pháp, địch vẫn giữ nguyên cách phân chia địa giới hành chính như củ. Về phía ta, vào năm 1948, Ủy ban Kháng chiến – Hành chánh Nam Bộ ra quyết định thành lập khu Đông Thành gồm các xã ven sông Vàm Cỏ Đông là: Mỹ Thạnh ĐÔng, Mỹ Thạnh Tây, Mỹ Thạnh Bắc, Bình Hòa Bắc, Bình Hòa Nam, Bình Thành, Mỹ Quý Đông, Mỹ Quý Tây.

Lúc bây giờ, di tích thuộc xã Mỹ Thạnh Tây, khu Đông Thành. Năm 1949, khu Đông Thành đổi thành huyện Đông Thành, tỉnh Chợ Lớn. Năm 1951, huyện Động Thành được sát nhập với huyện Đức Hòa, lấy tên là Đức Hòa Thành, thuộc Gia Định Ninh.

Năm 1956, tổng thống ngụy quyền Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh 143/NV thành ;ập tỉnh Long An trên cơ sở sát nhập tỉnh Tân An và tỉnh Chợ Lớn. Lúc bây giờ xã Mỹ Thạnh Tây thuộc quận Thủ Thừa, tỉnh Long An. Năm 1959, Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh số 48/NV/PTT thành lập quận Đức Huệ gồm 5 xã phía bắc quận Thủ Thừa và 3 xã của quận Đức Hòa. Theo sắc lệnh này, từ ngày 03/03/1963, ngụy quyền Sài Gòn lại cắt hai quận Đức Hòa và Đức Huệ của tỉnh Long An sát nhập với quận Trảng Bàng của tỉnh Tây Ninh và quận Củ Chi của tỉnh Gia Định để thành lập tỉnh Hậu Nghĩa.

Từ đó đến ngày miền Nam giải phóng, di tích thuộc xã Mỹ Thạnh Tây, quận Đức Huệ, tỉnh Hậu Nghĩa.

Sau khi nước nhà thống nhất Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 19-NQ/TW  ngày 20/12/1975 về việc điều chỉnh hợp nhất, lấy tên chung là tỉnh Long An. Từ đó đến nay, Miếu Ông Giồng Lớn thuộc ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Thạnh Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An.

LỊCH SỬ

PHẦN TÓM TẮT

            Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, trong đó có quân và dân Đức Huệ bắt đầu từ ngày Nam bộ kháng chiến (23-9-1945) đã kết thúc thắng lợi, bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

          “Chặng đường ba mươi năm ấy là bản anh hùng ca vĩ đại trong lịch sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Bản anh hùng ca ấy mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ hai mươi, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế và có tính thời đại sâu sắc…”.

          Cùng với đồng bào chiến sĩ cả nước, niềm mơ ước cháy bỏng trong lòng cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Đức Huệ (Long An) chiến đấu suốt ba mươi năm qua đã được thực hiện. Nỗi đau mất nước hơn một thế kỷ, nay được rửa sạch. Quê hương đất nước được hoàn toàn giải phóng. Non sông thu về một mối. Đức Huệ (Long An) cùng cả nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Quân dân Đức Huệ tự hào vì đã chiến đấu trên một vùng căn cứ chiến lược của Nam bộ, mảnh đất thành đồng của Tổ quốc, tô thắm cho truyền thống quê hương đất nước.

          Sự phấn đấu hy sinh đóng góp của quân và dân Đức Huệ suốt 30 năm (1945-1975) cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc thật to lớn, trong đó có 1.632 liệt sĩ, 568 thương bệnh binh từ hạng 4 đến hạng 1; 4.088 gia đình có công với nước, trong đó có 896 gia đình cán bộ, 3.192 gia đình có người tham gia kháng chiến và nuôi giấu lực lượng cách mạng.

          Đức Huệ được Đảng và Nhà nước phong tặng đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân gồm: Quân dân huyện Đức Huệ, xã Mỹ Thạnh Đông, xã Bình Hòa Nam, xã Mỹ Quý Tây, xã Bình Hòa Bắc, xã Bình Thành, xã Mỹ Quý Đông, xã Mỹ Thạnh Bắc, xã Mỹ Thạnh Tây.

          Có 86 bà mẹ Việt Nam anh hùng và 6 cá nhân được tuyên dương anh hùng LLVTND.

          Trong thời kỳ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam Tổ quốc (1976-1979), Đức Huệ đã thể hiện như người lính tiên phong, đứng trên tuyến đầu, bảo vệ biên cương, lãnh thổ thân yêu của Tổ quốc. Quân dân Đức Huệ vừa phải khắc phục với hậu quả của 30 năm chiến tranh để lại, vừa phải chấn chỉnh đội ngũ về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, vừa phải đánh bại và đẩy lùi bọn phản động Pôn-pốt-Iêng-xa-ri tay sai của các thế lực thù địch, đánh phá, lấn chiếm biên giới, hòng phá hoại công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân Việt Nam. Hàng ngàn thanh niên Đức Huệ tiếp tục lên đường nhập ngũ. Hàng trăm người con Đức Huệ đã phải ngã xuống để bảo vệ quê hương, mảnh đất thân yêu của Tổ quốc. Nổi bật là nhân dân Đức Huệ đã phải cưu mang, giúp đỡ gần một vạn đồng bào Campuchia sang lánh nạn diệt chủng của bọn Pôn-pốt-Iêng-xa-ri; giúp đỡ cách mạng nước bạn trong việc xây dựng lực lượng cơ sở ở vùng ven biên giới Đức Huệ; phối hợp với các lực lượng, mười năm (1979-1989) làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả của Đảng, đưa nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, tiến lên xây dựng nền độc lập dân tộc theo xu hướng chung của thời đại, viết tiếp những trang sử của Đức Huệ anh hùng, truyền thống của Long An “Trung dũng kiên cường toàn dân đánh giặc”.

PHẦN CHI TIẾT

MỞ ĐẦU

VÀI NÉT VỀ ĐẤT VÀ NGƯỜI VÙNG TỔNG CỬU CƯ THƯỢNG

TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 -1945 (NAY LÀ HUYỆN ĐỨC HUỆ)

I. Vị trí, địa lý, địa danh, địa giới:

1. Vị trí địa lý:

           Đức Huệ có diện tích tự nhiên 43.162,9 ha, bắc giáp tỉnh Tây Ninh, đông giáp huyện Đức Hoà theo ranh giới sông Vàm Cỏ Đông, nam giáp huyện Thủ Thừa, tây giáp tỉnh SvâyRiêng (Campuchia). Đường biên giới Việt Nam –Campuchia thuộc phần đất Đức Huệ dài gần 30 km. Tính đến tháng 12 năm 2013 dân số Đức Huệ khoảng 60.000 người.

           Đặc điểm tự nhiên nổi bật nhất của Đức Huệ là môi trường, cảnh quan thiên nhiên bị chi phối bởi các quy luật thời tiết, nguồn mưa và nước lũ. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4, tháng 5 âm lịch hàng năm, nước từ thượng nguồn 2 sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây dồn về, tràn qua các sông rạch, đổ về Đức Huệ mang theo nhiều tôm cá và phù sa nhưng lại nhấn chìm và giết chế cây cỏ, lúa và hoa màu nơi thấp. Mùa khô, vào khoảng tháng 11 âm lịch, mưa ngưng, nước rút ra sông biển, dồn xuống các ao đầm láng trấp… trả lại cho đất đai thêm phù sa màu mỡ; cây cỏ, lúc và hoa màu lại xanh tươi.

           Ngược dòng lịch sử thì đất Đức Huệ xa xưa là vùng bưng đất hoang dại đầy những cọp, voi, heo rừng, trâu rừng, hươu, nai, thỏ, rùa, cá sấu, trăn, rắn,… Những địa danh thường gọi như: Bưng Bàu Voi, bưng Bàu Sấu, Giồng Ông Hổ… chứng minh điều đó. Đây là vùng đất đông bắc Đồng Tháp Mười không được thiên nhiên ưu đãi.

2. Địa danh, địa giới:

          Đức Huệ là một đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Long An, gồm 01 thị trấn và 10 xã.

         Tên quận (huyện) Đức Huệ tỉnh Long An mới có từ tháng 3 năm 1959. Trước đó, vùng đất này mang những tên gọi khác nhau thuộc địa bàn quản lý khác nhau. Dưới thời kỳ thuộc Pháp (1862 -1945) gọi là Tổng Cửu Cư Thượng, huyện Cửu An (Thủ Thừa), phủ Tân An, tỉnh Gia Định. Khu Đông Thành (1948 -1949), huyện Đông Thành, tỉnh Chợ Lớn (1950 -1951). Một phần đất của Huyện Đức Hoà Thành, tỉnh Gia Định Ninh (1952 -1954). Tách phần đất Đông Thành trả về Huyện Thủ Thừa, tỉnh Tân An (1954 -1958). Đức Huệ tỉnh Long An (1959 đến nay).

       Đất Đức Huệ dù mang những tên gọi khác nhau qua thực tế từng thời kỳ lịch sử, song người Đức Huệ vẫn giữ vững tính cách đặc trưng của người dân Nam Bộ; cần cù, sáng tạo trong lao động chinh phục thiên nhiên, bắt vùng đất khắc nghiệt này tạo ra của cải vật chất và giá trị văn hoá tinh thần anh dũng kiên cường trong đấu tranh, đánh bại mọi kẻ thù bán nước và cướp nước, góp phần làm rạng rỡ truyền thống Long An “Trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc”; truyền thống của dân tộc Việt Nam.

II. Truyền thống đấu tranh của nhân dân Tổng Cửu Cư Thượng (1861 -1945).

1. Giai đoạn 1861 -1930:

       Tiếng súng xâm lược của thực dân Pháp chiếm Đà Nẵng (1858) đánh chiếm Sài Gòn (1860) đã đẩy nhân dân Việt Nam vào thảm hoạ mất nước. Chính quyền phong kiến nhà Nguyễn đã không lo tổ chức nhân dân kháng chiến mà còn từng bước nhường đất và ký kết đầu hàng thực dân Pháp: hàng ước 1862 bán cho Pháp 3 tỉnh miền Đông Nam bộ; hàng ước 1874 bán cho Pháp cả Nam bộ và hàng ước 1884 bán cho Pháp cả Việt Nam. Mặc triều đình bán nước, nhân dân vẫn nổi dậy theo các lãnh tụ Cần Vương, nông dân, tiểu tư sản chống Pháp.

       Năm 1916, ông Phan Văn Hảo cùng một số hội viên “hội kín” Phan Xích Long ở làng Bình Hoà (Cửu Cư Thượng) tham gia cuộc mưu phá khám lớn Sài Gòn. Năm 1922, ông Mười Thủ cùng một số hội viên “Hội miếu” để tập hợp người yêu nước giác ngộ nhau chống Pháp. Tất cả các phong trào yêu nước năm 1930 vẫn chưa đủ điều kiện để dẫn dắt nhân dân qua khỏi vòng nô lệ.

2. Giai đoạn Đảng ra đời và giành độc lập 1930 -1945:

       Trong đêm đen nô lệ, người dân Cửu Cư Thượng đang đói rách đau thương thì một luồng sinh khí mới, luồng gió cách mạng thôi thúc họ, ánh sáng cách mạng dẫn đường họ đi lên tranh đấu. Ngày 3-2-1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đại diện Quốc tế Cộng sản từ Thái Lan về Hương Cảng (Trung Quốc) triệu tập các tổ chức cộng sản ở Việt Nam sang họp hội nghị họp nhất, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 10-1930 đồng chí Trần Phú được cử làm Tổng Bí thư của Đảng. Cơ sở Đảng cộng sản xuất hiện rất nhanh ở các tỉnh, các quận, các tổng trong toàn Nam bộ vì nó là tổ chức đáp ứng nguyện vọng giải phóng của giai cấp công nhân, nông dân và người lao động.

        Vào những năm 1931 -1932, đồng chí Phạm Văn Khương về tổng Cửu Cư Thượng xây dựng cơ sở Đảng ở các làng Bình Hoà, Bình Thành và Mỹ Thạnh. Những đảng viên đầu tiên của vùng Cửu Cư Thượng thời ấy là: Nguyễn Văn Đua, Nguyễn Văn Bân, Nguyễn Văn Cử, Nguyễn Văn Xồi, Lê Văn Bân… họ là những hạt giống đỏ nẩy mầm trên quê hương Đức Huệ.

        Ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam đã lan ra khắp nước. Nhân dân Nghệ Tĩnh đã đi đầu trong cao trào cách mạng 1930 -1931. Nhân dân Cửu Cư Thượng có những đại diện tham gia các cuộc đấu tranh ở quận lỵ Đức Hoà (Chợ Lớn) quận lỵ Thủ Thừa (Tân An) hưởng ứng cao trào ấy.

      Năm 1936, các cơ sở Đảng lần lượt được hồi phục. Tháng 7-1936, đồng chí Lê Hồng Phong là uỷ viên dự khuyết của Quốc tế cộng sản đã triệu tập hội nghị Trung ương Đảng tại Hương Cảng (Trung Quốc) để quyết định thành lập “Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương” (sau đổi là Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương) nhằm chống chiến tranh, chống phát xít, đòi dân chủ, tự do, cơm áo, hoà bình.

       Tại làng Bình Thành, một uỷ ban hành động đã thành lập có trụ sở làm việc tại ngã ba Bình Thành. Trụ sở này do ông Hai Xồi quản lý với bề ngoài là tiệm ăn và bán tạp hoá. Chính đây là cơ sở, là nơi liên lạc hoat động của các đồng chí Phạm Văn Khương, Trần Mai Sanh và nữ đồng chí Ngô. Trong làng lập “Hội âm công ái hữu” do Tư Tổng phụ trách. Hội đã phát triển tới 200 hội viên, hoạt động thường xuyên là giúp nhau trong sinh hoạt, trong tang lễ. Hội tuyên truyền tư tưởng cách mạng và vạch tội ác của bọn địa chủ, thực dân Pháp. Tập hợp ý nguyện dân vào bản kiến nghị, đòi “tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình” để “Uỷ ban hành động” chuyển lên chính quyền bảo hộ.

        Tính đến năm 1940, Cửu Cư Thượng đã xây dựng được 3 chi bộ ở 3 làng: Bình Hoà, Bình Thành và Mỹ Thạnh. Có Đảng lãnh đạo, phong trào quần chúng cách mạng lại lên cao.

* Trong Nam Kỳ khởi nghĩa (1940):

         Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ vẫn nổ ra theo dự kiến vào đêm 22, rạng sáng 23-11-1943. Nghĩa quân đã triệt hạ nhiều đồn bót giặc, phá tan nhiều cơ quan chính quyền địch. Cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở một số địa phương. Tại tỉnh Tân An, Ban chỉ đạo khởi nghĩa do đồng chí Trần Trung Tam –Bí thư Tỉnh uỷ làm trưởng ban, quyết định chọn Cửu Cư Thượng (quận Thủ Thừa) làm căn cứ chuẩn bị khởi nghĩa, chủ trương tháo gỡ số máy móc (tiện, bào, hàn) ở Nhà máy Đường Hiệp Hoà chuyển về căn cứ Mớp Xanh (Cửu Cư Thượng) để sản xuất vũ khí. Ban chỉ đạo khởi nghĩa quận Thủ Thừa do đồng chí Nguyễn Văn Ban làm trưởng ban quyết định thành lập lực lượng nghĩa quân ở Cửu Cư Thượng gồm 3 đại đội. Đồng chí Rồng Nhỏ chỉ huy đại đội 1, Lê Minh Quang chỉ huy đại đội 2… Nghĩa quân được tập luyện tại vùng Tràm Tân Đông, kinh Bo Bo, Tràm Ba Làng, Giồng Ba Làng, Giồng Dinh, Giồng Lức, Mớp Xanh… chưa nhận được lệnh khởi nghĩa thống nhất toàn miền thì nghĩa quân đã tiến công đốt khu nhà của Hội Đồng Sầm ở Bình Thành, khiến tên tay sai của Pháp phải bỏ trốn.

            Sáng ngày 23-11-1940, khi được lệnh khởi nghĩa nghĩa quân đã chia hai ngã để hành động. Đồng chí Lê Minh Quang và Lê Văn Tưởng phụ trách cánh quân phía Vàm Cỏ Đông nổi dậy. Nghĩa quân đã tước khí giới của 1 tên Pháp ở cầu Ông Huyện, tước khí giới bọn tề làng Bình Thành, tiến công đồn Tắt Gừa thu 10 súng trường, bắt tên phó hương hào làng Bình Hoà, dẹp hết bọn tề làng Mỹ Thạnh Đông, đốt nhà việc làng Thạnh Lợi, tiến công nhà việc xã Mỹ Quý. Đồng chí Lưu Dự Châu phụ trách cánh quân phía Vàm Cỏ Tây kết hợp với đồng chí Lê Văn Của, Lê Văn Nhỏ chỉ huy nghĩa quân Mộc Hoá lấy đồn Trà Cú (đất Long Ngãi Thuận, giáp Thuận Nghĩa Hoà). Sáng ngày 23-11-1940 chiếm xong đồn Trà Cú, nghĩa quân giương cờ liềm búa, nổi mõ trống, hô khẩu hiệu kêu gọi đồng bào hai bên sông Vàm Cỏ Tây nổi dậy và cùng hướng về giải phóng quận lỵ Thủ Thừa.

         Trên đường tiến quân, nghĩa quân cùng đồng bào hai ven sông nổi dậy chiếm đồn Long Ngãi Thuận, Tân Đông và Mỹ Lạc Thạnh. Nghĩa quân định tiến đánh quân lỵ Thủ Thừa nhưng không có tín hiệu từ Sài Gòn và chưa đủ các cánh quân phối hợp.

        Tối 23-11-1940, Tỉnh uỷ Tân An đã thông báo cho các quận biết cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn không thành. Tỉnh uỷ chủ trương: đại bộ phận lực lượng khởi nghĩa trở về vị trí hợp pháp, số bị lộ thì lánh đi nơi khác. Phần lớn cán bộ, đảng viên tạm lánh lên vùng rừng tràm phía Bắc của tỉnh.

        Sáng ngày 24-11-1940 quân địch đã bung ra khủng bố khắp nơi từ toàn miền, tới tổng làng ở Nam kỳ. Chúng cho máy bay ném bom tàn sát nhân dân, dùng dây thép xâu tay nhiều người vào nhau, đứng phơi nắng cho đến chết hoặc nhận chìm xuống biển. Chúng bắt đi hàng nghìn chiến sỹ yêu nước, xử bắn một số chiến sỹ ưu tú của Đảng bị bắt trước cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai,…), địch đã bắt đi và ám hại những người con ưu tú của Cửu Cư Thượng như đồng chí Nguyễn Văn Dơn ở Bình Thành, đồng chí nguyễn Văn Chơn ở Mỹ Quý, các đồng chí Lê Văn Bân, Huỳnh Văn Tý, Huỳnh Văn Hoa, Huỳnh Văn Tại, Huỳnh Văn Tắc, Phạm Văn Mắt, Phạm Văn Đem ở làng Mỹ Thạnh Đông. Đầu tháng 12-1940, Xứ uỷ Nam kỳ cử đồng chí Nguyễn Văn Tiếp về dự cuộc họp của Tỉnh uỷ Tân An tại Giồng Nổi (Bo Bo) để củng cố lực lượng nghĩa quân, xây dựng căn cứ du kích Mớp Xanh (Bình Thành).

           Sau cuộc họp, căn cứ Mớp Xanh được thành lập, Ban chỉ huy căn cứ gồm: đồng chí Lưu Dự Châu (trưởng), Lê Minh Quang (phó), Lê Văn Của (đại đội trưởng nghĩa quân), đồng chí Bực (đại đội phó). Hoạt động của nghĩa quân trong căn cứ rất đa dạng: luyện tập quân sự, kiếm pháp; ra tờ báo “Nhà quê”, in truyền đơn, bí mật truyền tới đồng bào, giác ngộ kẻ lầm đường. Nghĩa quân tổ chức bắt diệt bọn ác ôn trong làng như Tạ Văn Mao, chặn đánh tàu buồm biển trên sông Vàm Cỏ Tây (12-1940), đánh tập kích đồn Bình Hoà (1-1941).

        Tháng 3-1941 do yêu cầu bức xúc phải đưa cán bộ đi xây dựng cơ sở chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa cả nước nên Xứ uỷ Namkỳ quyết định giải thể khu căn cứ Mớp Xanh. Đồng chí Lưu Dự Châu được cử về làm Bí thư Tỉnh uỷ Gia Định. Các đồng chí khác được phân công về các địa phương xây dựng cơ sở Đảng. Cơ xưởng chế tạo vũ khí ở Mớp Xanh được dời về làng An Lục Long (Châu Thành). Đồng chí Lê Văn Ánh (Tư Đèo) chỉ huy 1 tiểu đội nghĩa quân, ở lại Mớp Xanh, xây dựng cơ sở Đảng trong nhân dân.

          Sáng ngày 30-5-1941, bọn cảnh sát thực dân Pháp và lính mã tà (khoảng 1 trung đội) càn quét vào căn cứ Mớp Xanh chỉ còn 10 nghĩa quân tự vệ. Các nghĩa quân đã chiến đấu rất dũng cảm, song đã thêm vài người bị bắt và hy sinh. Sáng hôm sau, địch xiết vòng vây vào bãi tràm thì chỉ còn mấy nghĩa quân là: Tư Đèo, Ba Cương, Tám và Út Tiếu. Ta đã diệt hàng chục tên địch, hy sinh 3 nghĩa quân trong đó có đồng chí Ba Cương. Đồng chí Tư Đèo bị thương, gượng chạy về Giồng Thủ Tính (Bình Hoà) được cơ sở nuôi giấu và chữa lành vết thương. Đồng chí còn tổ chức được 2 cơ sở hợp pháp để hoạt động bảo vệ căn cứ Tràm Ba Làng. Gương chiến đấu dũng cảm của nghĩa quân còn sáng mãi trong lòng người dân Cửu Cư Thượng.

        Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Nam kỳ nói chung và Cửu Cư Thượng nói riêng đã cho ta những bài học xương máu về thời cơ, về tổ chức xây dựng lực lượng, phối hợp hành động, về điều kiện khởi nghĩa. Đó là cuộc diễn ập để tiến tới cuộc tổng khởi nghĩa thắng lợi tháng 8 năm 1945.

PHẦN THỨ NHẤT

TRÊN VÙNG ĐẤT CỬU CƯ THƯỢNG (CHIẾN KHU ĐÔNG THÀNH) TRONG CHÍN NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 – 1954)

 

CHƯƠNG I

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ NHỮNG NGÀY ĐẦU XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN, THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH VIỆT MINH

(8-1945 – 9-1948)

1. Cửu Cư Thượng trong Cách mạng tháng Tám 1945

Đầu tháng 5-1945, chiến tranh thế giới thứ hai đến hồi kết thúc. Phát xít Đức đầu hàng đồng minh không điều kiện. Ngày 13-8-1945, phát xít Nhật cũng đầu hàng đồng minh. Ngày 14 và 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) phát động toàn quốc nổi dậy, giành lấy chính quyền trước khi đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật ở Đông Dương. Tỉnh uỷ quyết định chớp thời cơ hành động. Các đồng chí Nguyễn Văn Trọng, Bí thư Tỉnh uỷ và Lê Minh Xuân, Uỷ viên Thường vụ đã tương kế tựu kế, đưa lực lượng xông vào trại lính “Bảo an”, ra lệnh bọn này đầu hàng, nộp kho súng (140 khẩu). Sau đó, đồng chí Chín Trọng đến trụ sở Thanh niên tiền phong, triển khai chiếm các công sở và cắm cờ đỏ sao vàng. Tỉnh lỵ Tân An khởi nghĩa thắng lợi đã cổ vũ các quận nổi dậy.

Tại tổng Cửu Cư Thượng, quận Thủ Thừa lực lượng cách mạng đã tập trung ở các làng Bình Thành, Bình Hoà, Mỹ Thạnh do các đồng chí Lê Văn Tần làm trung đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Đua làm trung đội phó đã trực tiếp chỉ huy việc giành chính quyền, phân công các mũi tiến công vào lực lượng địch ở làng Mỹ Thạnh. Tiểu đội 1 do Nguyễn Văn Hợi chỉ huy đón đánh chiếc “tàu hụ” của địch tuần tiễu trên sông, qua địa phận Mỹ Thạnh Đông. Tiểu đội 2 do đồng chí Hai Hoà chỉ huy đã đánh chiếm đồn Bàu Xái, lính địch tháo chạy ta thu toàn bộ vũ khí và chiến lợi phẩm. Tiểu đội 3 do đồng chí Ba Sậu chỉ huy đã hạ đồn Cầu Sập, lính địch tháo chạy ta thu 12 cây súng. Chính quyền cách mạng được thành lập.

2. Xây dựng chính quyền cách mạng, chuẩn bị kháng chiến và trận đánh Giồng Dinh, Mỹ Quý:

Sau khi Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, chính quyền cách mạng non trẻ Việt Nam đã ra đời có hệ thống từ Trung ương xuống địa phương.

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, trước cuộc mít tinh lớn của hàng chục vạn nhân dân Thủ đô và các vùng lân cận. Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời, trịnh trọng đọc Tuyên Ngôn Độc Lập, tuyên bố với toàn thể quốc dân và thế giới: “Nước Việt nam dân chủ cộng hoà ra đời”. Cũng ngày ấy tại quảng trường Nô Rô Đôm (Sài Gòn), hàng vạn nhân dân Sài Gòn –Chợ Lớn và các vùng lân cận đến dự cuộc mít tinh mừng độc lập. Ông Trần Văn Giàu, Chủ tịch Uỷ ban hành chính Nam bộ lâm thời kêu gọi nhân dân đứng lên xây dựng chính quyền, tổ chức cuộc sống mới và sẳn sàng chiến đấu bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được. Tại các làng trong quận Thủ Thừa đã thành lập xong chính quyền cách mạng. Các Uỷ ban nhân dân cách mạng đã tổ chức ra mắt nhân dân rất kết quả ở Cửu Cư Thượng như ở Mỹ Thạnh, Mỹ Quý, Bình Thành, Bình Hoà. Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời làng ra đời và thực hiện nhiệm vụ theo chương trình Việt Minh.

Chính quyền cách mạng non trẻ bắt đầu tổ chức cuộc sống mới cho nhân dân để vui hưởng nền độc lập chưa được bao lâu thì thực dân Pháp đã đánh chiếm Sài Gòn (23-9-1945) rồi đánh chiếm tỉnh lỵ Tân An (24-10-1945).

– Trận đánh Giồng Dinh (1946-1947):

Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn, chúng đánh lan ra các tỉnh Nam bộ. Trong khi các lực lượng tự vệ và du kích, bộ đội ta chống giặc thì các đơn vị của đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ sư đoàn chạy dài, còn gây phiền nhiễu cho nhân dân. Đệ nhất sư đoàn do Kiều Công Chung, Trần Tử Oai chỉ huy. Đệ nhị sư đoàn do Vũ Tam Anh, Bùi Thế Phiệt chỉ huy. Bọn này đến làng Mỹ Quý, Bình Hoà, Bình Thành gây ra nhiều phiền nhiễu cho dân, rồi tự giải thể. Có một số quân được ta giác ngộ theo cách mạng. Ngày 22-6-1946, lực lượng “Vệ quốc đoàn” được mang tên “Quân đội quốc gia Việt Nam”. Các đơn vị bộ đội đã lần lượt về đóng quân ở Cửu Cư Thượng để huấn luyện, rồi đi tác chiến khắp nơi. Chỉ đội Hải ngoại, chi đội 5 và các chi đội khác cùng lực lượng dân quân du kích các xã xây dựng các làng chiến đấu, sẵn sàng đập tan những cuộc càn quét của địch để bảo vệ căn cứ lúc này đang có Uỷ ban kháng chiến Hành chánh Nam bộ và Khu Bộ Khu 7 ở để lãnh đạo toàn  Nam bộ kháng chiến.

Ta phát hiện được âm mưu địch nên đã đề phòng: hướng dẫn nhân dân cắm chông chống quân nhảy dù; đào hầm, cắm chông, đắp cản chống thuỷ quân đổ bộ. Vào 0 giờ sáng ngày 5 tháng giêng năm Đinh Hợi (1947) quân Pháp bắt đầu tấn công vào Tổng hành dinh với số lượng lớn quân nhảy dù vào thuỷ quân đổ bộ. Máy bay trinh sát quần đảo hướng dẫn cho máy bay phóng pháo đến thả bom, bắn phá để dọn bãi đổ quân. Có 12 máy bay Đakota cất cánh từ Sài Gòn đến thả một đại đội quân dù xuống Giồng Dinh cách trước Tổng hành dinh chừng 800m. Trung đội trưởng Phạm Hữu Bách nhanh chóng bố trí trận địa đánh địch. Bọn quân dù tiến vào cách trận địa ta chừng 300m thì khẩu trung liên Nhật của tiểu đội 3 nhả đạn. Bọn lính đi đầu ngã gục. Cùng lúc, 2 tiểu đội còn lại nổ súng làm nhiều tên lính phơi mình ngoài đồng trống. Bị đánh bất ngờ và ở thế bất lợi, chúng vừa bắn vừa bò lùi ra, rồi quay đầu chạy. Chớp thời cơ, toàn trung đội rời công sự, xung phong truy kích địch. Kết quả ta diệt 2 trung đội địch, thu 2 súng FM đầu bạc và 10 súng trường. Khoảng 15 giờ chiều hôm đó, địch lại cho 2 trung đội tiến vào Giồng Thổ Địa nhưng cũng bị ta tiêu diệt gần hết.

Trong lúc đó địch cho xe thiết giáp lội nước, quân nhảy dù xuống Giồng Mật Cật, Giồng Thổ Địa, qua Giồng Lớn (Quéo Ba) bị lực lượng các chi đội đánh quyết liệt, bọn chúng hoang mang bỏ chạy. Ta thu 2 cây súng FM, 11 cây Thompson, 14 súng trường, 5 súng Carbine và 3.000 viên đạn và lựu đạn, lực lượng chi đội 25 vừa đánh địch vừa rút qua Voi phục kích lại. Chiều đó ta nổ súng đánh quyết liệt, địch tháo chạy về Giồng Trôm. Kết quả, ta đã bẻ gãy được cuộc càn quét lớn đầu tiên của địch đánh vào khu căn cứ, tiêu diệt 1 tiểu đoàn nhảy dù của quân Pháp. Giặc Pháp không đạt được mục đích tấn công lại mất đi tiểu đoàn dù, một số vũ khí, quân trang, quân dụng lớn. Đây là trận quân Pháp tiến công căn cứ kháng chiến lần đầu tiên ở chiến trường Nam Bộ. Với ta, nó là trận đánh lớn nhất ở Nam Bộ, góp phần làm chậm bước tiến của Pháp xuống đồng bằng Sông Cửu Long. Trận Giồng Dinh cung cấp kinh nghiệm đầu tiên rất quý báu về mặt quân sự cho lực lượng vũ trang và du kích chiến tranh ở các xã thuộc Đức Huệ.

Cay cú với thất bại lớn ở Giồng Dinh, ngày 9 tháng 12 năm 1947, Pháp lại đổ quân vào làng Mỹ Thạnh. Tại đây chúng lại chuốc lấy thảm bại. Đoàn xe lội nước bị lực lượng ta bao vây và nhận chìm trong sình lầy, bưng trấp Mỹ Thạnh.

– Trận Mỹ Quý:

Đầu năm 1948, quân Pháp lại dùng lực lượng lớn chia làm 2 đường tấn công vào làng Mỹ Quý nơi có trường quân chính đóng. Cánh quân bộ từ Tây Ninh (qua Phước Chỉ) đánh vào Mỹ Quý. Cánh quân nhảy dù xuống thẳng Quéo Ba, định bao vây, tiêu diệt trường quân chính. Kết quả: quân dân Mỹ Quý đã chống trả quyết liệt. Cánh quân đổ bộ phải rút chạy về Tây Ninh. Cánh quân dù cũng thảm hại rút theo. Ta tiêu diệt 10 tên địch, thu hàng trăm dù và nhiều vũ khí. Khoảng giữa năm 1948, thực dân Pháp lại tăng cường càn quét vào Đồng Tháp Mười. Chúng cho quân từ Tân An, với những đơn vị thuỷ quân lục chiến, đánh vào Mộc Hoá, những đơn vị quân dù nhảy xuống Đức Huệ nhưng lại thảm bại. Quân dân Đức Huệ đã đánh diệt hàng trăm tên tại Giồng Dinh, thu hàng trăm súng các loại. Riêng du kích các xã thu 17 súng và được bộ đội giao thêm 21 súng để bảo vệ Quân khu 7 và các cơ quan đầu não của Nam bộ.

3. Những vụ thảm sát của thực dân Pháp:

– Vụ thảm sát ở làng Bình Thành (cuối năm 1946):

Cuối năm 1946, gần 10 ngàn đồng bào ta làm phu ở các đồn điền cao su miền Đông Nam bộ, theo lời kêu gọi của mặt trận Việt Minh và công nhân cứu quốc bỏ đồn điền, không chịu hợp tác với giặc, chuyển sang vùng căn cứ kháng chiến Đồng Tháp Mười. Chính quyền cách mạng bố trí người và xuồng ghe đi rước. Đoàn xuồng ghe chở đồng bào sau 3 ngày mới đến làng Bình Thành (Cửu Cư Thượng) thì bị máy bay khu trực Pháp đến ném bom, bắn phá. Số người thiệt mạng được chôn cất riêng từng người một là 33 mộ. Số buộc phải chôn chung, dạng mộ tập thể là 27 mộ, trong đó có 2 em nhỏ. Nơi chôn là đầu kinh Quản Điệu. Còn 133 người khác bị thương được đưa qua trạm quân y ở Ngã Sáu (làng Thiên Hộ -Cái Bè) điều trị.

Cũng ở làng Bình Thành, vào đầu năm 1947, máy bay Pháp đã ném bom huỷ diệt cả đoàn xuồng, ghe của đồng bào chở thóc cho bộ đội, khi đi qua Kênh Ngang (nay là kênh Trù Cú Thượng) làm nhiều người chết.

– Vụ thảm sát ở Quéo Ba -Mỹ Quý (1-5-1948):

Sau một thời gian tác chiến thắng lợi, quân dân Đông Thành tổ chức mít tinh kỷ niệm ngày Quốc tế lao động (1-5-1948).

Buổi chiều, bắt đầu lúc 14 giờ, cuộc thi đấu bóng chuyền sôi nổi giữa các đơn vị vũ trang, hàng nghìn đồng bào đang quây quần xung quanh sân vận động để xem thi đấu thể thao, xem triển lãm thành tích kháng chiến và xem các trò vui ngày lễ thì trên bầu trời xuất hiện một máy bay khu trục từ hướng Bắc bay về phía Ba Thu (lãnh thổ Campuchia) khoanh vùng rộng, rồi chuyển về hướng Tân Sơn Nhất. Trời đã ngả chiều mà cuộc thi đấu thể thao vẫn chưa chấm dứt, vì vào vòng chung kết hấp dẫn, càng thu hút đông đảo người xem cổ vũ. Bỗng bầu trời xuất hiện 6 máy bay khu trục. Tiếng mõ báo động vang liên hồi. Cầu thủ và đồng bào chạy tản ra. Trên khán đài, ông Lâm Hữu Vi (liên quân C), Trưởng Ban tổ chức cuộc mít tinh phát loa kêu gọi đồng bào bình tĩnh tản nhanh vào các nơi trú ẩn. Nhưng không kịp nữa rồi! Chiếc máy bay đi đầu đã vòng lại trút bom xuống khán đài. Ông Lâm Hữu Vi và chị Trịnh Thị Duyên (cán bộ đoàn thể phụ nữ cứu quốc ở Giồng Lớn) đã hy sinh ngay từ phút đầu. Từng tràng bom dội liên tiếp. Xác người tan ra trộn đất bùn vung vãi khắp nơi quanh khu sân vận động Quéo Ba.

Sân vận động Quéo Ba đã trở thành nơi ghi bia căm thù, nơi ghi sâu tội ác của giặc Pháp đối với nhân dân Cửu Cư Thượng ngày xưa (Đức Huệ ngày nay).

Tội ác của giặc Pháp không chỉ ở 2 vụ thảm sát điển hình nêu trên, mà còn ở bao lần chúng càn quét, đốt phá, bắn giết hàng trăm người dân Cửu Cư Thượng, chỉ vì chúng coi đây là một căn cứ du kích trọng yếu cảu Nam bộ, là một trong những trung tâm kháng chiến ở Đồng Tháp Mười. Ngày 13-8-1948, địch nhảy dù xuống Mỹ Quý, Mỹ Thạnh Đông chúng bắn giết đồng bào, đốt phá và lấy đi một số tài liệu. Quân dân Cửu Cư Thượng ghi sâu tội ác, mối thù truyền kiếp ấy, để tăng thêm sức mạnh, bảo vệ khu căn cứ, bảo vệ an toàn các lực lượng vũ trang và cơ quan kháng chiến, góp phần vào thắng lợi chung của Nam bộ.

CHƯƠNG II

VƯỢT QUA NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ THỬ THÁCH LỚN LAO, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ KHU CĂN CỨ CÁCH MẠNG (9-1948 – 5-1951)

I. Xây dựng và bảo vệ khu Đông Thành thuộc Quân khu 7 (9-1948 -5-1949):

1. Thành lập khu Đông Thành:

Theo Quyết định 607/TC.CP ngày 23-11-1992, Đông Thành là tên Thị trấn huyện Đức Huệ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 -1954), Đông Thành là tên gọi cả vùng đất Đức Hụê ngày nay. (Tức toàn bộ vùng đất Cửu Cư Thượng quận Thủ Thừa ngày trước).

Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam bộ, Bộ Tư lệnh Nam bộ về đóng ở Giồng Dinh (làng Mỹ Thạnh), để lãnh đạo kháng chiến. Bản doanh của Trung tướng Nguyễn Bình đóng ở gần Mớp Xanh (Bình Thành). Số cơ quan kháng chiến và lực lượng vũ trang trở về lập căn cứ ở Cửu Cư Thượng ngày càng nhiều, đã nâng vị trí chiến lược ở vùng này lên tầm quan trọng mới.

Ngày 29-9-1948, Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam bộ ra Nghị định số 342/NĐ.NB, tác những làng Thạnh Lợi, Bình Hoà, Bình Thành, Mỹ Thạnh, Mỹ Quý ra khỏi huyện Thủ Thừa, tỉnh Tân An, thành lập một khu vực đặc biệt, sát nhập vào chiến khu 7 và lấy tên là “Khu Đông Thành”.

Ngày 12-5-1949, Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam bộ ra Nghị định số 156/NĐ.NB quyết định bãi bỏ Nghị định 342/NĐ.NB ngày 29-9-1948 nói trên. Lấy các xã Mỹ Quý, Mỹ Thạnh (Mỹ Thạnh Đông), Bình Hoà, Thạnh Lợi và một phần phía Tây bắc làng Bình Thành, lấy kinh ngang làm ranh giới thành lập huyện Đông Thành thuộc tỉnh Chợ Lớn. Như vậy thời gian gọi là “Khu Đông Thành” từ ngày 29-9-1948, đến ngày 12-5-1949.

Năm 1948, toàn huyện Đức Huệ có 42 thanh niên được tuyển vào đội bảo vệ quân khu Đông Thành; hàng trăm thanh niên vào tự vệ, du kích và lực lượng trên.

Một trung đội du kích Đức Hụê bổ sung cho lực lượng liên quân Hóc Môn -Bà Điểm -Đức Hoà . Lực lượng này được đồng chí Trần Văn Trà -khu bộ trưởng khu 8, lập thành Chi đội 15 và sau thành Trung đoàn 308.

2. Huyện Đông Thành, chiến đấu trong địa bàn tỉnh Chợ Lớn (5-1949-5-4951):

– Huyện Đông Thành, căn cứ mới trong địa bàn tỉnh Chợ Lớn:

Do sự chuyển biến của chiến trường, do yêu cầu bố trí lại địa bàn kháng chiến toàn Nam bộ, ngày 12-5-1949, Uỷ ban KCHC Nam bộ ra Nghị định giải thể “khu Đông Thành” thuộc Quân khu 7, đưa vùng đất này làm huyện Đông Thành, thuộc tỉnh Chợ Lớn. Sau nghị định ấy, khu bộ khu 7 rời về căn cứ Dương Minh Châu. Nhân dân Đức Huệ vẫn tiếp tục xây dựng và bảo vệ căn cứu để đón nhận các cơ quan kháng chiến và lực lượng vũ trang khác đến đóng trú. Đó là các cơ quan: Quân khu 8; các cơ quan tỉnh bạn như: Chợ Lớn, Gia Định; một số cơ quan xã thuộc huyện: Đức Hoà, Cần Đuớc, Cần Giuộc. Phần lớn cán bộ kháng chiến về ở Đông Thành được nhân dân Đông Thành cho mượn đất thuộc, lúa giống, khoai mì giống để gieo cấy, cho mượn trâu cày. Phần giúp đỡ ấy đã tạo cho hàng trăm cán bộ kháng chiến không những đủ tự nuôi sống mình mà góp còn góp cho kháng chiến. Từng bước, cán bộ nay có điều kiện về lại xã, huyện mình để gây cơ sở và tiếp tục chiến đấu. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Chợ Lớn, Quân dân Huyện Đông Thành tiếp tục xây dựng làng chiến đấu, đẩy mạnh phong trào sản xuất và chiến đấu.

CHƯƠNG III

ĐÔNG THÀNH TRONG HUYỆN ĐỨC HOÀ THÀNH CỦA TỈNH GIA ĐỊNH NINH (1951 -1954)

1. Đức Hoà Thành trong tổ chức chính quyền mới:

Tháng 5-1951, để thuận tiện cho việc chỉ đạo, Uỷ ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ ra quyết định, sát nhập một số tỉnh thành. Đất tỉnh Tân An được cắt ra và sát nhập vào các tỉnh mới. Một phần sát nhập vào Mỹ Tho, Gò Công thành tỉnh Mỹ Tho mới (Mỹ Tân Gò). Một phần sát nhập vào tỉnh Sa Đéc.  Một phần sát nhập vào tỉnh Chợ Lớn -Bà Rịa thành tỉnh Bà Chợ. Một phần sát nhập với tỉnh Gia Định, Tây Ninh thành tỉnh Gia Định Ninh. Đất Đông Thành sát nhập với đất Đức Hoà thành huyện Đức Hoà Thành, thuộc tỉnh Gia Định Ninh.

Đức Hoà Thành rộng khoảng 760km2, dân số khoảng 80.000 người. Phía Bắc giáp Campuchia và Trãng Bàng (Tây Ninh), phía Đông giáp Hóc Môn, phía Nam giáp Trung Huyện, phía Tây gắn liền với căn cứ Đồng Tháp Mười.

Riêng vùng Đông Thành rộng khoảng 400km2 (hơn phân nữa Đức Hoà Thành) giáp với căn cứ lớn Đồng Tháp Mười, gồm 4 xã: Mỹ Quý, Mỹ Thạnh, Bình Hoà, Bình Thành. Vùng này, địch chỉ có hai bót và một tháp canh. Ta có 10 ngàn dân. Lực lượng vũ trang của phân liên khu có một tiểu đoàn, của tỉnh có một đại đội. Nhìn chung đây là  một vùng căn cứ khá an toàn. Đến tháng 10-1951, ta mới cơ bản hoàn thành về công tác tổ chức. Huyện uỷ Đức Hoà Thành gồm 15 thành viên. Đồng chí Trương Văn Tư làm Bí thư. Đồng chí Mười Nhẫn làm Phó Bí thư. Đồng chí Nguyễn Văn Bàu làm Huyện đội trưởng. Toàn Huyện có 36 chi bộ Đảng.

2- Diễn biến chiến trường và nỗ lực của quân dân Đông Thành trong Đức Hoà Thành:

Bước sang năm 1951, địa bàn Đức Hoà Thành -Hóc Môn càng trở nên khó khăn. Địch đưa về địa bàn này Tiểu đoàn 61 BVN cùng với lực lượng Sài Gòn -Hóc Môn liên tục đánh phá tuyến tiếp tế của ta.

Về phía ta, sau khi bộ đội chủ lực rút đi đại bộ phận, còn để lại Tiểu đoàn 306 giữ vùng căn cứ giáp biên giới (thực tế chỉ còn 2 đại đội, còn thì phân tán vào dân gây cơ sở chiến tranh du kích lực lượng quân sự của ta giảm sút rõ rệt. Lợi dụng và khai thác những khó khăn của ta, địch tăng cường hoạt động trên tất cả các mặt. Về quân sự, địch tập trung nỗ lực, quyết xoá sạch vùng du kích của Gia Định Ninh mà trọng tâm là ven sông Vàm Cỏ Đông.

Tình hình đang phức tạp phải chống giặc càn thì vào tháng 10-1952, một trận lụt lớn kéo về nhận chìm hơn một nữa địa bàn Đức Hoà Thành. Trận lụt ấy gây tác hại rất lớn đối với mùa màng, nhất là ở vùng Đông Thành. Những khu vực tăng gia sản xuất của bộ đội, cơ quan bị mất trắng. Thế là, quân dân Đông Thành lại lo nhiệm vụ cứu đói cho bộ đội, cơ quan và nhân dân. Các hoạt động quân sự hầu như buông lơi.

Địch tập trung mở rộng lực lượng giáo phái (Cao Đài, Hoà Hảo, Bình Xuyên). Lực lượng này tham gia cùng lính Pháp đánh phá các vùng quanh Sài Gòn và tập trung đánh phá thường xuyên vùng Đức Hoà Thành.

Trên mặt trận kinh tế, địch cũng tăng cường các thủ đoạn vơ vét: tăng thuế tiền từ 50 lên 70 đồng một mẫu ruộng, tăng cường phạt vạ, tích cực thu “đảm phụ quốc phòng”, cướp đi của nhân dân Đức Hoà Thành 4.400 vạ lúa mà nhân dân cất giấu, để đóng thuế nông nghiệp cho kháng chiến.

Chúng còn dùng máy bay, lực lượng bộ binh hành quân vào bắn giết trâu bò, với khẩu hiệu “giết một con trâu bằng giết mười vệ quốc đoàn”.

3- Củng cố lực lượng tiến lên giành thắng lợi:

Tháng 5-1953, những thắng lợi liên tiếp của ta ở chiến trường miền Bắc làm cho kẻ địch hoang mang dao động sa vào thế bị động. Lính địch ở miền Nam cũng tan rã dần. Tỉnh uỷ Gia Định Ninh đã chuyển biến về nhận thức, khắc phục những tư tưởng hữu khuynh, sai lầm. Tỉnh uỷ chủ trương nhanh chóng củng cố lại lực lượng, củng cố lại các vùng. Dấu hiệu chuyển biến đầu tiên là Tiểu đoàn 306 đã tổ chức được trận đánh ở vùng căn cứ Đức Hoà Thành.

Tháng 9-1953, Trung ương đã chỉ đạo cho chiến trường Nam bộ về vấn đề mở rộng vùng căn cứ và đẩy mạnh chiến tranh du kích. Tiếp thu sự chỉ đạo của Trung ương và Tỉnh uỷ Gia Định Ninh, quân dân Đức Hoà Thành nói chung và Đông Thành viết riêng đã củng cố lực lượng tiến lên giành thắng lợi.

Công tác xây dựng lực lượng được tăng cường. Tháng 12-1953, ta củng cố xong 5 trung đội bộ đội địa phương ở Đức Hoà Thành, các đơn vị này đã phát huy được tác dụng diệt ác, phá tề bảo vệ quyền lợi cho dân ấp. Một số tên ác ôn “tiếng tăm” ở tại chợ, sát bót… vẫn bị trừng trị. Bộ đội địa phương Đức Hoà Thành, 2 tiểu đoàn cơ động tỉnh Gia Định Ninh hoạt động liên tục, luồn sâu đánh mạnh vùng sau lưng địch ở Trung Huyện, Đức Hoà Thành và các huyện khác thuộc Tây Ninh cũ, dứt điểm nhiều đồn bót và tháp canh, đánh mạnh các tuyến đường giao thông của địch. Đồn bót địch co cụm dần, lính ngụy đào rã ngũ dần.

Nhằm kết hợp chặt chẽ với cuộc tấn công đông xuân năm 1953-1954, ở chiến trường Bắc bộ, chủ trương chiến lược của ta ởNam bộ là phát động một phong trào “thi đua phát triển chiến tranh du kích”. Ở địa bàn Đức Hoà Thành, trên vùng căn cứ của ta, quân địch chỉ còn 2 bót và 1 tháp canh (ở Đông Thành), trên vùng du kích còn 14 bót và 29 tháp canh, trên vùng tạm chiến còn 10 bót và 7 tháp canh. Lực lượng chủ lực của địch ở Đức Hoà Thành vẫn có tiểu đoàn 61 BVN nhưng chúng phải cơ động giữa địa bàn Đức Hoà Thành và Hóc Môn. Đầu năm 1954, Đức Hoà Thành đã xây dựng được 1 đại đội bộ đội địa phương, củng cố lại một số tổ du kích. Tại căn cứ Đông Thành có một tiểu đoàn chủ lực của Phân liên khu đóng giữ.

Tháng 1-1954, Đức Hoà Thành tiến hành Đại hội Đảng để ra Nghị quyết đẩy mạnh chiến tranh du kích phối hợp toàn chiến trường Nam bộ, phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ ở Bắc bộ. Đại hội đã bầu lại đồng chí Huỳnh Văn Một làm Bí thư Huyện uỷ.

Đầu tháng 2-1954, địch cho Tiểu đoàn 62 BVN càn vào Đông Thành. Ở đây, lực lượng của Tiểu đoàn 306 và bộ đội địa phương Đức Hoà Thành, dân quân du kích và nhân dân Đông Thành đã chống trả quyết liệt. Trận đánh diễn ra trên đất xã Mỹ Thạnh Đông. Tiểu đoàn 62 BVN của địch đã bị thiệt hại khá nặng, tinh thần bọn sống xót trở về sa sút nhanh chóng. Cuối tháng 2-1954, Tiểu đoàn 62 BVN lại đi càn vào xã Bình Hoà Bắc và chúng cũng bị thiệt hại nặng.

Kết quả chiến đấu tháng 2-1954, quân dân Đức Hoà Thành đã diệt 102 tên địch, bị thương 15, bắt tù binh 39, có 10 tên tự ra hàng, đánh sập 6 tháp canh, bức rút 12 tháp canh khác, thu 10 tiểu liên, 37 súng trường, 1 súng lục và một số quân trang, quân dụng.

Từ tháng 3-1954, Đông Thành nói riêng cũng như cả Nam bộ nói chung sôi nổi bước vào “những ngày Điện Biên Phủ”.

Ngày 7-5-1954, chiến thắng Điện Biên Phủ buộc thực dân Pháp phải ký kết với ta về hiệp định Giơnevơ: chấm dứt chiến tranh Đông Dương. Ngày 21-7-1954, hiệp định Giơnevơ có hiệu lực. Lịch sử Đông Thành (Đức Huệ sau này) chuyển sang giai đoạn mới.

Lịch sử Đức Hụê trong 9 năm chống Pháp (1945 -1954) là những trang sử hào hùng, vẻ vang, khơi dậy thêm bề dày lịch sử, truyền thống Tháp Mười anh dũng.

PHẦN THỨ HAI

ĐỨC HUỆ TRONG 21 NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 -1975)

CHƯƠNG I

TỪ ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ TIẾN LÊN VŨ TRANG KHỞI NGHĨA (ĐỒNG KHỞI) TRÊN VÙNG BẮC THỦ THỪA (ĐỨC HUỆ) (1954 -1961)

1. Đấu tranh chính trị -chống địch “tố cộng”:

Sau Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được ký kết vào ngày 20 tháng 7 năm 1954, Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam với âm mưu chia cắt ta lâu dài, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, chúng ra sức phá hoại hiệp định.

Đứng trước tình hình đó, tháng 10-1954, Xứ uỷ Nam bộ triệu tập hội nghị tại Rạch Giá để sắp xếp lại lực lượng. Trong hội nghị tháng 10-1954, Xứ uỷ quyết định sắp xếp thành lập Tỉnh uỷ Tân An và Tỉnh uỷ Chợ Lớn theo đơn vị hành chính của chính quyền địch, để có thể chỉ đạo cuộc đấu tranh một cách chặt chẽ hơn.

Từ tháng 11-1954 trở đi, hàng loạt các cuộc khủng bố của địch liên tiếp xảy ra. Hầu hết cuộc khủng bố đều nhằm vào cán bộ đã công khai, lộ diện sau hiệp định. Những người cách mạng bị tấn công nhưng không vũ trang để chống đỡ được, chỉ biết dựa vào nhân dân.

Tháng 3-1955, Ngô Đình Diệm lại ban hành chính sách “Tố cộng”, làm cho tình thế càng trở nên căng thẳng. Lực lượng cách mạng đang đứng trước những khó khăn, thử thách lớn.

Bước một, chúng chọn tỉnh Chợ Lớn làm trọng điểm cho kế hoạch và chương trình “Tố cộng”; bước hai trọng điểm là Tân An, vì chúng nhận thấy ở Chợ Lớn- Tân An là địa bàn sát Sài Gòn, là nơi lực lượng cách mạng còn rất nhiều và mạnh; lại là nơi có nhiều khu căn cứ kháng chiến trong kháng chiến chống Pháp.

Tháng 4-1955, chính quyền Diệm tổ chức hội nghị ở Chợ Lớn để triển khai kế hoạch “Tố cộng”. Tên thiếu tá Nguyễn Văn Y, tỉnh trưởng Chợ Lớn đã trình bày kế hoạch “Tố cộng” ở trọng điểm, kế hoạch ấy được Diệm coi là khuôn mẫu để tiến hành ở các nơi khác.

Chương trình “Tố cộng” bước hai và những chiến dịch quy mô lớn của chính quyền và quân đội Diệm đã gây tổn thất lớn cho cách mạng. Trong tình thế ấy, Xứ ủy Nam bộ ra Chỉ thị 17/N chủ trương “điều lắng”, để chờ đợi sự chỉ đạo chuyển hướng chiến lược của trên. Chấp hành sự chỉ đạo của Xứ ủy, vùng Đức Huệ sắp xếp lại cán bộ: số bị lộ chuyển đi nơi khác, số chưa bị lộ tiếp tục bám địa phương, bám quần chúng để xây dựng cơ sở chính trị, thành lập chi bộ…. Từ đây Đức Huệ lại trở thành khu căn cứ kháng chiến chống Mỹ.

2. Vừa tổ chức xây dựng lực lượng cách mạng, vừa phá thế kềm kẹp của địch:

Thánh 8 năm 1956, Xứ uỷ quyết định thành lập tỉnh Long an và tỉnh Kiến Tường thay cho tỉnh Chợ Lớn và tỉnh Tân An. Cùng mới sự ra đời các lực lượng vũ trang Long An, 10-1957 Tiểu đoàn 506 thành lập ra mắt tại Hội Đồng Sầm xã Bình Hoà ( nay là xã Bình Hoà Bắc huyện Đức Huệ), vừa tổ chức huấn luyện, vừa tự sản xuất vũ khí. Các xã thành lập đội du kích để bảo vệ căn cứ và hỗ trợ cho đấu tranh chính trị của quần chúng, phối, kết hợp với lực lượng vũ trang hoạt động trấn áp tề, điệp, trừ khử ác ôn.

Cùng vào cuối năm 1957, Mỹ – Diệm tổ chức nhiều cuộc hành quân, dồn dân vào các ” khu trù mật”, “Khu dinh điền”. Các đội du kích xã, liên xã thường xuyên kết hợp với cơ sở chính trị và cở sở binh vận, đột vào vào các khu gom dân vòng ngoài Quéo Ba như Giồng Bún, Giồng Tràm, Giồng Tràm Bà Giang để tuyên truyền vận động quần chúng, trấn áp bọn tề, giản tán các toán dân canh, ” thanh niên chiến đấu” do địch tổ chức, thu hàng chục súng, nhiều lựu đạn, đạn các loại. Nổi bật là cuối năm 1958, đầu năm 1959, lực lượng du kích kết hợp với binh vận đột kích, đánh bọn tề, dân vệ ở Tho Mo (Mỹ quý Tây), công sở Bình Hoà và ngay trong khu trù mật Quéo Ba. Các trận đánh trên ta diệt 20 tên địch làm bị thương 15 tên thu 30 súng các loại.

Ngày 3 tháng 3 năm 1959, nguỵ quyền Ngô Đình Diệm ra sắc lệnh số 48/NV cắt 3 xã An Ninh, Lộc Giang, Hiệp Hoà của quận Đức Hoà hợp với xã Mỹ Quý Đông, Mỹ Quý Tây, Mỹ Thạnh Đông, Mỹ Thạnh Tây và Bình Hoà thuộc quận Thủ Thừa thành lập quận Đức Huệ do tên Huỳnh Khương An làm trưởng quận, quận lỵ đóng tại Quéo Ba thuộc xã Mỹ Quý Tây.

Tháng 5 năm 1959, để tiện cho việc lãnh đạo nhân dân đấu tranh với chính quyền địch. Theo chỉ đạo của trên,Tỉnh uỷ Long An tổ chức huyện Đức Huệ gồm 8 xã Mỹ Quý Đông, Mỹ Quý Tây, Mỹ Thạnh Đông, Mỹ Thạnh Tây, Mỹ Thạnh Bắc, Bình Hoà Bắc, Bình Hoà Nam và Bình Thành.

Sau mấy năm ra sức thực hiện chương trình “tố cộng” một cách dã mang và tàn ác, chính quyền độc tài, gia đình trị Ngô Đình Diệm không những không tiêu diệt được những người cộng sản ở miền Nam, mà lại làm cho phong trào cách mạng ở khắp nơi bùng lên. Tình thế đó đã đẩy Diệm bước đến đỉnh cao của chính sách độc tài phát xít. Diệm đưa ra Quốc hội Sài Gòn, thông qua đạo luật số 91, sau đó là Luật 10/59. Đạo luật này đặt những người cộng sản ra ngoài vòng phát luật, cho phép bọn ác ôn được chém đầu bất cứ ai là cộng sản hoặc có liên hệ với cộng sản, không cần xét xử.

Tháng 10 năm 1959, lực lượng Tiểu đoàn 506, du kích xã Mỹ Quý Tây tấn công đồn Tho Mo, diệt và làm tan rã một trung đội địch, hỗ trợ cho quần chúng trong các khu dồn dân trong huyện nổi dậy diệt ác, phá thế kiềm kẹp của địch mở đầu cho một hình thức khởi nghĩa từng phần.

3-Tiến lên Đồng khởi 1960- 1961, giải phóng Đức Huệ lần thứ nhất:

Ngày 6 tháng 1 năm 1960, Tỉnh uỷ triệu tập hội nghị ở Giồng Ông Tưởng, xã Bình Thành, để quán triệt tinh thần Nghị quyết 15 của Trung ương và Nghị quyết của khu uỷ. Tỉnh uỷ quyết định phát động phong trào quần chúng, tiến lên cao trào khởi nghĩa vũ trang trên khắp địa bàn nông thôn, đập tan bộ máy kềm kẹp của địch, giành quyền làm chủ ở xã, ấp, bằng cách dùng lực lượng vũ trang làm đòn xeo cho cuộc nổi dậy của quần chúng. Huyện Đức Hoà được chọn làm nơi châm ngòi.

Công việc chuẩn bị ở Long An, trong đó có huyện Đức Huệ đang trong gian đoạn cuối, thì Bến Tre nổ ra cuộc nỏi dậy của nhân dân vào ngày  17 tháng 1 năm 1960, sau này gọi là  cuộc ” Đồng Khởi”. Sự kiện ấy vàn dội trong toàn miền. Không đầy mười ngày sau, Long An bước vào cuộc nổ dậy với tinh thần khẩn trương và khí thế hừng hực.

Đêm 25 tháng 1 năm 1960, phân đội 15 thuộc Tiểu đoàn 506 và quân dân Đức Hoà đã thực hiện thành công trận đánh đồn Đức Lập, mở màn cho  phong trào nổi dậy khởi nghĩa “Đồng Khởi” trong toàn tỉnh. Sau Đức Lập, hàng loạt các đồn bót ở các xã bị lực lượng vũ trang và quần chúng nổi dậy đánh chiếm, tuy lùng bọn tề điệp ác ôn, giành quyền làm chủ phần lớn các xã ấp.

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban cán sự và được tăng cường lực lượng của tỉnh, ta tấn công vào khu trù mật Đức Huệ. Lực lương ta chia thành 2 mũi do đồng chí Hai Tên chỉ huy đứng chân ở Mỹ Thạnh Tây tấn công vào khu vực Quéo Ba – Giồng Bún; mũi thứ 2 do đồng chí Hai Bay (Hai Lên), Tám Nghĩa đứng chân ở Mỹ Thạnh Đông – Bình Hoà Bắc tấn công vào đồn Cầu Sắt, Á Rặc, dồn Kinh Xáng – Trà Cú, đồn Bình Thành. Lực lương trên đã bao vây cô lập các đồn bót, hỗ trợ cho phòng trào quần chúng nổi dậy, trừ gian, diệt ác, đấu tranh với địch, đòi dân sinh dân chủ.

Thắng lợi của Đồng Khởi đợt 1 trong toàn miền là: làm cho bộ máy chính quyền cơ sở Mỹ -Diệm ở cơ sở  bị phá vỡ từng mảng lớn. Lực lương bảo an, dân vệ tan rã từ 70% đến 80% tại các khu vực trọng điểm. Các đồn bót cấp trung đội của địch phải rút chạy. Cách mạng đã giành lại phần lớn ruộng đất cho nông dân. Riêng vùng Đức Hoà, Đức Huệ lúc đó, mỗi xã, nông dân giành lại hàng trăm mẫu ruộng. Giai cấp địa chủ phục hồi chưa được bao lâu thì lại bị tan rã. Nhờ biết khai thác sức mạnh nổi dậy của nhân dân, nênn tuy lực lượng vũ trang còn ít, yếu, vũ khí lại cũ nhưng Đồng Khởi vẫn giành kết quả to lớn. Bến Tre trở thành đơn vị điển hình cho phong trào Đồng Khởi.

Vào đợt 2, Đồng Khởi, Tỉnh uỷ chỉ đạo sắp xếp lại lực lượng vũ trang để đủ sức mạnh đánh đồn bót. Vì lúc này đánh đồn bót bằng cải trang và nội ứng không còn thời cơ, vì bọn địch đã đề phòng.

Ngày 17 tháng 6 năm 1960, tại Giồng Ông Tưởng, xã Bình Thành diễn ra một sự kiện làm náo nức lòng người. Đó là việc ra mắt đơn vị cơ động của tỉnh. Hàng mấy trăm đồng bào Đức Huệ đã đến dự lễ ra mắt của Đại hội cơ động với niềm tin và phấn khởi.

Mở đầu đợt 2 Đồng Khởi của tỉnh, lực lượng tập trung tỉnh đánh vào dinh quận Đức Hoà, chiếm một góc quận lỵ, đánh tan 1 đại hội bảo an của địch. Mũi quân sự vừa thắng lợi, mũi chính trị vận động quần chúng nổi dậy đắp mô, phá lộ, cắt đứt các tuyến giao thông vào quân lỵ. Bọn nguỵ Sài Gòn rất lo sợ, phải cho một một tiểu đoàn dù thiện chiến nhảy xuống để giải thoát cho quân lỵ Đức Hoà.

Đến cuối tháng 9 năm 1960, sau Đồng Khởi đợt 2 một tháng, Long An đã mở ra những vùng giải phóng lớn ở vùng Đức Huệ, Đức Hoà, Cần Giuộc, Bến Lức….27 xã trong toàn tỉnh được hoàn toàn giải phóng. Đức Huệ lúc đó có 5/8 xã: Bình Hoà Bắc, Bình Hoà Nam, Bình Thành, Mỹ Thạnh Tây, Mỹ Quý Đông đã căn bản được giải phóng mở ra một vùng căn cứ rộng lớn cho tỉnh, huyện, nối liền với vùng giải phóng của 4 xã ven sông Vàm Cỏ Đông ở Đức Hoà.

Vào đợt 3, có sự hỗ trợ tích cực của lực lương vũ trang, nhiều cuộc biểu tình lớn với hàng chục ngàn người đã nổ ra ở Thủ Thừa, Bến Lức, Châu Thành, Cần Đước. Khẩu hiệu đấu tranh đã đi vào phân hoá hàng ngũ binh lính địch, kêu gọi những binh lính lầm đường hãy quay về với nhân dân. Khí thế Đồng Khởi càng về sau càng sôi nổi. Hai khu vực nhân dân nổi dậy quyết liệt  nhất là Đức Huệ và Châu Thành.

Ở Đức Huệ, có sự hỗ trợ của lực lượng tỉnh, Huyện  uỷ chỉ đạo toàn huyện kiên quyết phá banh ” khu trù mật” Giồng Bún ở xã Mỹ Quý Tây 3.500 đồng bào bị gom vào trong vòng rào kẽm gai ở đây. Bằng cuộc Đồng Khởi năm 1960- 1961 quân và dân toàn tỉnh đã đánh bại cuộc chiến tranh một phía của Mỹ- Diệm. Đến tháng 3 năm 1961 vùng Long An đã giải phóng được 58 xã, trong đó có huyện Đức Huệ hoàn toàn được giải phóng.

Sau Đồng Khởi, Đức Huệ cũng như các huyện của Long An đã có những yếu tố cơ bản để bước vào cuộc chiến tranh cách mạng. Đó là lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, địa bàn- căn cứ và khối quần chúng đông đảo vừa giành lại được ruộng đất, tích cực tham gia mọi hình thức đấu tranh do Đảng tổ chức và lãnh đạo.

 

CHƯƠNG HAI

CHỐNG CHƯƠNG TRÌNH BÌNH ĐỊNH CẤP TỐC CỦA ĐỊCH, GIẢI PHÓNG ĐỨC HUỆ LẦN THỨ 2 – GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT” CỦA MỸ – NGỤY (1961 – 1965)

          1. Chống chương trình bình định cấp tốc, tiến lên giải phóng Đức Huệ lần thứ 2:

          Thắng lợi của phong trào Đồng khởi ở Đức Huệ, Long An cũng như trên toàn miền Nam đã thực sự dồn địch vào tình trạng khủng hoảng về tinh thần, lúng túng về chiến lược. Đối với ta, thắng lợi của cao trào “Đồng khởi” đã chuyển từ thế củng cố và phát triển lực lượng sang thế tiến công địch.

          Tháng 4 năm 1962, quân dân Đức Huệ đã cùng đơn vị cơ động tỉnh đập tan một cuộc càn quét của sư đoàn 7 vào vùng giải phóng Đức Huệ. Một đại đội của sư 7 ngụy hành quân đến bến phà Mỹ Thạnh Đông đã bị quân ta phục kích, diệt gọn. Trận này, ta thu được 30 súng và nhiều đạn dược. Đây là trận đánh thắng quân chủ lực ngụy đầu tiên của lực lượng vũ trang Long An.

          Bộ đội địa phương Đức Huệ lú này đã khá mạnh, có khả năng đánh được đồn bót. 6 tháng đầu năm 1962, bộ đội địa phương, kết hợp với mũi chính trị, binh vận Đức Huệ, đã liên tục tiến công một loạt đồn như đồn Bình Hòa Bắc, đồn cầu Bà Vòm, đồn Bình Thành, Xóm Cống ta loại khỏi vòng chiến đấu 200 tên, thu gần 100 súng các loại.

          Cuộc đấu tranh chống “cào nhà – gom dân” ra ấp chiến lược, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy lúc đó, diễn ra khá quyết liệt. Bất chấp mọi sự khủng bố, bắn phá của kẻ thù, đồng bào Đức Huệ vẫn một lòng đi theo Đảng, theo cách mạng, kiên quyết “một tấc không đi, một ly không rời”.

          Sáng 24 – 10 – 1964, nhân dân các xã Mỹ Quý Tây, Mỹ Quý Đông, Mỹ Thạnh Tây, Mỹ Thạnh Bắc … kéo đến dinh quận, lấy danh nghĩa là “thăm quân đội quốc gia”, ta tung tin lực lượng quân giải phóng mới đánh thắng lớn hồi hôm, đêm nay sẽ tiếp tục đánh vào dinh quận. Ta vận động một số gia đình binh sĩ lôi kéo con em rút chạy.

          Tên quận trưởng Huỳnh Khương An vô cùng hoảng hốt, ngay trong đêm, phải dẫn quân rút chạy về Đức Hòa. Quân dân Đức Huệ từ các xã lân cận kéo đến thu được 300 súng, gần 5 tấn đạn và toàn bộ đồ quân dụng.

          Kể từ đó, quận lỵ Đức Huệ của địch phải dời về Hiệp Hòa (của Đức Hòa), Đức Huệ được giải phóng lần thứ hai.

          2./ Chống kế hoạch bình định có trọng điểm – góp phần làm thất bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ – ngụy:

          Giữa lúc Long An, trong đó có Đức Huệ bước vào cao trào phá ấp chiến lược, thì ở Sài Gòn, ngụy quyền rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Bọn Minh, Khánh, Kỳ, Đôn, Thiệu … tranh giành nhau liên tục. Hệ thống ấp chiến lược và đồn bót ở Long An tan rã mau chóng. Cửa ngõ phía tây nam Sài Gòn bị mở toang.

          Trước tình thế đó, Mỹ – Ngụy buộc phải thay đổi chiến thuật. Chúng chuyển sang kế hoạch “bình định có trọng điểm” tập trung vào 4 tỉnh quanh Sài Gòn là: Long An, Hậu Nghĩa, Tây Ninh, Bình Dương. Địch ào ạt đổ quân và vũ khí vào Long An, Hậu Nghĩa.

                Ở Long An lúc này, phong trào toàn dân đánh giặc đã lên cao. Mỗi người dân là một chiến sĩ. Vùng giải phóng ở Đức Huệ vẫn được giữ vững.

          Mùa khô và mùa mưa năm 1965, ta tổ chức nhiều trận đánh tàu trên sông Vàm Cỏ Đông ở đoạn giáp ranh Đức Huệ,Đức Hòa. Du kích các xã kết hợp với bộ đội huyện và tiểu đoàn 1 thành các đội săn, bắn tàu địch. Lực lượng trên đã bắn chìm 17 tàu, bắn bị thương 10 chiếc, hạn chế được các hoạt động của hải quân địch trên sông.

          Cũng vào tháng 5 – 1965, Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn miền được tổ chức. Một vinh dự lớn lao đến với Đảng bộ và quân dân Long An. Đó là sự kiện Ủy ban Trung ương Mặt trân dân tộc giải phóng miền Nam tặng thưởng cho quân và dân Long An 8 chữ vàng: “Trung dũng kiên cường – toàn dân đánh giặc”. Đây là niềm cổ vũ rất lớn đối với quân dân Long An trong đó có quân dân Đức Huệ.

Cũng trong năm 1965, địch càn quét, cướp bóc và cào nhà gom dân ở vùng 4 Kiến Tường và khu vực xã Bình Thành. Mỹ cũng đem máy bay chiến lược B52 rải thảm xuống miền Nam, trong đó có vùng giải phóng Đức Huệ. Nhiều làng mạc và nhà cửa, ruộng vườn bị tàn phá nặng nề, nhưng chúng vẫn không thể khuất phục được ý chí của người dân miền Nam, trong đó có nhân dân Đức Huệ.Với những thắng lợi của quân dân Đức Huệ đã góp phần làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.

 

CHƯƠNG BA

ĐỨC HUỆ TRONG HAI CUỘC PHẢN CÔNG CHIẾN LƯỢC CỦA ĐỊCH MÙA KHÔ 1965 – 1966, 1966 – 1967 VÀ CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG MẬU THÂN XUÂN 1968

          1./ Đức Huệ trong cuộc phản công chiến lược của địch mùa khô (1965 – 1966):

         Giai đoạn này, Mỹ đưa hơn 20 vạn quân Mỹ và chư hầu, cùng các loại phương tiện chiến tranh hiện đại nhất nhằm thực hiện hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định” ở miền Nam.

          Sau thời gian chuẩn bị, quân Mỹ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất vào khoảng đầu năm 1966. Cuộc phản công này của Mỹ nhằm chủ yếu vào 2 vùng: miền Đông Nam Bộ và chiến trường Khu 5. Toàn tỉnh Long An nằm gọn trong hướng phản công chiến lược kỳ này.

          Đúng ngày 01 – 01 – 1966, lữ đoàn dù 173 Mỹ tiến hành cuộc hành quân Marôđơ, ồ ạt càn vào vùng Đức Hòa, Đức Huệ của Long An, nhằm bảo vệ cho tiểu khu Hậu Nghĩa.

          Lữ đoàn dù 173, được phi pháo dọn bãi và trực thăng đổ dọc bờ tây sông Vàm Cỏ Đông, trên đất Đức Huệ, 3 tiểu đoàn không kỵ khác của Mỹ hành quân dọc bờ đông sông Vàm Cỏ Đông thuộc đất Đức Hòa.

          Lần đầu tiên trên đất Long An, quân và dân Đức Huệ chứng kiến cuộc đổ quân bằng trực thăng lớn chưa từng có của quân Mỹ. Pháo bầy dập liên hồi. Máy bay phản lực gầm rú lồng lộn trên bầu trời, trút bom và rốc két xuống làng mạc, ruộng đồng. Rồi từng bầy trực thăng kéo đến, liên tiếp lên xuống, đổ quân trên khắp các cánh đồng Mỹ Thạnh Tây, Mỹ Quý Đông, Mỹ Quý Tây. Chúng rải quân Mỹ xuống đứng lố nhố trên các cánh đồng.

          Chiến dịch Marôđơ chấm dứt, gây cho quân Mỹ nhiều thiệt hại về người và phương tiện chiến tranh. Mục tiêu bảo vệ Hậu Nghĩa, hỗ trợ cho chương trình bình định (do quân ngụy đảm nhiệm) hoàn toàn bị thất bại. Chúng dự định dồn toàn bộ dân Đức Huệ bên bờ tây Vàm Cỏ Đông sang Đức Hòa cho Sư 5 ngụy kiểm soát, nhưng suốt chiến dịch, chúng chỉ gom được 500 người dân đưa sang bờ phía đông và thống kê vào thành con số “thiệt hại của Vi – ci” (Việt cộng).

          Ngày 15 – 02 – 1966, Lữ đoàn dù Mỹ 173 lại càn quét khu vực Hậu Nghĩa. Vẫn bài bản cũ, chúng cho phi pháo dọn đường, rồi đổ quân từ Bình Hòa Bắc, Bình Hòa Nam xuống Lương Hòa, Thạnh Lợi. Bắt đầu cho hai đợt phản công chiến lược mùa khô.

           Đợt 1, cuộc phản công chiến lược mùa khô năm 1966 của bọn Mỹ ở khu vực bắc Long An không thu được kết quả nào về quân sự. Lính Mỹ có hoạt động chiến tranh tâm lý như phát thuốc chữa bệnh, phát bánh kẹo quần áo cho trẻ em và rải hàng trăm ngàn truyền đơn, nhưng cũng chẳng lừa mị được ai. Đến đâu, chúng cũng bị nhân dân đánh tiêu hao bằng mọi loại vũ khí tự chế.

          Lính Mỹ càn quét vòng ngoài, để quân ngụy bình định vòng trong. Nhưng thực tế, lính Sư đoàn 25 và địa phương quân của ngụy chỉ co mình trong đồn bót, không hề phối hợp tác chiến.

          Đợt 2, cuộc phản công chiến lược mùa khô nổ ra khoảng tháng 4 – 1966. Lúc này Sư đoàn 25 “tia chớp nhiệt đới Mỹ” nổi tiếng là thiện chiến trong quân đội Mỹ, vào thay thế cho Lữ đoàn 173. Chúng bốc quân từ Đồng Dù, đổ xuống vùng Hậu Nghĩa. Lính Sư đoàn 25 Mỹ khi ở Haoai đã được huấn luyện kỹ về đánh chiếm các làng xóm ở miền Nam Việt Nam. Nhưng ra quân lần này, đi đến đâu, chúng cũng bị ăn đòn. Nhưng cái chết kinh khủng, do vũ khí thô sơ của du kích, làm cho chúng hoảng loạn thật sự. Trước cuộc chiến tranh nhân dân, bọn lính Mỹ không biết đâu là kẻ thù thực sự. Chết chóc, bị thương liên tục làm cho chúng thấy đối thủ của chúng như ở khắp các xóm ấp. Cuộc hành quân Mali của Sư 25 Mỹ bị thất bại.

          Với thắng lợi trên toàn miền Nam và Long AN nói chung, Đức Huệ nói riêng đã dấy lên phong trào toàn dân đánh Mỹ. Ở Quéo Ba, Mỹ Quý Tây có chị Chín Xuân dùng bom bi, trái gài diệt được nhiều Mỹ – Ngụy, trở thành “Dũng sỹ diệt Mỹ”. Những chiến công của quân dân Đức Huệ đã góp phần làm thất bại hai cuộc phản công chiến lược trên của Mỹ.

          2. Đức Huệ trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân xuân 1968:

          Sau khi ta đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của đế quốc Mỹ ở miền Nam, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã bàn vấn đề “chuyển cuộc cách mạng miền Nam sang một giai đoạn mới – giai đoạn giành thắng lợi quyết định”.

           Mục tiêu của cuộc “Tổng công kích – tổng khởi nghĩa” được đặt ra như sau: Thứ nhất là: phải “tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân ngụy; Đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân”.

          Thứ hai là, phải “tiêu diệt một bội phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, tập trung mũi nhọn chủ yếu diệt và làm tan rã ngụy quân, ngụy quyền. Đánh tê liệt, buộc Mỹ án binh bất động. Trên cơ sở đạt được, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua, ở Việt Nam, chấm dứt hành động chiến tranh đối với miền Bắc và đạt được mục tiêu trước mắt là độc lập, dân chủ, hào bình; trung lập ở miền Nam, tiến tới thống nhất nhà nước.

          Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, mặt trận và các đoàn thể ở Đức Huệ lúc ấy, ngày đên lặn lội trong phong trào: vửa chuẩn bị “Tổng công kích – tổng khởi nghĩa” trên địa bàn huyện, vừa vận động thanh niên tòng quân để bổ sung lực lượng vũ trang và đưa về trên; Vừa chỉ huy các đoàn dân công tải vũ khí, đạn dược… ra chiến trường.

          Đêm nào cũng có hàng ngàn dân công của Đức Huệ tải vũ khí ra chiến trường. Hàng trăm ngàn lượt dân công của Đức Huệ xung phong tòng quân giết giặc. Những đoàn xuồng 3 lá vận tải và những đoàn dân công mang vác, cứ vừa khuất mình là đã chia làm nhiều hướng lao về phía trước, lướt ngang qua dưới những trái sáng như những con mắt gương lên lờ đờ trên các đồn Quéo Ba, Hiệp Hoà, Kinh Xáng, Trà Cú…

            Hàng trăm ngàn lượt dân công của Đức Huệ và các cơ quan tỉnh đã liên tục chuyễn đưa 200 tấn đạn dược xuống vùng sát Sài Gòn để chuyển vào nội đô. Nhiều dân công của Đức Huệ đã phục vụ suốt tuyến đường từ biên giới Campuchia xuống vùng nam lộ 4 của tỉnh.         

 Khoản 3 giờ chiều ngày mồng 1 Tết (30/1/1968), các đơn vị được nghe nhận lệnh “Tổng công kích – tổng khởi nghĩa” của Bộ chỉ huy Miền. Hàng vạn trái tim trong khắp con chiến trường lúc ấy điều dâng lên một niềm xúc động lớn lao.

Ở Đức Huệ, quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy cũng phối hợp tiến công giòn giã vào các cứ điểm địch. Đại đội bộ binh cùng pháo binh huyện tập trung tấn công quận lỵ Đức Huệ đóng ở Hiệp Hòa, đánh vào bót Tân Cương (Mỹ Thạnh Bắc), căn cứ Quéo Ba và căn cứ Kinh Xáng – Trà Cú.

          Đến ngày 18 tháng 6 năm 1968, thì đợt tấn công đợt 2 vào thành phố kết thúc. Nhiều cán bộ, chiến sĩ của Đức Huệ đã anh dũng hy sinh trên các đường phố Sài Gòn, để lại những tên đất như cầu Chữ Y, sân bay Tân Sơn Nhất… vang xa trên thế giới và và trở thành những chấm son rực rỡ trong lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy ác liệt, hy sinh. Số cán bộ của Đức Huệ tăng cường cho Y4 (Đô Thành) chiến đấu và hy sinh gần hết ở khu vực Chợ Thiếc (quận 6). Phần lớn cán bộ cơ sở của Đức Huệ đưa vào công tác thành bị bắt, bị tù đày nhưng vẫn giữ khí tiết, trung thành với Đảng.

          Vào đợt 3 “Tổng công kích – tổng khởi nghĩa”, lực lượng Miền tập trung đánh mạnh ở Tây Ninh, Bình Long. Lực lượng phân khu 2 và 3 chủ yếu tấn công vào vùng nông thôn. Bộ đội địa phương và du kích Đức Huệ phối hợp đợt 3 “Tổng công kích – tổng khởi nghĩa”, liên tục pháo kích vào các căn cứ Hiệp Hòa, Quéo Ba, Kinh Xáng – Trà Cú và đánh tàu địch trên sông Vàm Cỏ Đông, diệt hơn 100 tên Mỹ – ngụy, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, bắn chìm 13 tàu chiến.

Thất bại trong năm 1968 của Mỹ – Ngụy đã buộc Giôn – xơn phải tuyên bố “ngừng ném bom miền Bắc”, “phi Mỹ hóa chiến tranh ở miền Nam” và phải chấp nhận đàm phán với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam tại Pa-ri.

                                                   

 

CHƯƠNG IV

TẠO THẾ – TẠO LỰC PHỐI HỢP VỚI LỰC LƯỢNG TRÊN GIẢI PHÓNG ĐỨC HUỆ, GÓP PHẦN GIẢI PHÓNG LONG AN, GIẢI PHÓNG SÀI GÒN (THÁNG 1 – 1969  – 30 – 4 – 1975)

           1. khắc phục khó khăn, vượt qua thử thách tạo thế và lực mới (tháng 1 –   1969  – 12 – 1972)

          Tháng 1 năm 1969, Ních – Xơn trúng cử tổng thống Mỹ tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam. Ngày 7 – 4 – 1969, Ních – Xơn tuyên bố chính thức triển khai chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, cốt lõi của chiến lực này vẫn là chương trình “Bình định” nông thôn. Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn cho rằng toàn bộ nỗ lực chiến tranh phải nhằm vào công cuộc “Bình định”.

          Kế hoạch đầu tiên của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ – ngụy là “Chương trình bình định xây dựng” dự kiến từ tháng 4 – 1969 đến tháng 6 – 1970, với lực lượng tập trung tối đa vào khu vực ven Sài Gòn và các tỉnh châu thổ sông Cửu Long. Sau khi hoàn thành “Chương trình bình định xây dựng” sẽ tiến hành “Chương trình bình định phát triển” từ 1970 đến cuối năm 1971, với tham vọng hoàn toàn kiểm soát các vùng tranh chấp và lấn chiếm một số vùng giải phóng của ta.

           Mùa khô đầu năm 1969, lực lượng vũ trang ta ở Đức Huệ cũng hoạt động mạnh. Các trận đánh tàu liên tục trên sông Vàm Cỏ Đông đã bắn chìm và cháy 20 tàu địch. Các trận pháo kích bằng hỏa lực mạnh (ĐKB và H12) vào Hiệp Hòa, Quéo Ba và Kinh Xáng liên tiếp nổ ra, loại khỏi vùng chiến đấu hơn 200 tên địch.

          Trận pháo kích Kinh Xáng – Trà Cú vào khoảng tháng 4 – 1969, bằng H12 và ĐKB bắn vào với phương pháp ứng dụng, diệt gần hết bọn biệt kích ngụy ở đây.

          Chưa lúc nào, trên vùng đất Long An khói lửa, bọn Mỹ – ngụy lại dồn về đây nhiều như khoảng giữa năm 1969. Vùng Đức Hòa, Đức Huệ có Lữ đoàn 3 của Sư 25 Mỹ, trung đoàn 46 của Sư 25 ngụy, chưa kể bọn bảo an, dân vệ và phòng vệ dân sự khá đông. Các đoàn bình định của địch ngày đêm hoạt động, kềm kẹp nhân dân.

          Địch đốt, phá địa hình, ngày đêm xom tìm hầm bí mật; tổ chức mạng lưới điềm chỉ viên, gián điệp trong nhân dân; gây mất lòng tin trong các gia đình cách mạng; gây cho ta rất nhiều khó khăn. Nhiều nơi, lực lượng ta phải bật về Ba Thu (biên giới Đức Huệ).

          Tuy tình hình khó khăn, bộ đội huyện và du kích các xã vẫn liên tục bám đất, đánh tiêu hao lực lượng Mỹ – ngụy. Riêng lực lượng bộ đội địa phương của Đức Huệ trong năm 1969 đã đánh được 87 trận, làm thương vong gần 300 tên Mỹ – ngụy và bắn cháy 7 máy bay, bắn chìm 12 tàu chiến, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh khác của chúng. Trong năm 1969, du kích Đức Huệ cùng hoạt động tích cực, đánh được 68 trận.

          Song song đó, các lực lượng chính trị huyện cũng bám sát dân vùng căn cứ để tuyên truyền vận động và đột sâu vào khu vực ấp Tân Cương, ấp 2, Mỹ Thạnh Đông để giáo dục vận động cách trong quần chúng.

          Ngày 20 – 11 – 1969, bọn Mỹ và lính Nam Triều Tiên đã gây ra vụ thảm sát lớn tại Giồng Ông Cố ở xã Mỹ Thạnh Đông, làm 25 người chết, trong đó có 1 ông già và một phụ nữ mang thai.

          Phía ta, vừa đấu tranh lên án bọn Mỹ và Nam Triều Tiên, vừa phát động căm thù trong nhân dân và lực lượng vũ trang.

          Chương trình Phượng Hoàng của Mỹ – ngụy trong năm 1969 tuy bị thất bại nhưng cũng gây cho ta nhiều tổn thất và khó khăn. Những tháng giữa năm 1969, con số chiêu hồi ở khu vực Hậu Nghĩa gia tăng.

          Bọn bình định lùng sục trong xóm, ấp vừa mị dân, vùa ly gián. Chúng bắt các gia đình có con em đi kháng chiến phải chụp ảnh và viết đơn xin chiêu hồi. Chúng tung tin tác động làm cho ngay cả gia đình cơ sở ta; anh, em ruột cũng không tin nhau.

          Lực lượng tập trung ở phân khu và của huyện không thể đóng quân đông, mà phải phân tán nhỏ để bảo tồn. Nhân dân, được sự giác ngộ của các đoàn thể cách mạng, tuy gặp muôn vàn khó khăn vẫn tin yêu và tìm mọi cách giúp đỡ, chở che cho bộ đội và cán bộ hoạt động.

          Riêng đại đội bộ đội huyện Đức Huệ và các lực lượng vũ trang, chính trị trong toàn huyện, tuy có khó khăn, ác liệt, nhưng có hậu cứ lớn ở biên giới Campuchia làm chỗ dựa nên cũng có điều kiện khá hơn các nơi khác trong tỉnh.

          Hoạt động của các lực lượng ở phân khu, trong thời kỳ này càng đặc biệt khó khăn, tổn thất khá cao, lực lượng huyện rất yếu và thiếu. Hoạt động đoàn thể ở xã nhiều nơi không có. Có những xã không còn du kích, không còn nguồn bổ sung cho lực lượng huyện và phân khu.

          Vào năm 1970, Mỹ – ngụy ở Long An vẫn còn đông như năm 1969, chúng tập trung phát hoang, phá địa hình và rúng ép, kềm kẹp nhân dân khá chặt chẽ, tới từng ấp. Các lực lượng cách mạng vẫn bám sát quần chúng, lãnh đạo quần chúng chống phát hoang, đòi được trở về ruộng cũ làm ăn, chống bắt lính, đôn quân.

          Hòa chung với cuộc tiến công của toàn tỉnh, quân và dân Đức Huệ trong năm 1972 đã đánh địch hành chục trận, diệt hàng trăm tên địch, thu và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, tạo ra một vùng căn cứ giải phóng liên hoàn khá rộng, cho các lực lượng cách mạng của tỉnh và đơn vị bạn đúng chân.

2. Trừng trị địch phá hoại Hiệp định Pa-ri – tiến lên tiến công địch trong đông xuân 1974-1975, giải phóng Đức Huệ:

          Cuối năm 1972 đầu năm 1973, Hiệp định Pa-ri được ký kết. Đây cũng là kết quả của những nỗ lực lực về mọi mặt, đặc biệt là về quân sự của quân và dân toàn miền Nam. Nhân dân và các lực lượng cách mạng toàn Miền như được tiếp thêm một luồng sinh khí mới. Quân ngụy thì hoang mang dao động. Mỹ đổ vào một khối lượng vũ khí lớn, trước khi rút quân Mỹ về nước, hòng hà hơi, tiếp sức cho quân ngụy đúng vững.

           Cuối tháng 2-1973, Thường vụ tỉnh ủy (lúc này gọi là Long An) họp và chỉ thị: “Phải tuyên truyền giáo dục cho quần chúng thấy được bản chất hiếu chiến của địch, kiên quyết trừng trị địch vi phạm Hiệp định. Đẩy mạnh tiến công chính trị, binh vận, kết hợp đấu tranh bằng pháp lý Hiệp Định”.

Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng ra đời, mở đầu một thời kỳ mới của cách mạng miền Nam. Tháng 9 năm 1973, Trung ương Cục ra Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng. Tháng 11 năm 1973, Tỉnh ủy Long An mở rộng hội nghị, kiểm điểm 9 tháng thi hành Hiệp định Pa-ri, đánh địch lấn chiếm và quán triệt Nghị quyết 21 của Trung ương và Nghị quyết 12 của Trung ương Cục.

          Mùa khô 1973-1974, hoạt động của ta đều khắp trên các vùng ở Long An. Tiểu đoàn 45 của bộ đội tỉnh, kết hợp với bộ đội huyện và du kích xã của huyện Đức Huệ, đánh địch nhiều trận. Nhiều trận đánh cấp tiểu đoàn đã diễn ra quanh khu vực Giồng Voi, Mỹ Thạnh tây, làm cho bọn địch ở Quéo Ba phải co lại. Vùng ven sông vàm Cỏ Đông thuộc Đức Huệ, Đức Hòa cơ bản được giải phóng, tạo điều kiện cho nhân dân Đức Huệ tác động, đòi trở về ruộng vườn cũ làm ăn. Hàng trăm người dân ngày ra vùng trắng làm ăn, đêm quay về vùng tranh chấp, tạo điều kiện đưa tin tức về tình hình và tiếp tế, cung cấp cho lực lượng ta thuốc men, lương thực, thực phẩm, các loại nhu yếu phẩm. Các vùng căn cứ cũ như Móp Xanh, Hội Đồng Sầm, Giồng Dinh,… lại là nơi trú quân an toàn đối với các lực lượng của ta.

           Bước vào mùa khô 1974-1975, chiến trường toàn Miền sôi động hẳn lên. Chiến dịch đường 14, Phước Long giành thắng lợi lớn rất cơ bản. Lần đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ, ta giải phóng hoàn toàn một tỉnh, chiếm luôn tỉnh lỵ mà quân ngụy đành bó tay và quân Mỹ cũng không có khả năng can thiệp.

          Tháng 12-1974, Tiểu đoàn 1 đứng chân vùng Thạnh Lợi – Bình Đức, giáp ranh xã Bình Hòa Nam của Đức Huệ đã đánh tan tác một liên đoàn địa phương quân (tương đương cấp tiểu đoàn), giết tại chỗ tên thiếu tá Phát, chi khu phó, chi khu quân sự Thủ Thừa, bắt sống mấy chục tù binh, thu hàng trăm súng và nhiều đồ dùng quân sự. Tin thắng trận càng làm quân và dân Đức Huệ thêm phấn khởi, tin tưởng, hăng hái đóng góp sức người, sức của cho cách mạng.

          Long An lúc này có 2 nhiệm vụ quan trọng là: phục vụ chiến đấu cho lực lượng chủ lực Miền và tham gia tiến công trực tiếp vào Sài Gòn từ hướng tây nam. Khẩu hiệu của ta lúc này là “xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh”.

          Huyện ủy Đức Huệ lúc này đã ráo riết chỉ đạo cho các lực lượng quân sự, chính trị của toàn huyện tập trung mọi nỗ lực, dốc sức phục vụ chiến đấu và chuẩn bị thời cơ giải phóng toàn huyện. Ngày 25-3-1975, Sư 5 của ta đánh thủ Thừa, tiến lên cắt đứt lộ 4. Do hợp đồng với tiếng súng toàn Miền chưa chặt, nên lực lượng ta bị thương vong nhiều. Suốt ngày đêm, trên tuyến kênh Ma Reng, Bo Bo, hàng trăm chiếc xuồng tấp nập đi về, đưa thương binh về tuyến sau và tiếp đạn, tải lương cho tuyến trước. Phong trào đi dân công hỏa tuyến của toàn huyện lên cao chưa từng có. Hàng ngàn dân công từ các xã đã hăng hái phục vụ chiến đấu hàng tháng, trên tất cả các trục hành lang.

          Đại đội bộ đội địa phương của huyện vừa tham gia phục vụ chiến đấu, vừa tổ chức lực lượng, bao vây, cô lập căn cứ Quéo Ba, đồn Kinh Xáng – Trà Cú. Lực lượng dân vận của ta tích cực vận động quần chúng, giúp đõ mọi mặt cho lực lượng Binh đoàn 232 về ăn, ở và mọi phương tiện sinh hoạt. Hàng ngàn lượt quần chúng đã tham gia mở đường cho các đoàn xe pháo ra trận.

          Do sức ép về quân sự và bao vây cô lập của quân dân Đức Huệ, đến ngày 30-3-1975, toàn bộ quân địch ở đồn Quéo Ba phải tháo chạy. Lịch sử của năm 1964 một lần nữa được lặp lại ở Đức Huệ. Có điều là lần rút chạy này của quân địch ở đồn Quéo Ba – một căn cứ biệt kích nổi tiếng của quân ngụy, từng được hai tên tổng thống ngụy quyền là Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu đáp máy bay đến khen ngợi – đã vĩnh viễn ra đi, không có ngày trở lại. Khi chúng rút về đến Bà Mùi, bị lực lượng chủ lực ta phục kích, đánh tan tác. bọn địch ở bót Tân Cương tất nhiên cũng không thể bám giữ, buộc tháo chạy. Trên cơ bản, huyện Đức Huệ được giải phóng. Đây là huyện giải phóng sớm nhất trong tỉnh và khu vực. Toàn bộ huyện Đức Huệ như hiện nay, ; lúc đó chỉ có đồn kinh Xáng – Trà Cú ngoan cố bám lại, nhưng cũng nằm im trong đồn, chờ ngày kết thúc bi thảm.

          Thừa thắng xông lên, bộ đội huyện và du kích hình thành thế bao vây, cô lập hẳn bọn địch ở đồn Kinh Xáng – Trà Cú và quận lỵ Hiệp Hòa.

          Hàng ngày có hàng mấy trăm dân công đi theo các tuyến đường, đưa đón, dẫn đường cho bộ đội, vừa chặt cây cối, lấp bưng, làm đường cho các đoàn xe quân sự vượt sông Vàm Cỏ Đông.

          Ngày 28-4-1975, quân ta tiến công giải phóng quận lỵ Đức Huệ của địch ở Hiệp Hòa và tỉnh lỵ Hậu Nghĩa. Đồn Kinh Xáng – Trà Cú bị cắt mọi nguồn tiếp tế và liên lạc. Địch buộc phải bỏ đồn, tháo chạy, lớp đầu hàng, lớp bị bắt làm tù binh. Số hạ sĩ quan và binh lính của địch được ta giáo dục và thả liền tại chỗ.

          Toàn bộ huyện Đức Huệ không còn một bóng quân thù. Ngày 30-4-1975, quân ta từ các mũi tiến vào giải phóng Sài Gòn. Cả nước tưng bừng trong niềm vui chiến thắng. Chiến dịch Hồ Chi Minh toàn thắng, kết thúc vẻ vang giai đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ trên phạm vi cả nước.

          Hòa trong niềm vui lớn của dân tộc, hàng chục ngàn đồng bào Đức Huệ đã lần lượt trở về mảnh đất ruột thịt của mình, để bắt tay vào xây dựng lại quê hương.

          Nhân dân Đức Huệ cũng như nhân dân Long An và nhân dân cả nước chuyển sang thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cùng cả nước, nhân dân Đức Huệ quyết tâm phấn đấu hoàn thành hia nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây