Giới thiệu khái quát huyện Thạnh Hóa

Giới thiệu khái quát huyện Thạnh Hóa

Giới thiệu khái quát huyện Thạnh Hóa

ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN

Thạnh Hóa là 1 trong 5 huyện, 01 thị xã  thuộc Đồng Tháp Mười và nằm phía bắc tỉnh Long An, cách thành phố Tân An 32 km về hướng Bắc theo QL.62, cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh 80 km về hướng Đông Bắc theo QL.62-QL.1A và 68 km theo QL.N2. Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là 46837,28 ha, dân số là54.778 người. 13.806 hộ (năm 2013).

  1. Vị trí địa lý

– Về tọa độ địa lý,

+ Kinh độ Đông   : 106028’78” – 106058’40”

+ Vĩ độ Bắc                   : 10057’59” – 10081’50”

– Về ranh giới địa lý hành chính,

+ Phía Đông giáp huyện Thủ Thừa;

+ Phía Tây giáp các huyện Tân Thạnh và Mộc Hóa.

+ Phía Nam giáp huyện Tân Phước của tỉnh Tiền Giang;

+ Phía Bắc và Đông Bắc giáp Campuchia và huyện Đức Huệ;

Toàn huyện được chia thành 11 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm thị trấn Thạnh Hóa và các xã Tân Hiệp, Thuận Bình, Thạnh An, Thạnh Phước, Thạnh Phú, Thuận Nghĩa Hòa, Thủy Tây, Thủy Đông, Tân Tây và Tân Đông.

Trung tâm huyện đặt tại thị trấn Thạnh Hóa, là nơi tập trung các cơ quan Đảng, đoàn thể, trụ sở hành chính quản lý nhà nước, các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa cấp huyện và là trung tâm kinh tế đô thị hàng đầu của huyện.

Về đường bộ, trên địa bàn huyện Thạnh Hóa có các tuyến giao thông chính yếu kết nối cấp vùng sau:

– Tuyến QL.62 nối liền huyện Thạnh Hóa với huyện Tân Thạnh và huyện Thủ Thừa với điểm đầu là Cống Bắc Đông và điểm cuối là Rạch Tân Thạnh, được xem như tuyến trục chính nối liền huyện Thạnh Hóa với thành phố Tân An

– Tuyến QL.N2 là tuyến giao thông ngắn nhất từ TP Hồ Chí Minh xuyên qua vùng Đồng Tháp Mười đi các tỉnh phía Bắc vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

– Ngoài ra trên địa bàn cũng đang định tuyến QL.N1, là tuyến giao thông kết nối các huyện thị dọc biên giới Việt Nam – Campuchia.

– Tuyến Vàm Thủ – Bình Hòa Tây (Bắc Vàm Cỏ Tây) đi qua địa bàn nối liền Thủ Thừa và Mộc Hóa.

– Phía Bắc ngoài ranh địa bàn là tuyến ĐT.839 kết nối với thị trấn Đông Thành (huyện Đức Huệ) và trục đường phía Tây sông Vàm Cỏ Đông, sẽ liên tuyến với tuyến đường kênh Ma Ren

Về đường thủy, sông Vàm Cỏ Tây được xem như tuyến giao thông thủy huyết mạch trên địa bàn kết nối với hệ thống các kênh trục quan trọng như kênh Dương Văn Dương, kênh Bắc Đông, được xem là các tuyến giao thông thủy quan trọng trong giao lưu kinh tế giữa huyện Thạnh Hóa với tỉnh Đồng Tháp, thành phố Tân An và thành phố Hồ Chí Minh, giữa các huyện trong nội bộ tỉnh.

Về vị trí kinh tế,

– Trước khi tuyến QL.N2 hình thành, huyện Thạnh Hóa được xem như là cửa ngõ của thành phố Tân An hướng về vùng Đồng Tháp Mười qua tuyến QL.62.

– Sau khi tuyến QL.N2 hình thành, huyện Thạnh Hóa được xem như là huyện đầu cầu của vùng Đồng Tháp Mười hướng về trung tâm vùng kinh tế trọng điểm phía Nam,  là một trong những điểm kết nối giao lưu giữa các huyện thị thuộc tỉnh Long An và tỉnh Đồng Tháp về các khu vực kinh tế năng động thuộc thành phố Hồ Chí Minh và các vệ tinh phát trển công nghiệp – đô thị (Đức Hòa, Bến Lức) thông qua QL.N2 và kênh Dương văn Dương.

Trong tầm nhìn dài hạn, ngoài 2 tuyến trên, địa bàn huyện Thạnh Hóa còn có nhiều tiềm năng phát triển giao lưu kinh tế hướng về phía Nam (qua huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang) và hướng về phía bắc (khu vực kinh tế biên giới) dù rằng khả năng phát triển theo các hướng này ít thuận lợi hơn so với Tân Thạnh, Mộc Hóa và Đức Huệ.   

– Về vị trí phát triển sản xuất kinh tế, trong phân vùng địa lý kinh tế của tỉnh Long An, Thạnh Hóa thuộc tiểu vùng IV (gồm Thạnh Hóa, Bắc Thủ Thừa và một phần huyện Tân Thạnh), nhiệm vụ chủ yếu là phát triển nông lâm ngư nghiệp với sản phẩm chủ lực là lúa, đay, tràm và nuôi thủy sản nước ngọt. Tuy nhiên trong tình hình phát triển kinh tế và thu hút đầu tư sắp tới, một số địa bàn thuộc huyện cũng có một số khả năng phát triển nhất định về đô thị, công nghiệp và thương mại dịch vụ.

  1. Điều kiện tự nhiên

2.1. Khí hậu, thời tiết

Điều kiện khí hậu của huyện Thạnh Hóa mang đặc điểm khí hậu chung của vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với nền nhiệt độ cao đều quanh năm, ánh sáng dồi dào, lượng mưa khá lớn và phân bố thành 2 mùa rõ rệt.

– Chế độ nắng: tổng số giờ nắng trung bình năm vào khoảng 2.765 giờ/năm, trung bình ngày 7,6 giờ nắng và phân hóa theo mùa. Tổng lượng bức xạ trong năm156,7 Kcal/năm, mùa mưa lượng bức xạ trung bình vào khoảng 14,3kcal/tháng; mùa khô lượng bức xạ trung bình vào khoảng 11,8 kcal/tháng.

– Lượng mưa trung bình là 1.447,7mm/năm và phân bổ không đều ở các tháng trong năm. Mùa mưa tập trung từ tháng 5 đến tháng 10 chiếm 85% tổng lượng mưa cả năm; các tháng còn lại mưa ít, lượng mưa chỉ chiếm 15% tổng lượng mưa trong năm. Chế độ mưa là yếu tố khí hậu quan trọng có tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp và mùa vụ trên địa bàn huyện.

– Nhiệt độ bình quân năm là 27,2oC. Nhiệt độ trung bình cao nhất là 29,3oC thường vào tháng 5; tháng 1 có nhiệt độ trung bình thấp nhất là 25oC.

– Lượng bốc hơi trung bình hàng năm vào khoảng 1.323,6mm/năm chiếm hơn 90% lượng mưa. Lượng bốc hơi cao nhất là 129,3 mm thường thường vào tháng 2 cao gấp 37 lần lượng mưa trong  tháng.

– Tổng tích ôn cao 9.7860C/năm, biên độ nhiệt trong năm dao động 4,3oC, biên độ nhiệt ngày đêm dao động 8 -10oC.

– Độ ẩm không khí trung bình 79% có thay đổi theo mùa và theo diễn biến của chế độ mưa.

– Vào mùa mưa, gió mùa Tây Nam mang theo nhiều hơi nước với hướng gió thịnh hành là Tây Nam; vào mùa khô, gió mùa Đông Bắc mang không khí khô có hướng gió thịnh hành là Đông Bắc và Đông; chuyển tiếp giữa 2 mùa là gió Đông, gió Tây Nam.

2.2. Thủy văn

     Ngoài 2 dòng chảy chính trên địa bàn là sông Vàm Cỏ Tây và kênh Dương văn Dương, trong quá trình khai thác địa bàn, đã hình thành hệ thống các kênh rạch chằng chịt với tổng chiều dài khoảng 1.340 km, mật độ khá cao (2,86 km/km2)

Các dòng chảy chính trên địa bàn bao gồm:

     – Sông Vàm Cỏ Tây, chảy theo hướng Tây Nam và kết nối với Sông Vàm Cỏ Đông tại địa bàn 3 huyện Tân Trụ, Cần Đước và Châu Thành. Đoạn chảy qua địa phận huyện Thạnh Hóa có chiều dài khoảng 46 km, chiều rộng trung bình khoảng 150 – 200 m, được xem như tuyến giao thông thủy và là trục cấp nước chính trên địa bàn

– Kênh 61 và kênh Dương Văn Dương: là 2 kênh tạo nguồn nước ngọt chính trên địa bàn huyện, lấy nước từ  sông Tiền.

Hệ thống các kênh rạch quan trọng khác bao gồm:

– Hệ thống các kênh ngang, bao gồm các kênh trục chính như: kênh Xáng Thủy Tân, kênh 30-4, kênh 2000 Bắc với tổng chiều dài khoảng 37km.

– Hệ thống các kênh dọc, bao gồm các kênh trục chính như: kênh Ma Ren, kênh T6, kênh An Xuyên, kênh Cái Kè với tổng chiều dài khoảng 39km.

Các kênh rạch trên vừa là tuyến giao thông thủy, vừa là các trục cấp và tiêu nước chính trên địa bàn. Ngoài ra còn có hơn 300 kênh nội đồng lớn nhỏ phục vụ cho nhu cầu tưới, tiêu úng, xả phèn phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.

Do nằm trong khu vực Đông Bắc của vùng đồng lũ kín Đồng Tháp Mười, huyện Thạnh Hóa chịu ảnh hưởng ngập lũ hàng năm và chịu ảnh hưởng của 2 dòng lũ: lũ từ sông Tiền và lũ tràn biên giới Campuchea. Thời kỳ cao điểm ngập lũ chậm hơn và độ ngập thuộc vào loại trung bình so với toàn vùng Đồng Tháp Mười. Ứng với tần suất 20% (lũ trung bình),

– Vào cuối tháng 9, khu vực trung tâm địa bàn huyện bắt đầu ngập 0,25-0,75 m;  khu vực phía Bắc, Đông Bắc và Đông Nam chưa ngập

– Trong tháng 10, trừ khu vực giáp biên giới Campuchea ngập nông (0,25-0,50 m), toàn địa bàn đều ngập khoảng 1,00-1,50 mét, khu vực ngập sâu nhất  nằm về phía Tây và trung tâm địa bàn.

– Đến tháng 11, lũ rút dần và độ ngập chỉ còn trong khoảng 0,25-0,50 m tùy vào địa hình từng khu vực.

Ứng với tần suất 1% (tương đương lũ năm 2000), ngập lũ đến sớm hơn khoảng 15-20 ngày và độ ngập tối đa trong khoảng 1,75-2,00 m, trong điều kiện kết cấu hạ tầng còn yếu kém vào thời kỳ đó, trận lũ năm 2000 đã gây nhiều thiệt hại đáng kể; đồng thời ngập lũ cũng là tác nhân dẫn đến việc phải phòng hộ và nâng cao mặt bằng các công trình xây dựng rất tốn kém. Tuy nhiên, các mặt tích cực của ngập lũ là thau chua rửa phèn, vệ sinh đồng ruộng, bổ sung nguồn lợi thủy sản và một ít phù sa.

 Ngoài yếu tố ngập lũ theo chu kỳ hàng năm, huyện Thạnh Hóa còn bị ảnh hưởng của chua phèn (khu vực Bắc Đông và những vùng đất mới khai hoang) từ tháng 3 đến tháng 5 hàng năm. Do địa hình thấp trũng khó tiêu thoát nước, khả năng rửa phèn trên các địa bàn này rất chậm.

Vào thời kỳ mùa kiệt hàng năm (tháng 3-5), đường ranh mặn 4g/l đã theo sông Vàm Cỏ Tây vượt qua địa bàn theo triều. Trong bối cảnh thay đổi khí hậu toàn cầu, xâm nhập mặn có khuynh hướng ngày càng gia tăng.

2.3. Địa hình, địa chất

2.3.1. Địa hình

     Địa hình địa bàn huyện Thạnh Hóa mang đặc điểm chung của địa hình vùng Đồng Tháp Mười thấp, trũng và khó thoát nước, khuynh hướng địa hình thấp dần theo hướng Đông Bắc – Tây Nam và có thể phân thành 2 dạng sau:

– Địa hình trung bình: cao độ từ 0,9 – 1,2 m, chiếm khoảng 4,9% diện tích  đất tự nhiên toàn huyện. Phân bố tập trung tại khu vực tiếp giáp biên giới Campuchia thuộc địa bàn các xã Tân Hiệp, Thuận Bình và một phần diện tích xã Tân Đông (khu vực giáp huyện Thủ Thừa).

– Địa hình thấp: cao độ < 0,9 m chiếm khoảng 95,1% diện tích đất tự nhiên toàn địa bàn. Nơi thấp nhất có cao độ <0,6 m chiếm khoảng 5,3% tập trung chủ yếu tại các xã Thạnh Phú, Thuận Nghĩa Hòa và thị trấn Thạnh Hóa.

2.3.2. Địa chất – Địa mạo

     Về địa chất, địa bàn được hình thành chủ yếu qua quá trình bồi lắng trầm tích biển và phù sa của sông Cửu Long, trên bề mặt ở độ sâu 50 m có 2 loại trầm tích:Holocen (phù sa mới) và Pleistocen (phù sa cổ).

     Về địa mạo, địa bàn huyện Thạnh Hóa có 2 dạng chính:

     – Khu vực dốc tụ triền phù sa cổ: nằm tiếp nối với dãy phù sa cổ từ  Campuchia, chiếm diện tích không đáng kể (5%), chủ yếu tại Tân Hiệp. Đất có địa hình tương đối cao và có khuynh hướng thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam; thành phần cơ giới nhẹ vật liệu chủ yếu là thịt pha cát có sét, không phèn, tương đối thích ứng cho xây dựng công trình.

     – Đồng lũ kín: thuộc khu vực Đông Bắc vùng Đồng Tháp Mười, hình thành do quá trình phù sa mới bồi tụ trong môi trường biển nông. Dạng địa hình đặc trưng là trũng thấp, khó tiêu thoát nước và ngập lũ hàng năm, lớp mặt đến độ sâu 5-50 m là phù sa mới với vật liệu đất chủ yếu là sét có vật liệu sinh phèn nằm phủ lên lớp phù sa cổ;  địa chất công trình nhìn chung là kém.

  1. Đánh giá chung

Về mặt vị trí và điều kiện tự nhiên huyện Thạnh Hóa có những lợi thế sau:

– Với vị trí cửa ngõ vùng Đồng Tháp Mười đối với thành phố Tân An qua QL.62 và trục sông Vàm Cỏ Tây – kênh Xáng Thủy Tân, Thạnh Hóa được xem như địa bàn vệ tinh và cánh tay nối dài của thành phố Tân An hướng về vùng Đồng Tháp Mười và có thuận lợi trong việc tiếp nhận các chuyển giao, đầu tư về công thương nghiệp, dịch vụ từ thành phố Tân An và cũng là một trong những điểm trung chuyển hướng về đô thị trung tâm Tân An.

– Với quá trình hình thành và phát triển của 2 trục giao thông bộ quan trọng cấp vùng (QL.N1, QL.N2) đi qua địa bàn, kết hợp với tuyến kênh Dương Văn Dương, trong tầm nhìn dài hạn, huyện Thạnh Hóa có vai trò đầu cầu nối liền các tỉnh huyện khu vực trung tâm và phía Đông vùng Đồng Tháp Mười hướng về trung tâm vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (thông qua 2 cửa ngõ Tân Thạnh và Đức Hòa), có nhiều tiềm năng phát triển các điểm trung chuyển – chế biến về nông sản phẩm và thương mại dịch vụ trong thế giao lưu kinh tế giữa 2 vùng trên.   

          – Với đường biên giới dài 9 km (6,36% tổng chiều dài đường biên giới của tỉnh Long An), địa bàn Thạnh Hóa có tiềm năng phát triển và giao lưu kinh tế khu vực biên giới phía bắc tỉnh Long An, nhất là sau khi tuyến QL.1A hình thành..

– Quỹ đất dồi dào, giá đất còn thấp. Tài nguyên đất đai khá đa dạng, nếu được khai thác và cải tạo tốt thì ngoài việc thích nghi tốt cho phát triển lâm nghiệp và lúa, địa bàn có nhiều tiềm năng trong phát triển các cây công nghiệp ngắn ngày và hình thành các vùng chuyên canh tập trung.

– Hệ thống sông kênh rạch phong phú, thuận lợi giao thông thủy với nhiều tuyến giao thông quan trọng (sông Vàm Cỏ tây, kênh Dương văn Dương, kênh Xáng Thủy Tân)

– So với các huyện thị khác thuộc tỉnh long An, Thạnh Hóa là địa bàn có thảm rừng lớn nhất, độ đa dạng sinh thái cao hơn và có sinh cảnh đặc trưng thuận lợi cho phát triển du lịch sinh thái.

Về mặt hạn chế, các đặc điểm vị trí và điều kiện tự  nhiên sau cần lưu ý:

– Địa bàn huyện nằm trong khu vực Đông Bắc vùng Đồng Tháp Mười, thuộc dạng địa mạo đồng lũ kín, địa hình trũng thấp và khó tiêu thoát nước, thau chua rửa phèn và thường xuyên chịu ảnh hưởng của lũ lụt gây ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của đại đa số cư dân trên địa bàn.

– Phần lớn địa bàn có cao trình thấp, các đặc tính địa chất công trình kém gây nhiều khó khăn tốn kém trong phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và giảm sức hút đầu tư công thương nghiệp.

– Phần lớn đất đai trong khu vực có độ phì thấp do bị nhiễm phèn và nhiễm mặn vào mùa khô. Khả năng sử dụng đất phèn trong nông nghiệp đạt hiệu quả chưa cao.

– Với sự hình thành của hệ thống kênh mương nội đồng, độ chia cắt của địa bàn khá cao dẫn đến các yếu tố bất lợi về mặt đầu tư phát triển giao thông bộ.

– Nguồn nước ngầm tầng nông không đạt tiêu chuẩn chất lượng cho khai thác phục vụ sản xuất và sinh hoạt; nguồn nước ngầm tầng sâu đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng nhưng khai thác còn nhiều hạn chế do giá thành khai thác cao.

TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THẠNH HOÁ

1. Truyền thống văn hóa

         Huyện Thạnh Hoá nằm trong vùng đất Đồng Tháp Mười, từ những ngày đầu khai phá đến đầu thế kỷ XVIII  nơi đây chưa có tên gọi. Từ thế kỷ XVIII trở đi người ta gọi nơi đây là Đồng Tháp Mười, đó là một vùng đất trũng, hoang vu thưa thớt bóng người, khắp nơi là rừng rậm đầm lầy và những rừng tràm bạt ngàn, xứ sở của các loài muôn thú; chim, cá, rắn, rùa….Nhưng từ thế kỷ XVIII trở đi tòan cảnh vùng nầy bắt đầu biến đổi, nhiều nông dân  nghèo từ miền trung rời bỏ quê hương lưu tán đến vùng đất Đồng Nai, Sài Gòn-Gia Định, lần lần đi sâu xuống Bến Lức-Tân An và từng bước tiến sâu về Đồng Tháp Mười theo hướng Tây-Bắc dọc theo sông Vàm Cỏ Tây.

         Những người lưu dân đến đây đã biến Đồng Tháp Mười từ vùng đất hoang vu rừng rậm, đầm lầy thành những khu dân cư nhộn nhịp, buôn bán giao lưu trao đổi hàng hóa bắt đầu phát triển. Trong quá trình chinh phục thiên nhiên để tạo dựng cuộc sống những đức tính vốn có như: cần cù, chịu khó, sáng tạo của những người cùng cảnh ngộ nghèo khó, phiêu bạt, lao động cực nhọc để kiếm sống ngày càng được phát huy, đồng thời làm nẩy nở nhiều đức tính tốt đẹp trong quan hệ sinh hoạt với nhau như: sống đòan kết, chuộng nghĩa tình, sống thủy chung, sẳn sàng chia bùi xẻ ngọt, tối lửa tắc đèn có nhau…. Trong gia đình luôn ánh lên nét đẹp truyền thống thể hiện trong mối quan hệ giữa các thành viên như: kính trên, nhường dưới, ông bà mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng thủy chung, anh em hoà thuận. . .vv.

         Thiên nhiên của vùng Đồng Tháp Mười bao la, vừa khắc nghiệt vừa hào phóng đã ban tặng con người với lúa trời, bông súng, cá, tôm cùng những sinh vật hoang dã….đã góp phần tạo cho người dân nơi đây một nếp sống hào hiệp, phóng khoáng yêu thiên nhiên và ưa thí ch tự do. Những đức tính ấy ngày càng được bồi đắp và nâng lên hoà quyện vào đạo lý truyền thống dân tộc như: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương”,”Máu chảy ruột mềm”,”Lá lành đùm lá rách”….vv

         Ngày nay, đạo lý truyền thống ấy vẫn luôn toả sáng khi đồng bào Miền trung, Miền tây bị bão lụt….và tinh thần ấy càng sáng tỏ hơn trong các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước như: “xoá đói giảm nghèo”, “uống nước nhớ nguồn”,”Đền ơn đáp nghĩa”, “Phát động ngày vì người nghèo”…..góp phần giải quyết tốt những vấn đề xã hội nhằm hướng đến mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”.

          2. Lễ hội truyền thống trên quê hương Thạnh Hóa

          Lễ hội xuất hiện từ xa xưa, luôn gắn liền với cuộc sống và sinh hoạt của cộng đồng. Do điều kiện sống và sinh hoạt mỗi vùng không giống nhau nên sinh hoạt lễ hội cũng khác nhau.

         Trên quê hương Thạnh Hoá hiện đang tồn tại 2 dạng lễ hội; Lễ hội mang tính gia đình, lễ hội mang tính xã hội:

         2.1. Lễ hội mang tính gia đình

         Bao gồm lễ cưới, lễ hỏi, lễ đầy tháng, thôi nôi, sinh nhật, mừng thọ….(tính dương). Lễ tang, lễ làm tuần, lễ giổ….(tính âm). Hầu hết các gia đình sinh sống trên địa bàn huyện dù có đạo hay không đều có truyền thống tổ chức lễ hội gia đình.

         Việc tổ chức các lễ hội gia đình là một nhu cầu vô cùng thiêng liêng và mang tính huyết thống đời người, gắn với lịch sử tộc họ trong cộng đồng dân cư.

         Ngày nay lễ hội mang tính gia đình có sức lan tỏa rộng, tuy mang tính gia đình nhưng là việc trọng đại của mọi nhà và của cả cộng đồng.

         2.2. Lễ hội mang tính xã hội

         Bao gồm lễ hội dân gian cổ truyền và lịch sử truyền thống:

         *Lễ hội dân gian cổ truyền: Gồm lễ cúng đình, cúng miếu….được hình thành từ xa xưa và truyền lại trong các cộng đồng nông thôn ngày nay. Hiện nay trên địa bàn huyện có 4 đình làng do Ban quản trị đình cai quản và tổ chức lễ cầu an hàng năm gồm:

          Đình trung Thạnh Phước, tổ chức lễ cầu an ngày 11-12/ 03 ( Âm lịch)

          Đình liên xã Thuận Nghĩa Hoà, tổ chức lễ cầu an ngày 22-23/ 03(Âm lịch) 

          Đình liên xã Thị Trấn, tổ chức lễ cầu an ngày 11-12/ 03 (Âm lịch)

          Đình Tân Đông, tổ chức lễ cầu an hàng năm vào 2 ngày 16/ 01 và 16/ 07 (Âm lịch)

         Các đình làng được xây dựng trong thế kỷ XIX, trong chiến tranh bị tàn phá nặng nề, sau ngày Miền nam hoàn toàn giải phóng được nhân dân khôi phục thờ cúng và tổ chức lễ hội hàng năm.

         Biểu tượng thờ cúng: Các vị thần linh, các vị anh hùng vong thân, những người có công với nhân dân đất nước.

         Nghi thức thờ cúng: Trống mõ, nhang đèn, nhạc lễ, xôi thịt, hoa quả, nhân dân đi lễ đình làng khấn nguyện cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cơm no áo ấm…

         * Lễ hội lịch sử truyền thống:

         Trong 2 cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Thạnh Hoá được Đảng, Nhà Nước phong tặng danh hiệu”Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”cho 02 tập thể, 02 cá nhân, phong tặng danh hiệu “Mẹ Việt Nam anh hùng” cho 40 bà mẹ, công nhận 1980 hộ gia đình có công với đất nước, trong dó có 766 liệt sĩ, 238 thương-bệnh binh.

         Sau 30/04/1975 để tưởng nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong 2 cuộc kháng chiến Đảng, Nhà nước và nhân dân huyện đã xây dựng 01 bia truyền thống tại xã Thạnh Phước, 02 nhà bia ghi tên liệt sĩ tại xã Thuận Nghĩa Hoà và xã Thuỷ Đông. Hàng năm vào ngày 27/7 (Ngày Thương binh-Liệt sĩ) Đảng, chính quyền và nhân dân các xã-thị tổ chức lễ tưởng niệm với sự tham gia của đại diện huyện uỷ, ủy ban nhân dân và các ngành đoàn thể huyện.

         Nghi lễ được tổ chức trang trọng tại bia truyền thống và nhà bia tưởng niệm, đại diện Đảng, Nhà nước các ngành đoàn thể và nhân dân đến thắp hương tưởng niệm công lao các anh hùng liệt sĩ có công với quê hương, đất nước và cầu nguyện cho đất nước thanh bình, cuộc sống ấm no…..                                                                                                                                      

         3. Tín ngưỡng Tôn giáo

         3.1. Tín ngưỡng

         Nhân dân Thạnh Hóa hơn 90% là người không theo đạo, nhưng có truyền thống “Thờ cúng tổ tiên ông bà”, tuy không theo một tôn giáo nào nhưng trong tâm tưởng họ vẫn tồn tại một lực lượng siêu nhiên, thần bí như: Trời, Phật, Thánh thần…. Có khả năng tác động đến đời sống tâm linh của họ nên họ có nhu cầu lập bàn thờ cúng Trời, Phật, người quá cố và làm lễ tang, lễ làm tuần, lễ giổ cho người thân trong gia đình khi qua đời. Hàng năm vào các ngày đầu năm, ngày vía… Người dân thường tổ chức đi núi, thăm chùa dâng hương lễ phật cầu an cho gia đình và cầu cho việc mua bán, kinh doanh phát đạt….

         3.2. Tôn giáo

         Huyện Thạnh Hoá có 3 tôn giáo chính gồm; Phật giáo, Cao đài, Công giáo và một nhóm ít người theo đạo Tin lành. Trong từng tôn giáo cũng có những hệ phái khác nhau, trong mỗi hệ phái có những biểu hiện khác nhau về hình thức và niềm tin.

         *Phật giáo:

          Hiện nay huyện có 3 chùa đều toạ lạc trên địa bàn thị trấn Thạnh Hoá, các chùa đều có trụ trì, tăng ni, phật tử với 1112 tín đồ sinh sống khắp các xã-thị trên địa bàn.

         –Giáo lý cơ bản: Bộ giáo lý gồm 3 tạng kinh; Kinh- Luật- Luận với hàng vạn quyển sách.

         –Nghi thức cơ bản: Gồm y áo, mõ, chuông, nhang đèn, hoa quả, dâng hương, tụng niệm….Nghi thức đạo phật là hình thức góp phần tăng thêm tính thiêng liêng cho Phật giáo.

         –Những ngày lễ trọng: Có 3 ngày lễ chính như sau:

         Mùng 8/ 1 lễ cầu an đầu năm.

              Mùng 8/ 4 lễ Phật đản.

              Ngày 14,15/ 7 lễ Vu lan báo hiếu.

         Ngoài ra còn có các ngày lễ: 15/1 lễ Thượng ngươn, 15/7 lễ Trung ngươn, 15/10 lễ Hạ ngươn và các ngày tưởng niệm Đức Quan thê âm, Đức Địa tạng vương, Đức Thích ca thành đạo…..

         *Cao đài:

          – Có 3 hệ phái chính gồm: Cao đài Tây Ninh, Cao đài Tiên Thiên, Cao đài Ban Chỉnh với 1892 tín đồ sinh sống hầu hết các xã thị trong huyện.

              Cao đài Tây Ninh: 1032 tín đồ, Thánh thất tại Thạnh Phú.

              Cao đài Tiên thiên:  687 tín đồ, Thánh tịnh tại Thủy Tây.

              Cao đài Ban chỉnh:  173 tín đồ, Thánh thất tại Thạnh Phú

         – Giáo lý cơ bản: Giống giáo lý đạo phật có bổ sung phù hợp với nhu cầu tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam.

         – Những ngày lễ trọng: Giống các ngày lễ của đạo phật và các ngày vía trong năm.

         * Công giáo:

          Hiện có 3 giáo xứ  với 1915 tín đồ sinh sống tập trung ở các địa phương có cơ sở thờ tự.

              Giáo xứ  Vườn Xoài:   652 tín đồ, toạ lạc tại Thuận Nghĩa Hoà.

              Giáo xứ Nước Trong:  669 tín đồ, toạ lạc tại Thủy Đông.

              Giáo xứ  Tân Đông:    561 tín đồ, toạ lạc tại Tân Đông.

         – Giáo lý cơ bản: Thể hiện trong kinh thánh, kinh thánh có giá trị đặc biệt thiêng liêng đối với tín đồ công giáo,” Không biết kinh thánh là không biết Chúa Kitô”

         – Những ngày lễ trọng: Có 4 lễ chính như sau:

Lễ Chúa Giáng sinh 25/12.

Lễ đức Chúa lên trời (Sau lễ phục sinh 40 ngày)

Lễ Đức Mẹ lên trời 15/8.

Lễ các Thánh 01/11.

         Ngoài ra còn có các ngày lễ khác như: Chủ nhật quanh năm, lễ Phục sinh, lễ Chúa Thánh thần…..

         *Tin lành:

          Không có cơ sở thờ tự, có 92 tín đồ sinh sống rãi rác ở các xã Tân Hiệp, Tân Đông, Thủy Đông. Các tín đồ đạo tin lành tu tại gia, tổ chức cầu nguyện vào thứ tư hàng tuần.

         Đa số các tín đồ tôn giáo ở Thạnh Hóa là nông dân lao động gắn bó với đồng ruộng quê hương, có tinh thần dân tộc, gắn bó với độc lập tổ quốc. Các tín đồ tôn giáo có nhiều đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.

         Trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước, Đảng ta thừa nhận tín ngưỡng tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo tôn giáo có những điều còn phù hợp với sự nghiệp xây dựng con người mới, xã hội mới, và còn tồn tại lâu dài bên cạnh sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

         4. Những nhân vật, địa danh anh hùng

         4.1. Nhân vật anh hùng

         Nhân dân Thạnh Hoá có tinh thần yêu nước, truyền thống đấu tranh cách mạng, là nơi sản sinh ra những nhân vật anh hùng.

         *Anh hùng: NGUYỄN VĂN KHÁNH (tức Nguyễn Văn Be) Sinh năm 1940 quê quán xã Thạnh Phước, tham gia cách mạng từ rất sớm, chức vụ xã đội trưởng xã Thạnh Phước, Đảng viên Đảng Cộâng sản Việt Nam. Trong 9 năm trực tiếp tham gia chiến đấu, dồng chí đã cùng đồng đội chiến đấu 190 trận, diệt 2600 tên địch, riêng Anh diệt và làm bị thương trên 300 tên trong đó có 2 lính Mỹ, diệt gọn 1 trung đội biệt kích, 1 tiểu đội bảo an, đánh thiệt hại nặng 2 trung đội bảo an khác, bắn cháy, chìm và phá hủy 04 tàu sắt, 01 tàu dầu, 02 thuyền máy Hô-Bo cao tốc, đánh 06 đồn 06 tua, thu 62 súng các loại.

         Đồng chí Nguyễn Văn Khánh hy sinh ngày 22/04/1969 trong một trận tập kích tàu chiến địch tại đường Rạch Bàng xã Thạnh Phước. Được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 20/12/1994.

         *Anh hùng: VÕ VĂN THÀNH. Sinh 1950 quê quán xã Thạnh Phú huyện Thạnh Hoá, tham gia lực lượng công an nhân dân, công tác tại đơn vị công an an ninh tỉnh Kiến Tường, cấp bậc thượng sĩ, hy sinh ngày 01/04/1973 tại xã Nhựt Ninh huyện Tân Trụ tỉnh Long An. Được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 2000.

         4.2. Địa danh anh hùng

         Thạnh Hoá có 2 xã vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quí “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

         * Quân dân xã Đông Thuận (xã Thủy Đông và Thuận Nghĩa Hoà ngày nay). Trong 21 năm đánh Mỹ quân, dân Đông Thuận đã đánh địch hơn 500 trận lớn nhỏ, nhân dân ở đây “binh vận” làm tan rã tại chỗ 2 tiểu đoàn địch (khoảng 500 lính và sĩ quan cấp thấp), bắn cháy 03 tàu sắt, 01 tàu cây, bắn rớt 04 máy bay lên thẳng 01 máy bay phản lực F105, diệt và làm bị thương gần 4.000 tên địch, trong đó có 25 lính viễn chinh Mỹ. Riêng đợt tập kích đồn A, đồn B ta làm rã ngũ 1.500 binh lính ngụy, trong đó có 02 đại đội địch được điều từ An Giang lên.

         Nhân dân và du kích Đông Thuận làm hàng triệu chông sắt, sản xuất trên 20 tấn vũ khí tự tạo (thủy lôi và các loại trái gài). Quân dân Đông Thuận được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” ngày 20/12/1994.

         * Quân dân xã Thạnh Phước (Thạnh Phú-Thạnh Phước). Trong 21 năm đánh Mỹ quân dân xã Thạnh Phước đã đánh địch trên 300 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu gần 3.000 tên địch, trong đó có gần 30 lính viễn chinh Mỹ. Nhân dân đã gọi hàng và làm tan rã hơn 1.100 tên địch, trong số bị loại khỏi vòng chiến đấu có 03 đại đội biệt kích, bắn cháy 06 tàu mặt dựng, bắn cháy và làm chìm 03 chiết Ho-Bo, bắn rơi 01 máy bay phản lực F105, 01 máy bay trinh sát L19, 01 máy bay lên thẳng chiến đấu. Quân dân xã Thạnh Phước sản xuất trên 15 tấn vũ khí thô sơ, hàng triệu chông đinh và chông sào.

         Với thành tích chiến đấu trên, quân dân xã Thạnh Phước được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quí “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” ngày 20/12/1994.

         5. Các mẹ VNAH – Gia đình có công cách mạng

         Trong lịch sử đấu tranh cách mạng chống quân xâm lược, Thạnh Hoá có 40 bà mẹ được phong tặng danh hiệu cao quí “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Hiện nay có 23 Bà mẹ đã mất, 17 Bà mẹ còn sống hiện được các cơ quan đơn vị trong và ngoài huyện nhận phụng dưỡng đến cuối đời.

         Trong 2 cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Thạnh Hoá có 1.980 gia đình có công với đất nước trong đó có 766 liệt sĩ, 238 thương, bệnh binh được Nhà nước tặng thưởng 1.013 huân chương, 770 huy chương các loại.       

DI TÍCH LỊCH SỬ- VĂN HÓA

KHU TƯỞNG NIỆM LIỆT SĨ TRUNG ĐOÀN 207

Không phải là một danh thắng với sông núi hữu tình, không là nơi có kiến trúc độc đáo, cũng không phải là nơi có nhiều cổ vật quý hiếm, lại nằm giữa một vùng đất xa khu dân cư, đi lại khó khăn, nhưng từ lâu nay Khu tưởng niệm liệt sĩ Trung đoàn 207 là nơi đến của rất nhiều người dân từ các nơi trong nước. Mọi người đến đây với cái tâm thành kính đối với những người đã khuất, đến đây để thấy sự thắm đẩm tình người trong tinh thần “Đền ơn đáp nghĩa” sâu nặng của dân tộc Việt Nam.

Nằm cạnh rạch Bắc Bỏ thuộc ấp Đá Biên, xã Thạnh Phước, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An, Khu tưởng niệm là nơi ghi dấu sự kiện hơn 100 chiến sĩ Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 207 hy sinh vào ngày 03/10/1973.

Khu vực này trước đây là một rừng tràm nhỏ, nằm cạnh rạch Bắc Bỏ (Bắc Bỏ không phải là miếu thờ những chiến sĩ người Bắc bỏ mình trong trận đánh ngày 03/10/1973 mà địa danh này đã có từ trước cuộc kháng chiến chống Pháp). Sau trận đánh ngày 03/10/1973, nhân dân trong vùng tưởng nhớ các chiến sĩ hy sinh tại đây đã lập miếu thờ tại khu vực này. Năm 2012, Ban liên lạc truyền thống Trung đoàn 207 phối hợp với UBND huyện Thạnh Hóa xây dựng lại nơi thờ tự các liệt sĩ và Khu tưởng niệm liệt sĩ Trung đoàn 207 ra đời bằng nguồn vận động tài trợ là chính.

Có thể đi đến Khu tưởng niệm theo đường sau: Từ thành phố Tân An, du khách theo Quốc lộ 62 về hướng Bắc khoảng 30 km thì đến thị trấn Thạnh Hóa. Từ đây, du khách đi khoảng 1km theo Quốc lộ N2 rồi rẽ vào tỉnh lộ 817 (đường tỉnh Vàm Thủ- Bình Hòa Tây) khoảng 12 km là đến Ủy ban nhân dân xã Thạnh Phước, đi tiếp khoảng 5 km đường sông là đến nơi. Du khách cũng có thể đến nơi này bằng cách theo Quốc lộ 62 đến Km 56 (cầu 79, huyện Tân Thạnh), qua kênh 12, đi khoảng 3 km theo kênh 30 tháng 4 là đến Khu di tích.

Những lão làng của vùng đất Thạnh Phước còn nhớ: Tháng 12 năm 1972, trước ngày ký kết hiệp định Paris, địch đã vạch sẵn một kế hoạch bình định và lấn chiếm vùng giải phóng. Đầu năm 1973, trước ngày ngừng bắn, địch cho máy bay liên tục ném bom, cắm cờ lấn đất, giành dân với ta trên khắp cả 4 vùng trong tỉnh Kiến Tường.

Những tháng cuối năm 1973, địch tập trung lực lượng đánh phá hành lang biên giới và tái chiếm vùng 4, vùng 6,  vùng 8 tỉnh Kiến Tường.

Tháng 10/1973, Trung đoàn 207, nhận nhiệm vụ luồn sâu xuống Đồng Tháp Mười đi ngang qua ấp Đá Biên, sau đó tập kết tại huyện Cai Lậy, tỉnh Định Tường để chuẩn bị lực lượng cho mùa khô năm 1974, thành lập Sư đoàn 8 và đánh căn cứ Ngã 6, Ngã 4 Thanh Mỹ.

Ngày 01/10/1973, từ căn cứ Mỏ Vẹt thuộc tỉnh Svây Riêng – Cam-pu-chia, Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn 207 hành quân đến sông Vàm Cỏ Tây. Tại đây,  đoàn quân được đưa qua sông. Nhưng sau khi vượt sông thì trời sáng nên phải ém lại, đợi đến tối sẽ tiếp tục hành quân.

Chiều ngày 02/10/1973, đoàn quân xuất phát dự định đến Gò Nôi, xã Hậu Thạnh, huyện Tân Thạnh ngày nay. Nhưng vì hành quân vào mùa nước nổi, các chiến sĩ Trung đoàn 207 sau một đêm lội nước, đến 1 giờ 30 phút (sáng) thì đuối sức nên dừng lại nghỉ ngơi tại khu vực rạch Bắc Bỏ, không vượt lộ 12  như dự tính ban đầu. Đây là một khu rừng tràm nhỏ, khoảng 2 công đất (2.000 m) thuộc ấp Đá Biên, xã Thạnh Phước, huyện Thạnh Hóa ngày nay, cách lộ 12 (Quốc lộ 62 bây giờ) khoảng 3km, cách trung tâm thị xã Kiến Tường khoảng một ngày đi bộ.

Do hành quân bộ suốt đêm giữa đồng nước nên bộ đội mệt rã rời, rừng tràm lại nhỏ, thưa thớt không đủ che giấu đoàn quân. Các chiến sĩ phần lớn là tân binh mới nhập ngũ, xuất thân là sinh viên trường Đại học Xây dựng Hà Nội, mới được bổ sung về đơn vị, chưa quen chiến trường Đồng Tháp Mười vào mùa nước nổi, chưa có kinh nghiệm chiến đấu, đã giăng võng, phơi quần áo lên cây tràm nên địch dễ dàng phát hiện.

Sáng ngày 03/10/1973, máy bay trinh thám địch phát hiện nơi trú quân của Tiểu đoàn. Ngay lập tức, địch huy động pháo 105 ly từ thị xã Kiến Tường đến lộ 12 (nay là Quốc lộ 62, khu vực cầu 7 Thước) cùng khoảng 20 chiếc trực thăng để bắn phá. Do địa hình vào mùa nước nổi rất khó di chuyển, bất lợi cho triển khai chiến đấu, lại bị tập kích bất ngờ  nên các chiến sĩ Trung đoàn 207 phần lớn đã hy sinh.  

Liền những ngày sau đó, địch tiếp tục đưa trực thăng tới quần đảo tại khu vực này và chốt chặn những hướng quân ta có thể rút lui nhằm tiêu diệt các chiến sĩ còn sống sót.        

Ba ngày sau trận đánh, 13 chiến sĩ Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 207 được tìm thấy trong tình trạng bị thương nặng, sau đó được giao liên đưa về căn cứ ở Ba Thu an toàn.

Những đêm sau đó, khi tình hình đã tạm yên ắng, Ban cán sự vùng 6, cán bộ Trung đoàn 207, cán bộ trinh sát đơn vị đặc công Kiến Tường, cùng với lực lượng địa phương đã vào trận địa tìm xác đồng đội. Lực lượng tìm kiếm thương binh, tử sĩ chia làm nhiều cánh bơi xuồng len lỏi giữa cánh đồng mênh mông nước. Do hy sinh đã nhiều ngày, lại bị ngâm trong nước, nên đồng đội phải dùng mùng để kéo, gom lại được khoảng 60 liệt sỹ, cột vào thân cây tràm để đến mùa khô quay lại lấy cốt. Vài ngày sau thì tìm được 15 liệt sĩ nữa, số còn lại do đêm tối và cây, cỏ um tùm nên không tìm thấy.

Sau ngày giải phóng, nhiều hài cốt liệt sĩ được tìm thấy đã được chính quyền đưa về an táng chung một mộ tại nghĩa trang huyện Mộc Hóa.

Trong trận đánh ngày 03/10/1973, ngoài sự hy sinh, mất mát còn có một câu chuyện cảm động về tình người, về sự cưu mang, đùm bọc của nhân dân đối với chiến sĩ cách mạng. Câu chuyện về một chiến sĩ Trung đoàn 207 tên Trần Oanh bị thương nặng đã chịu đói, lạnh, đau đớn do vết thương hành hạ lẫn sự khắc nghiệt của vùng Đồng Tháp Mười “muỗi kêu như sáo thổi” giữa mùa nước nổi trong suốt 7 ngày. Và người chiến sĩ ấy đã may mắn được một người phụ nữ cùng đứa con gái nhỏ của chị cứu giúp,che giấu, nuôi cơm, thuốc men đến khi khỏe hẳn và được đưa về căn cứ.

Sau ngày đất nước giải phóng, vùng đất này được người dân khai hoang trồng lúa. Trong quá trình cày đất làm ruộng, thỉnh thoảng người dân tìm thấy các hiện vật  còn sót lại như nón cối, bình toong đựng nước, cà mèn …của bộ đội, và ai đến đây làm ruộng đều có chung một tư tưởng “Mấy Ông liệt sĩ chết ở đây rất linh”. Người ta kể nhau nghe chuyện máy cày vào đây bị lún lầy, chỉ cần vái chiến sĩ là máy thoát nạn, người dân ở đây gọi các liệt sĩ là Thành Hoàng của vùng đất này. Tưởng nhớ đến các chiến sĩ cách mạng đã hy sinh vì độc lập tự do chính tại mảnh đất này nên vào năm 1991, người dân ở đây đã lập một ngôi miếu nhỏ cạnh rạch Bắc Bỏ, gần khu vực xảy ra trận đánh năm xưa để thờ cúng liệt sĩ.

Ban đầu, miếu thờ được làm bằng cột cây tràm, lợp lá đơn sơ. Sau đó, mái lá được thay bằng mái tôn, nền đất cũng được đắp cao hơn, rộng hơn để khỏi bị ngập (vì ngày giỗ các liệt sĩ vào mùa nước nổi) và đủ chỗ cho nhiều người đến cúng viếng.

TD%20207%20cu - Giới thiệu khái quát huyện Thạnh Hóa

Hàng năm cứ vào ngày mùng 8 tháng 9 âm lịch, nhân dân ấp Đá Biên (xã Thạnh Phước) và nhân dân các vùng xung quanh lại tổ chức lễ giỗ cho các liệt sĩ với tấm lòng của những người dân nghèo. Đám giỗ rất đơn sơ, bà con ai có gì thì mang đến cúng các chiến sĩ thứ ấy, có khi là vài con cá, con lươn hoặc chỉ vài ba lít rượu. Mọi người thành kính dâng lên hương hồn các chiến sĩ, xin các anh phù hộ cho họ làm ăn may mắn, lúa trúng mùa, không có bệnh tật, sau đó là cùng nhau hưởng lộc của các chiến sĩ. Ban đầu, có ít bà con về đây tham gia lễ giỗ, sau mỗi năm, số bà con đến tham dự ngày càng đông. Dần dần, ngày giỗ trở thành ngày hội để mọi người có dịp gặp gỡ, trao đổi chuyện làm ăn, cùng nhau nhớ  lại những kỷ niệm xưa, đồng thời tưởng nhớ về các anh – những người đã hy sinh cho đất nước được hòa bình, độc lập, tự do.

Tưởng nhớ đến sự hy sinh của các liệt sĩ và muốn cho đồng đội có ngôi nhà che nắng mưa, nên các cựu chiến binh và Ban liên lạc Trung đoàn 207 đã kêu gọi các mạnh thường quân, những người có lòng hảo tâm đóng góp kinh phí xây dựng Khu tưởng niệm. Ý tưởng này đã được Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thạnh Hóa nhiệt tình ủng hộ, giúp đỡ.

Công trình được xây dựng trên nền đất khoảng 5000 m2 với các hạng mục san nền, nhà thờ, nhà bia. Khu đất được kè chắc chắn theo 4 hướng Bắc, Nam, Đông, Tây và có 4 lối lên xuống được chia thành 5 bậc (ứng vào cung Sinh) với ý nghĩa vong linh các liệt sỹ mãi mãi trường tồn. Khu tưởng niệm có khuôn viên thoáng đãng, tầm nhìn rộng bao quát toàn bộ khu vực chiến trường cũ. Bốn lối lên xuống cho xuồng ghe dễ cập bến (vì nơi đây người dân sử dụng xuồng ghe là chủ yếu) cúng viếng các liệt sĩ. Khuôn viên công trình được xây gạch cao 40cm, nhẹ nhàng chạy theo chu vi khoảnh đất vuông vắn vừa trang nghiêm, gọn gàng. 

Khu%20di%20tich%20TD%20207 - Giới thiệu khái quát huyện Thạnh Hóa
Ảnh: Khu tưởng niệm liệt sĩ Trung đoàn 207 được xây dựng khang trang

Khu tưởng niệm có 2 hạng mục chính là nhà văn bia và nhà thờ. Nhà văn bia có diện tích 46,24 m2, dạng tứ trụ, mái ngói, các đầu đao trang trí hoa văn, cột giả gỗ. Văn bia có ghi rằng:

KÍNH VIẾNG HƯƠNG HỒN CÁC LIỆT SỸ

Nước Việt ta

Từ Quốc Tổ Kinh Dương Vương dựng nước.

Nối nghiệp ông cha từ bọc mẹ Âu Cơ,

Trăm con trai đi khắp miền xuôi ngược.

Mười tám đời Vua Hùng gầy dựng giang sơn

Tự hào thay con Hồng cháu Lạc

Nét sử vàng sáng chói mấy nghìn năm.

Các anh lớn lên khi quê hương chia cắt

Tạm biệt mái trường, bạn bè, các anh đi

Đội bom đạn, vượt Trường Sơn ngàn dặm

Đất nước này không thể phân ly.

 

Vài ngày quen đồng đội

Đơn vị hành quân

Rạch Đá Biên giữa mùa nước nổi

Rừng tràm thưa không che được các anh

Giữa bao la trời nước Tháp Mười

Vì đất nước hy sinh, các anh nằm lại

Vĩnh biệt

Đồng đội, quê hương, cha mẹ, tuổi thanh xuân

Vĩnh biệt mái trường xưa, ước mơ tuổi trẻ

Các anh về

Với lòng dân Thạnh Hóa – Long An.

Cao cả thay nghĩa đồng bào, tình Nam Bắc

Dâng nét hương suốt mấy mươi năm

Thạnh Phước, Đá Biên lòng dân rộng mở

Các anh về giữa những người thân.

Chúng tôi những đồng đội Trung đoàn 207

Những người thân ruột thịt khắp mọi miền

Nghiêng mình trước anh linh, tôn tạo nơi thờ tự

Thỉnh các anh về trong mái nhà chung.

Tổ quốc nghìn thu ghi công trạng

Đất nước muôn đời tạc ơn sâu.

clip image007 - Giới thiệu khái quát huyện Thạnh Hóa

Nhà thờ có diện tích 375 m2, là nơi thờ tự các liệt sỹ Trung đoàn 207 đã hy sinh. Nhà thờ được cất theo kiểu truyền thống, 3 gian hai chái, mái lợp ngói, cột, tường và các phần trang trí bằng chất liệu hiện đại. Xung quanh nhà thờ có lan can bao bọc. Ngoài bậc cấp đi lên cửa chính thì ở hai mặt bên đều có 2 hai lối đi lên.

Mặt trước nhà thờ có 3 cửa chính được làm bằng gỗ dạng ô hộc, bên trong ba gian trung tâm trang trí ba bao lam với hoa văn sống động, phía trên là các đồ án hoa văn. Bên cạnh đó, còn có những họa tiết trang trí khác.

Nhìn chung, dù sử dụng chất liệu hiện đại (xi măng cốt thép) để xây dựng nhưng nhà thờ các liệt sỹ Trung đòan 207 vẫn giữ được nét truyền thống của dân tộc qua kết cấu kiến trúc, cách bày trí, mô típ trang trí, hài hòa với cảnh quan xung quanh.

Khu tưởng niệm liệt sĩ Trung đoàn 207 là bằng chứng cho tinh thần đoàn kết, tương trợ và sự hy sinh của nhân dân miền Bắc nói chung và sinh viên miền Bắc nói riêng đã sẵn sàng vào Nam chiến đấu để lại sau lưng tất cả đi theo tiếng gọi của non sông, góp sức trẻ của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.

Khu tưởng niệm còn là biểu hiện cụ thể cho tấm lòng yêu thương, gắn bó và biết ơn của nhân dân Thạnh Hóa nói riêng và nhân dân Long An nói chung đối với các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ Quốc.

Khu tưởng niệm liệt sĩ Trung đoàn 207 thể hiện sự ghi nhớ công lao của thế hệ đi trước, tinh thần uống nước nhớ nguồn của lớp người hôm nay. Nơi đây còn có giá trị nhắc nhở, giáo dục thế hệ hôm nay nhận thức về giá trị của nền hòa bình độc lập để từ đó càng quyết tâm học tập, lao động, xây dựng một đất nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp.

Khu tưởng niệm liệt sĩ Trung đoàn 207 được đông đảo người dân các nơi đến viếng, nhất là vào dịp lễ, giỗ liệt sĩ.

Năm 2012, Khu tưởng niệm liệt sĩ Trung đoàn 207 được Ủy ban nhân dân tỉnh Long An công nhận là di tích lịch sử -văn hóa cấp tỉnh (Quyết định số 3241/QĐ-UBND, ngày 16/10/2012).

Mời bạn hãy một lần về đây – nhất là vào dịp nhân dân làm giỗ cúng liệt sĩ – để nghe tâm hồn mình lắng đọng giữa trời nước Tháp Mười, và tình người chan chứa yêu thương./.

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây