Giới thiệu khái quát huyện Mai Sơn

huyện Mai Sơn - Tỉnh Sóc Trăng

Giới thiệu khái quát huyện Mai Sơn

Mai Sơn là một huyện miền núi của tỉnh Sơn La, là huyện trọng điểm kinh tế của Tỉnh nằm trong cụm tam giác kinh tế Thành phố Sơn La – Mai Sơn – Mường La. Nhân dân các dân tộc Mai Sơn có một bề dày truyền thống văn hoá hết sức phong phú và đa dạng, với truyền thống đoàn kết, truyền thống lịch sử đấu tranh anh dũng gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Tiếp nối truyền thống đấu tranh anh dũng, vận dụng sáng tạo đường lối của Trung ương Đảng vào điều kiện cụ thể của địa phương, sau hơn ba mươi lăm năm xây dựng và phát triển từ ngày giải phóng đến khi đất nước hoàn toàn thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội, đây là thời kỳ cùng với nhân dân cả nước tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục nền kinh tế; đồng thời là thời kỳ thực hiện công cuộc đổi mới và cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Trải qua muôn vàn khó khăn, thử thách, sự khắc nghiệt của thiên nhiên, sự đe doạ của kẻ thù xâm lược và các thế lực thù địch, nhưng với tình yêu quê hương, đất nước nồng nàn, truyền thống cần cù lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp là Đảng bộ tỉnh Sơn La, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Mai Sơn đã cùng kề vai sát cánh với nhân dân cả nước vượt qua những biến động phức tạp của tình hình thế giới cùng với những khó khăn trong nước của những thập niên cuối thế kỷ XX, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Mai Sơn đã đoàn kết một lòng, phát huy tiềm năng, thế mạnh, đã giành được những thành tựu về kinh tế, xã hội hết sức quan trọng, đem lại nhiều đổi thay trên quê hương Mai Sơn, tạo ra thế và lực mới, những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện  đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi sướng và lãnh đạo, đã được khẳng định về những thành tựu sau 25 năm thực hiện.

VỊ TRÍ ĐỊA LÝ

Huyện Mai Sơn nằm trong toạ độ, từ 20052’30” đến 21020’50” vĩ độ Bắc; từ 103041’30” đến 104016′ kinh độ Đông.

Phía Bắc giáp huyện Mường La, thành phố Sơn La. Ranh giới chủ yếu là đồi núi, khe suối

Phía Đông giáp huyện Yên Châu, ranh giới chủ yếu là đồi núi, khe suối; giáp huyện Bắc Yên với ranh giới là dòng Sông Đà (chảy qua hai xã Chiềng

Chăn và Tà Hộc).

Phía Tây giáp huyện Sông Mã, huyện Thuận Châu. Ranh giới chủ yếu là đồi núi, khe suối.

Phía Nam giáp huyện Sông Mã, tỉnh Hủa Phăn (CHDCND Lào). Ranh giới chủ yếu là đồi núi, khe suối, với chiều dài dường biên giới 6,4 km.

Huyện lỵ đóng tại thị trấn Hát Lót. Từ TP Sơn La đến huyện lỵ đi theo đường Quốc lộ 6, dài khoảng 30 km. Từ Hà Nội đến huyện lỵ có hai tuyến đường: Tuyến Quốc lộ 6 (đường 41 ngày xưa) dài khoảng 270 km, hướng về Hà Nội qua các huyện Yên Châu, Mộc Châu…; tuyến đường 113A (tức đường 13) đi qua huyện Bắc yên, Phù Yên sang tỉnh Yên Bái về Hà Nội dài khoảng 370 km.

Tổng diện tích tự nhiên là 143.247,0 ha , trong đó:

– Tổng diện tích nhóm đất nông nghiệp đến 01 tháng 01 năm 2014 là: 102.253,61 ha chiếm 71,24% so với tổng diện tích tự nhiên toàn huyện.

– Tổng diện tích đất lâm nghiệp đến 01 tháng 01 năm 2014 là: 62.826,75 chiếm 43,86% so với tổng diện tích đất tự nhiên của toàn huyện

– Tổng diện tích nhóm đất phi nông nghiệp của toàn huyện đến 01 tháng 01 năm 2014 là: 5.463,61 ha chiếm 3,81% so với tổng diện tích tự nhiên toàn huyện. Được phân bố như sau:

+ Đất ở: Tổng diện tích đất ở toàn huyện là: 842,04 ha chiếm 0,59% so với tổng diện tích đất phi nông nghiệp.

+  Đất chuyên dùng: Tổng diện tích đất chuyên dùng đến ngày 01 tháng 01 năm 2014 là: 3.101,09 ha chiếm 2,16% so với tổng diện tích đất phi nông nghiệp.

+ Đất phi nông nghiệp khác: Có diện tích là 7,49 ha chiếm 0,01% so với tổng diện tích nhóm đất phi nông nghiệp.

+ Đất chưa sử dụng: Tổng diện tích nhóm đất chưa sử dụng là: 35.729,78 ha chiếm 24,94% so với tổng diện tích tự nhiên của toàn huyện, bao gồm đất đồi núi chưa sử dụng và núi đá không có rừng cây.

TIỀM NĂNG ĐẤT ĐAI

Theo kết quả tổng hợp từ bản đồ thổ nhưỡng tỉnh Sơn La, tài nguyên đất của huyện Mai Sơn có các loại đất chính sau:

– Đất Feralit mùn đỏ vàng trên đá biến chất (FHj): bao gồm hầu hết ở vùng đồi núi, có màu vàng đỏ. Với loại đất này thích hợp cho việc trồng cây lâm nghiệp, cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày, loại đất này chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng quỹ đất với 43,50%.

– Đất nâu đỏ trên đá vôi (Fv): có diện tích khoảng 26.442 ha, chiếm 18,50% tổng quỹ đất.

– Đất vàng đỏ trên đá sét (Fs): có diện tích khoảng 30.564 ha, chiếm 21,40% tổng quỹ đất.

– Đất Feralit mùn vàng trên đá cát (FHq): có diện tích khoảng 1.998 ha, chiếm 5,60% tổng quỹ đất.

– Đất phù sa ngòi suối (P’): phân bố chủ yếu ven các suối Nậm Pàn, Nậm Quét, Nậm Lẹ,….Loại đất này rất thích hợp cho việc trồng lúa, hoa màu và các loại cây ăn quả. Có diện tích khoảng 2.541 ha, chiếm 1,80% tổng quỹ đất.

– Đất dốc tụ (Ld): phân bố chủ yếu ở các phiêng bãi bằng phẳng, loại đất này thích hợp cho việc trồng cây ăn quả, cây công nghiệp,…Có diện tích khoảng 9.526 ha, chiếm 6,67% tổng quỹ đất.

Hầu hết các loại đất trên địa bàn huyện có độ dày tầng đất trung bình đến khá, thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng. Các chất dinh dưỡng trong đất, như: Đạm, Lân, Kali, Canxi, Manhê… có hàm lượng trung bình. Do đa phần đất đai nằm trên độ dốc lớn, độ che phủ của thảm thực vật thấp nên cần chú trọng các biện pháp bảo vệ đất, hạn chế rửa trôi, xói mòn làm nghèo dinh dưỡng đất.                                                

KHÍ HẬU, THỦY VĂN

– Khí hậu, thời tiết:

Mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền núi Tây Bắc, các yếu tố khí hậu, thời tiết đo được như  sau:

+ Nhiệt độ trung bình trong năm là 21o C.

+ Thường nóng nhiều vào các tháng 4 – 8

+ Thường lạnh nhiều vào các tháng: 11 – 03 năm sau

+ Thường nắng nhiều vào các tháng: 3-10 với tổng số giờ nắng 1.940 giờ/năm.

+ Thường mưa nhiều vào các tháng: 5-9

+ Độ ẩm trung bình năm là 80,5%.

+ Tổng lượng mưa bình quân 1.410 mm/năm.

– Thuỷ văn:

+ Sông, suối: Ngoài dòng sông Đà chảy qua huyện với chiều dài 24 km, Mai Sơn còn có hệ thống suối thuộc lưu vực sông Đà và sông Mã như: Nậm Pàn, Nậm Khiêng, Nậm Pó, Ta Vắt, Suối Quét, Huổi Hạm, Nậm Mua, suối Căm,…. với tổng chiều dài khoảng 250 km và nhiều con suối nhỏ khác.

+ Nguồn nước tự nhiên cho sản xuất và đời sống: Chủ yếu là đập dâng trên các con suối để cung cấp nước tưới cho cây trồng. Nước sinh hoạt của nhân dân chủ yếu được khai thác thông qua hệ thống cấp nước tự chảy, nước ngầm. Nhìn chung nước sông, suối là nguồn nước chính dùng cho sản xuất và sinh hoạt hàng ngày của nhân dân hiện nay.

Núi, đồi, đèo, dốc, hang động, đường biên giới:

 Đường biên giới: Có 6,4 km giáp với bản Nà Noong, huyện Xiềng Khọ – tỉnh Hủa Phăn nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, tại địa phận bản Đen và bản Pẻn thuộc xã Phiêng Pằn.

– Hệ thống hang động: Số lượng ít, chủ yếu là những hang nhỏ và một số hang lớn (đó là các hang ở khu vực thị trấn Hát Lót, ở Chiềng Lương… theo lời kể của các bậc cao niên, hang có lòng rộng, sâu, dài hàng km). Trong đó đã được khai thác, sử dụng là hang Thẳm Quai Quai ở bản Na Tre, xã Chiềng Ban, trong chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tỉnh uỷ Sơn La đã sơ tán về đây và hang Thẳm Quai được khai thác, sử dụng làm hội trường, nơi tổ chức các hội nghị của tỉnh uỷ (từ tháng 6/1965 – 1979). Để tới được hang, có thể đi theo hai tuyến đường chính: Tuyến đường thứ nhất, từ đường Quốc lộ 6 đến ngã ba Mai Sơn, theo đường 4G vào huyện Sông Mã (khoảng 6 km), qua dốc bản Mạt 200m có đường rẽ phải, đi khoảng hơn 1 km là tới hang Thẳm Quai (Có biển chỉ dẫn); tuyến thứ hai: Từ Thành phố Sơn La suôi về Hà Nội theo đường Quốc lộ 6, đến km 6 rẽ phải đi qua Công ty cấp II đi thẳng là tới hang.

Núi, đồi, đèo, dốc, cao nguyên:

– Cao nguyên Nà Sản: Thuộc địa phận của xã Chiềng Mung, độ cao trung bình 750 m so với mực nước biển, cao nguyên tương đối bằng phẳng, tầng đất mặt là tầng đất tích tụ các chất màu bị rửa trôi từ các dãy núi bao quanh cao nguyên, do đó đất ở đây rất màu mỡ, mặt khác khí hậu ở đây mạng tính chất chung của khí hậu vùng Tây Bắc, rất thích hợp với nhiều loại cây trồng, vật nuôi. Cao nguyên kéo dài theo đường Quốc lộ 6 và có cảng hàng không rất thuận lợi cho việc giao lưu và giao thương với các vùng trong huyện, trong tỉnh và với các tỉnh Miền Bắc.

– Dãy núi Pha Văn: Là dãy núi cao, xen đất đá, kéo dài từ xã Cò Nòi đến trung tâm Thị trấn Hát Lót.

– Nhóm núi vây quanh và chia cắt xã Phiêng Pằn với các vùng lân cận, gồm: Dãy núi Chom Mai, nằm giữa địa phận của xã Phiêng Pằn và xã Chiềng Lương, kéo dài từ giáp huyện Yên Châu đến Phú lương (Chiềng Lương), có đỉnh Chom Mài cao hơn 1.500 m so với mực nước biển; dãy núi Pu Luông (Pu Luông = Núi to)  nằm giữa xã Phiêng Pằn và xã Nà Ớt; núi Pu Khặc (Pu Khặc = dấu = danh giới) nằm giữa xã Phiêng Pằn và xã Mường Sai – huyện Sông Mã; pu Quai hảy (Quai hảy = Trâu khóc, núi quá dốc nên trâu không thể qua được, trâu phải khóc xin thua), nằm giữa xã Phiêng Pằn và xã Chiềng Lương.

– Nhóm núi ngăn cách xã Nà Ớt với các vùng lân cận, gồm: Pu Chom Khang (Chom Khang = Đỉnh sắt) nằm giữa xã Nà Ớt và xã Mường Sai – huyện Sông Mã; Pu Lọng Dang, nằm giữa xã Nà Ớt và xã Phiêng Cằm; Pu Xúm Hom, là dãy núi kéo dài từ Nà Ớt qua đỉnh đèo Trạm Cọ, ngăn cách xã Nà Ớt với xã Phiêng Cằm và xã Chiềng Kheo.

– Nhóm núi ngăn cách xã Phiêng Cằm và xã Chiềng Nơi với các khu vực lân cận, gồm: Núi Pu Tạu là núi ngăn cách xã Chiềng Nơi với xã Chiềng Dong; núi Đông Bai và Chom Tẳng là hai dãy núi ngăn cách xã Chiềng Nơi với xã Chiềng Chung.

– Nhóm núi tiếp giáp xã Mường Chùm – huyện Mương La, gồm:

– Đèo Chiềng Đông, là danh giới giữa Xã Cò Nòi – huyện Mai Sơn và xã Chiềng Đông – huyện Yên Châu (nằm chủ yếu trên đất xã Chiềng Đông).

– Dốc Mường Hồng, là con dốc nằm trên Quốc lộ 6, là danh giới giữa Thị trấn Hát Lót và Xã Hát Lót, dốc dài 5 km, đầu con dốc phía xã Hát Lót, có Hồ Tiền Phong là điểm du lịch sinh thái.

– Dốc Bản Mạt, là con dốc thuộc địa phận Bản Mạt – xã Chiềng Mung, nằm trên Quốc lộ 4G, dốc có chiều dài 2 km, là danh giới giữa bản Mạt với xã Chiềng Mai và  xã Chiêng Ban, đầu con dốc phía Bản Mạt có Bia căm thù, là di tích thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

– Dốc Xi nạ và đèo Trạm Cọ, là hệ thống đèo, dốc nối liền nhau, trên trục đường Quốc lộ 4G và nằm giữa xã Chiềng Kheo và xã Nà Ớt. Dài khoảng 10 km.

Các dãy núi, đèo, dốc nêu trên, là những dãy núi, đèo, dốc tiêu biểu, có độ cao và độ dốc lớn, ngăn cách giữa các vùng, tạo ra các vùng tiểu khí hậu rất đặc

trưng của Mai Sơn.

TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN

Khoáng sản của huyện Mai Sơn phần lớn có quy mô nhỏ, trữ lượng không lớn, lại phân tán và điều kiện khai thác không thuận tiện, xa đường giao thông.

Đáng chú ý có các loại khoáng sản sau:

– Vàng sa khoáng ở xã Chiềng Lương, Chiềng Chung, Chiềng Dong, Chiềng ve và một số điểm khác nhưng trữ lượng không lớn.

– Mỏ đồng Chiềng Chung, mỏ quặng sắt xã Phiêng Pằn

– Nguồn đá vôi và đất sét phân bố tương đối rộng, điều kiện khai thác thác thuận lợi dùng để sản xuất vật liệu xây dựng thông thường như mỏ đá vôi ở xã Chiềng Mung; Nà Pát, xã Nà Bó; xã Hát Lót; xã Cò Nòi…

– Đất sét ở Chiềng Chung, Mường Chanh, là loại đất có tính chất đặc biệt, rất thích hợp cho sản xuất đồ gốm.

Ngoài ra trên địa bàn còn có hơn: 1.000 núi đá có thể khai thác làm nguyên liệu xây dựng, làm đường giao thông và làm nguyên liệu cho nhà máy xi măng.

TÀI NGUYÊN SINH VẬT

– Diện tích rừng nguyên sinh: 0 ha

– Diện tích rừng tái sinh: 2.515 ha

– Diện tích rừng trồng: 690 ha

– Độ che phủ của rừng: 43,7 % (số liệu năm 2014).

– Có những loài thực vật quý hiếm: Nghiến, lát, đinh hương… các loại tre, trúc và các loại cây dược liệu: Đẳng sâm, sa nhân, hương nhu, cửu cẩu, hoàng tinh..

– Có những loài động vật quý hiếm: Hươu, nai, gấu, khỉ…; các loại chim: Công, trĩ, vẹt, hoạ mi, khướu…

Mai Sơn – 65 năm xây dựng, phát triển và hội nhập

Sáu mươi lăm năm, kể từ Ngày Đảng bộ huyện thành lập (20-11-1948) và 60 năm Ngày giải phóng huyện Mai Sơn (10-8-1953), dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Mai Sơn đã phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết, cần cù, sáng tạo, đổi mới, vượt qua khó khăn, thử thách, khơi dậy tiềm năng, thế mạnh, huy động các nguồn lực xây dựng huyện ngày càng phát triển, xứng đáng với danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. 

Ban%20do%201 - Giới thiệu khái quát huyện Mai Sơn

Năm 1945, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hòa chung với khí thế cách mạng của cả nước, nhân dân các dân tộc huyện Mai Sơn đã đứng lên giành chính quyền vào ngày 20-8-1945. Trước yêu cầu mới, để trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng, ngày 20-11-1948, Tỉnh ủy Sơn La quyết định thành lập Ban cán sự Đảng châu Mai Sơn, đánh dấu sự trưởng thành, lớn mạnh của phong trào cách mạng ở Mai Sơn. Trong chiến dịch Tây Bắc năm 1952, dưới sự chỉ đạo của Châu ủy, Ủy ban Kháng chiến hành chính, quân và dân các dân tộc Mai Sơn phối hợp với 12 tiểu đoàn quân chủ lực nhất loạt đứng lên phá trại tập trung, diệt bọn tề gian. Đồng thời, huy động lực lượng tấn công các cứ điểm xung quanh Nà Sản, tiêu diệt và làm bị thương hơn 400 tên địch, bắt sống và gọi hàng 266 tên, thu 218 súng các loại… Từ ngày 8 đến 10-8-1953, địch rút quân khỏi Nà Sản, đánh dấu thời điểm nhân dân Mai Sơn hoàn toàn được tự do, làm chủ vận mệnh của mình.

thi%20tran%20hat%20lot%201 - Giới thiệu khái quát huyện Mai Sơn

 Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, ngày 14-6-1965, máy bay Mỹ dội bom xuống Hát Lót, Cò Nòi, Nà Sản, Chiềng Mung, Chiềng Mai. Cùng với phát triển sản xuất, nhân dân các dân tộc Mai Sơn trực tiếp tham gia chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đồng thời chi viện cho chiến trường miền Nam. Hàng nghìn con em các dân tộc Mai Sơn lên đường nhập ngũ chi viện cho chiến trường miền Nam và làm nhiệm vụ quốc tế với nước bạn Lào đến ngày toàn thắng. Ghi nhận những thành tích đạt được, Đảng, Nhà nước đã tặng thưởng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho huyện Mai Sơn cùng ba xã Cò Nòi, Mường Chanh và Mường Bằng.

DSC 4242 - Giới thiệu khái quát huyện Mai Sơn

Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng bộ huyện Mai Sơn đã vận dụng sáng tạo các nghị quyết của Đảng vào thực tiễn địa phương, đổi mới tư duy, phương thức lãnh đạo, quản lý của cấp ủy, chính quyền các cấp, lấy phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng làm then chốt. Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực, phát huy lợi thế, gắn với thị trường; các ngành, lĩnh vực, vùng đều có bước phát triển tiến bộ. Huy động được nội lực, thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Sản xuất nông, lâm nghiệp đã phát huy tiềm năng, lợi thế gắn với thị trường, hình thành được các vùng cây công nghiệp tập trung như cà phê, mía đường, sắn công nghiệp, cao su… Chương trình xây dựng nông thôn mới đã hoàn thành phê duyệt đồ án quy hoạch và công bố, cắm mốc qui hoạch của 21/21 xã. Sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển mới, Nhà máy mía đường với công suất 2.500 tấn mía/ngày, Nhà máy tinh bột sắn 150 tấn tinh bột sắn/ngày, Nhà máy xi măng Mai Sơn công suất 1 triệu tấn/ năm… đi vào hoạt động, đã thu hút được nhiều lao động tại địa phương. Các ngành dịch vụ phát triển, hàng hóa đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân. Mai Sơn còn chung sức thực hiện tốt Dự án di dân TĐC thuỷ điện Sơn La, đón 920 hộ, 3.500 khẩu đến 8 khu 19 điểm TĐC tập trung ổn định sản xuất và đời sống. Lĩnh vực văn hoá – xã hội, giáo dục, y tế có nhiều tiến bộ, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện, công tác xóa đói giảm nghèo được lồng ghép với các chương trình dự án, số hộ khá tăng lên; tỷ lệ hộ nghèo năm 2013 còn dưới 20%; tạo việc làm cho gần 2.000 người/năm. Tăng cường củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và củng cố.

Công tác xây dựng được coi trọng. Năm 1948, châu Mai Sơn mới có 11 đảng viên, đến nay, Đảng bộ huyện có 91 tổ chức cơ sở đảng, với 7.738 đảng viên. Đảng bộ huyện đã trải qua 18 kỳ đại hội. Từng giai đoạn, Đảng bộ đã đề ra các nghị quyết lãnh đạo phù hợp, quán triệt, triển khai và thực hiện hiệu quả các nghị quyết của Đảng. Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên, quy hoạch, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động, luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý. Thường xuyên xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện, xã, thị trấn, chủ động đề ra nhiều giải pháp tích cực, tổ chức điều hành thực hiện hiệu quả các mục tiêu phát triển KT-XH; đảm bảo quốc phòng – an ninh.

Trong thời gian tới, Đảng bộ huyện tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; phát huy nội lực, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư; phát triển kinh tế theo hướng bền vững, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm đạt 13- 14%. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tích cực; tạo chuyển biến về chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của các sản phẩm. Tăng cường công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch sản xuất nông, lâm nghiệp, các cơ sở sản xuất và chế biến công nghiệp gắn với thị trường và lợi thế của từng vùng; thực hiện tốt chính sách thu hút đầu tư. Khai thác hiệu quả các nguồn vốn từ đất để hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng. Nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, chăm lo đời sống nhân dân; thực hiện tốt chế độ, chính sách an sinh xã hội. Giữ vững quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội. Tăng cường công tác xây dựng Đảng trên các lĩnh vực: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả các nghị quyết của Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; quan tâm phát triển Đảng trong lực lượng thanh niên, lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ, bản, trường, trạm y tế. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong hệ thống chính trị, đoàn kết các dân tộc; củng cố vững chắc khối liên minh công – nông – trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.

nha%20may%20xi%20mang%20mai%20son - Giới thiệu khái quát huyện Mai Sơn

  Kỷ niệm 65 năm Ngày thành lập Đảng bộ, 60 năm Ngày giải phóng huyện Mai Sơn, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Mai Sơn vinh dự, tự hào được đón nhận Huân chương Độc lập hàng Nhì của Đảng, Nhà nước trao tặng. Phát huy truyền thống Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, đoàn kết, sáng tạo, khơi dậy nội lực, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư; phát triển kinh tế theo hướng bền vững; giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng – an ninh, sớm đưa Mai Sơn trở thành huyện phát triển của tỉnh.

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây