Giới thiệu khái quát huyện Thiệu Hoá

huyện Thiệu Hoá - Tỉnh Thanh Hóa

Giới thiệu khái quát huyện Thiệu Hoá

Mảnh đất Thiệu Hoá là một trong những cái nôi của người Việt cổ, nơi sinh dưỡng nhiều anh hùng hào kiệt và các bậc khai quốc công thần được lưu danh, nơi có truyền thống văn hoá đặc sắc, truyền thống chống giặc ngoại xâm kiên cường. Những tinh hoa, những truyền thống vẻ vang đó được nhân dân Thiệu Hoá phát huy cao độ trong sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế – xã hội, vì cuộc sống ấm no hạnh phúc, xây dựng quê hương giàu đẹp

I-Tổng quan

1.1 Điều kiện tự nhiên

1.1.1. Vị trí địa lý

-Thiệu Hóa là huyện có một vị trí địa lý thuận lợi, nằm ở trung tâm các huyện đồng bằng của tỉnh Thanh Hóa và có ranh giới giáp với nhiều huyện:

                 Phía Đông: giáp Thành phố Thanh Hóa và huyện Hoằng Hóa.

                 Phía Tây: giáp huyện Triệu Sơn và Thọ Xuân.

                 Phía Nam: Giáp huyện Đông Sơn và Triệu Sơn.

                 Phía Bắc: giáp huyện Yên Định.

-Trung tâm huyện là Thị trấn Vạn Hà.

1.1.2. Địa hình

          Thiệu Hóa có địa hình tương đối bằng phẳng, không quá phức tạp, đại đa số các xã đều là đồng bằng, ít hoặc không có đồi núi. Tổng thể địa hình nghiêng dần từ Bắc xuống Nam. Địa hình thuộc dạng đồng bằng do chênh lệch cao của các vùng canh tác không lớn khoảng 0,4-0,5m, thuận lợi cho việc hình thành các vùng chuyên canh tập trung có diện tích tương đối lớn.

1.1.3. Khí hậu

          – Nhiệt độ: Tổng nhiệt độ trung bình năm từ 8.500-8.6000C. Nhiệt độ thấp tuyệt đối chưa dưới 20C. Nhiệt độ cao tuyệt đối chưa quá 41,50C. có 4 tháng nhiệt độ trung bình dưới 200C (từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau) và có 5 tháng nhiệt độ trung bình trên 250C (từ tháng 5 đến tháng 9).

          – Mưa: Lượng mưa trung bình năm từ 1.500-1.900mm, riêng vụ mùa chiếm khoảng 86-88%, mùa mưa kéo dài 6 tháng (từ tháng 5-10). Những tháng mùa đông nhiệt độ thường khô hanh, độ ẩm chỉ dưới 84%, còn các tháng 3, 4, tháng 8 và tháng 9 có độ ẩm trên 88%.

          – Gió: Chịu ảnh hưởng của hai hướng gió chính phân bố theo mùa. Gió mùa đông bắc về mùa đông và gió mùa đông nam về mùa hè có tốc độ trung bình 1,5-18m/s. Tốc độ mạnh nhất trong bão đo được là 35-40m/s và trong gió mùa đông bắc không quá 25m/s. Khí hậu thời tiết của huyện trong tiểu vùng khí hậu đồng bằng Thanh Hóa có các đặc điểm: Nền nhiệt độ cao, mùa đông không lạnh lắm, sương muối ít xảy ra vào tháng 1, tháng 2, mùa hè nóng vừa phải, mưa vừa phải, gió bão chịu ảnh hưởng tương đối mạnh.

1.2. Tài nguyên

1.2.1. Tài nguyên đất

          Tổng quỹ đất toàn huyện quản lý sử dụng là 17.547,52 ha, trong đó đã sử dụng 14.842,83 ha bằng 84,6% tổng diện tích tự nhiên toàn huyện. Diện tích đất chưa sử dụng là 2.704,69 ha, bằng 15,4% tổng diện tích đất tự nhiên. Diện tích sông suối chiếm 1.702.87 ha bằng 10% diện tích đất tự nhiên.

        –          Đất nông nghiệp: 11.045,06 ha chiếm 62,94% tổng diện tích đất tự nhiên.

–          Đất lâm nghiệp: 130,70 ha chiếm 0,75% diện tích đất tự nhiên.

     –          Đất chuyên dùng 2.644,28 ha chiếm 15,4 % diện tích đất tự nhiên.

     –          Đất ở: 968,73 ha chiếm 5,6% diện tích đất tự nhiên.

     –          Đất chưa sử dụng: 2.704,69 ha chiếm 15,4% diện tích đất tự nhiên.

Diện tích đất tự nhiên của huyện được phân ra gồm các loại đất sau:

– Nhóm đất sám: 52,84 ha

– Nhóm đất phù sa biến đổi 14.068 ha.

 – Nhóm đất tầng máng 119 ha.

Tóm lại đất đai của huyện Thiệu Hóa chủ yếu là nhóm đất phù sa có đặc tính lý hóa tốt, phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển của nhiều loại cây trồng.

1.2.2 Tài nguyên nước

          – Nước mặt khá dồi dào được cung cấp bởi hệ thống sông ngòi và lượng nước mưa tại chỗ. Loại nước này chủ yếu dùng cho việc tưới cho cây trồng nông nghiệp và sinh hoạt hàng ngày, Chất lượng nước mặt của huyện Thiệu Hóa là tốt, chưa bị ô nhiễm.

– Nước ngầm: Nguồn nước ngầm khá phong phú. Theo tài liệu dự báo và phục vụ khí tượng thủy văn, đất Thiệu Hóa thuộc trầm tích hệ thứ 4 có bề dầy trung bình 60m, có nơi 100m, có 3 lớp nước có áp chưa trong cuộn sỏi của trầm tích Plextoxen rất phong phú. Lưu lượng hố khoan tới 22-23 l/s, có độ khoáng hóa 1-2,2 g/l. Hiện nay nhân dân đang sinh hoạt chủ yếu qua hệ thống giếng khơi, giếng khoan. Chất lượng nước nhìn trung không đồng đều về hàm lượng cacbonnát cao nhưng độ trong đáp ứng được yêu cầu vệ sinh.

1.2.3. Tài nguyên khoáng sản

– Do chưa có điều kiện thăm dò, khảo sát nên chưa phát hiện đầy đủ các loại khoáng sản tiềm năng trong lòng đất. Các mỏ đá có thể khai thác làm vật liệu xây dựng được phân bố rải rác ở một số xã như Thiệu Dương, Thiệu Vũ, Thiệu Tiến, Thiệu Thành nhưng trữ lượng nhỏ. Các sông Chu trữ lượng khoảng 500.000 tấn. Đây là bải cát có chất lượng tốt trong xây dựng, đặc biệt là cát vàng dùng để đổ bêtông. Sét làm gạch có trữ lượng lớn phân bố ở nhiều xã trong huyện.

1.3 Nguồn nhân lực

1.3.1 Dân số

          Tổng số nhân khẩu năm 2004: 193.454 người tốc độ tăng dân số tự nhiên là 0,64% (năm 1997 là 1,23%). Dân số nông thôn chiếm 96,4%, thành thị chiếm 3,6%; sự phân bố dân cư khá đều đặn trên toàn huyện nằm dọc theo 2 bờ tả và hữu sông Chu, hình thành 6 cụm kinh tế thuận tiện cho việc chỉ đạo của huyện.

1.3.2 Nguồn nhân lực

Tổng số lao động năm 2004 là 97.083 người chiếm 49,64% dân số toàn huyện, trong đó:

     –          Lao động nông-lâm-ngư nghiệp: 70.868 người chiếm 72,9%

     –          Lao động công nghiệp và xây dựng 13.500 người chiếm 13,9%.

     –          Lao động khối dịch vụ 7.630 người chiếm 7,8%.

     –          Lao động khác 5.085 người chiếm 5,4%.

1.4. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật

1.4.1. kết cấu hạ tầng giao thông vận tải.

Mạng lưới giao thông đường bộ của huyện được xây dựng và hình thành tương đối hợp lý, 100% số xã có đường ô tô tới trung tâm xã. Toàn huyện đã xây dựng được 70km đường nhựa và bê tông, hàng 100km đường giao thông nông thôn đã được giãi cấp phối. Hệ thống đường liên xã liên thôn được xây dựng khá hoàn thiện, hình thành mạng lưới khép kín trong toàn huyện. Đường sông bao gồm có Sông Mã, Sông Chu, Sông Cầu Chày thuận tiện cho việc giao lưu với các vùng trong tỉnh.

Tuy nhiên hệ thống giao thông vận tải của huyện vẫn còn một số bất cập như: Việc bảo dưỡng và tu sửa hàng năm các tuyến giao thông liên xã, liên huyện con có nhiều khó khăn; mùa mưa lụt hệ thống giao thông đường thủy gây nhiều khó khăn trong việc đi lại của nhân dân.

1.4.2 Hệ thống điện

Hệ thống điện của huyện thuộc đường dây 35kv lộ 371 và một phần trên đường dây 35kv lộ 372 trạm 110kv Núi Một. Các đường dây 10kv sau trung gian Thiệu Hưng cấp điện riêng cho huyện Thiệu Hóa. Ngoài ra còn sử dụng điện từ trạm trung gian Quán Lào 35/10 KV qua đường dây 971 và sau trạm 110 Núi Một qua đường dây 10kv 971 và 975.

Điện năng tiêu thụ năm 1996 của huyện là 10.431.176 Kwh/ năm, bình quân đầu người trung bình đạt 52 kwh/người/năm. Năm 2004 tổng số điện năng tiêu thụ là 23.419.768 kwh/năm, bình quân đầu người đạt 121 kwh/người/năm tăng gấp 2,3 lần so với năm 1996.

Có thể thấy phương thức cấp điện như hiện nay của toàn huyện là quá phức tạp và không thống nhất quản lý.

1.4.3. Bưu chính viễn thông

Hệ thống phục vụ bưu chính, thư từ và các dịch vụ bưu điện phát triển đến tận các xã tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên lạc của nhân dân. 100% số xã đã có máy điện thoại, số xã có nhà bưu điện và nhà văn hóa là 29 xã, bình quân cứ 100 người dân có 1,16 máy điện thoại. Tại Thị trấn có bưu cục, các dịch vụ điện thoại thuê bao cố định cũng phát triển, tạo điều kiện thông tin liên lạc trong và ngoài nước dễ dàng, số hộ được xem truyền hình là 93,4%.

1.4.4 Hệ thống cấp nước

Các công trình trọng điểm của huyện đã được đầu tư xây dựng nâng cấp và cải tạo, xây dựng 2 trạm bơm tiêu Thiệu Thinh, Thiệu Châu – Thiệu Duy. Đầu tư kiên cố hóa kênh mương, cứng hóa gần 300km kênh mương đưa tổng số lên 340 km kênh mương được cứng hóa bằng 65% tổng số.

Nhà máy nước sạch Thị trấn Vạn Hà đã đưa vào khai thác sử dụng năm 2003 công suất 760 m3/ngày trong những năm tới cũng cố, cải tạo đưa công suất lên 1.500 m3/ngày. Hiện đang khởi công xây dựng nhà máy nước sạch xã Thiệu Trung. Hệ thống thoát nước ở huyện lỵ đã hoàn thành tuyến thoát nước dọc theo quốc lộ 45.

  1. Cơ cấu bộ máy tổ chức

2.1. Sơ đồ bộ máy của đơn vị

         – Chủ tịch

         – 02 Phó Chủ tịch

         – Phòng Nội vụ

         – Thanh tra

         – Tư pháp

         – Bộ phận 1 cửa liên thông

         – 01 Phó Chủ tịch phụ trách VH – XH        

                         + LĐTB – XH

                         + GD&ĐT

                         + Văn hóa – Thể thao

                         + Phòng Y tế

                         + Đài Truyền thanh

                         + TTVHTT – TDTT

                         + TT Dân số Kế hoạch hóa gia đình

                         + TT Y tế huyện

         – 01 Phó Chủ tịch phụ trách NN&PTNT – Tài chính

                         + Phòng NN&PTNT

                         + Phòng Công thương

                         + Trạm khuyến nông

                         + VP HĐND&UBND

                         + Thống kê

                         + Tài chính – Kế hoạch

                         + Tài nguyên – Môi trường

2.2.Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các phòng, ban, các đơn vị trực thuộc.

2.2.1. Phòng Nội vụ

Tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước các lĩnh vực tổ chức; biên chế các cơ quan hành chính, sự nghiệp nhà nước; cải cách hành chính; chính quyền địa phương; địa giới hành chính; cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; hội, tổ chức phi chính phủ; văn thư, lưu trữ nhà nước; tôn giáo; thi đua – khen thưởng.

2.2.2. Phòng Tư pháp

Tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; chứng thực; hộ tịch; trợ giúp pháp lý; hoà giải ở cơ sở và các công tác tư pháp khác.

2.2.3. Phòng Tài chính – Kế hoạch

Tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: tài chính, tài sản; kế hoạch và đầu tư; đăng ký kinh doanh; tổng hợp, thống nhất quản lý về kinh tế hợp tác xã, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân.

2.2.4. Phòng Tài nguyên và Môi trường

Tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: tài nguyên đất; tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản; môi trường; khí tượng, thuỷ văn; đo đạc, bản đồ và biển (đối với những địa phương có biển).

2.2.5. Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội

Tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: lao động; việc làm; dạy nghề; tiền lương; tiền công; bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; an toàn lao động; người có công; bảo trợ xã hội; bảo vệ và chăm sóc trẻ em; phòng, chống tệ nạn xã hội; bình đẳng giới.

2.2.6. Phòng Văn hóa và Thông tin

Tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: văn hóa; gia đình; thể dục, thể thao; du lịch; bưu chính, viễn thông và Internet; công nghệ thông tin, hạ tầng thông tin; phát thanh; báo chí; xuất bản.

2.2.7. Phòng Giáo dục và Đào tạo

Tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, bao gồm: mục tiêu, chương trình và nội dung giáo dục và đào tạo; tiêu chuẩn nhà giáo và tiêu chuẩn cán bộ quản lý giáo dục; tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết bị trường học và đồ chơi trẻ em; quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ; bảo đảm chất lượng giáo dục và đào tạo.

2.2.8. Phòng Y tế

Tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, gồm: y tế cơ sở; y tế dự phòng; khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng; y dược cổ truyền; thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người; mỹ phẩm; vệ sinh an toàn thực phẩm; bảo hiểm y tế; trang thiết bị y tế; dân số.

2.2.9. Thanh tra huyện

Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.

2.2.10. Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân

Tham mưu tổng hợp cho Uỷ ban nhân dân về hoạt động của Uỷ ban nhân dân; tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện về công tác dân tộc; tham mưu cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân về chỉ đạo, điều hành của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân; cung cấp thông tin phục vụ quản lý và hoạt động của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và các cơ quan nhà nước ở địa phương; đảm bảo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

III. Thắng cảnh và du lịch

          Thiệu hóa là huyện có truyền thống cách mạng yêu nước, đồng thời là huyện có nhiều di tích lịch sử đã được xếp hạng.

          – Cấp quốc gia có 7 di tích được xếp hạng là: Di chỉ khảo cổ Thiệu Dương, đền thờ Dương Đình Nghệ (Thiệu Dương), đền thờ Lê Văn Hưu (Thiệu Trung), đền thờ Nguyễn Quán Nho (TT Vạn Hà), đền thờ Đinh Lễ (TT Vạn Hà) và cụm di tích cách mạng xã Thiệu Toán.

          – Cấp tỉnh có 10 di tích được xếp hạng: Đình làng Tân Bình (Thiệu Ngọc), Đền thờ họ Vương (Thiệu Tiến), Đền thờ Ngũ Vị Đại Hương (Thiệu Giao), Đình và Đền thờ Trần Lựu (Thiệu Quang ), Đình làng Dắc Châu (Thiệu Châu), Chùa Vồm (Thiệu Khánh), Đình làng Ngô Xá Hạ(Thiệu Minh), Đình Bái Giao (Thiệu Giao), Đình Nghè Yên Lộ (Thiệu Vũ), Đình Lam Vũ (Thiệu Vũ), Đình và Đền làng Hiền Lâm, Nhà thờ Nguyễn Hữu, Chùa Báo Ân (Thiệu Vân), Văn từ làng Đoán Quyết Hạ (Thiệu Phúc), Nhà thờ Nguyễn Mộng Tuân (Thiệu trung).

          Đặc biệt Thiệu Hóa còn có di tích Núi Đọ Thiệu Khánh và Thiệu Tân – Nơi phát hiện xưa nhất của người nguyên thủy trên đất Việt Nam có nhiều công cụ bằng đá.

  1. Tình hình phát triển Kinh tế – Xã hội.  

          Năm 2008 tốc độ tăng trưởng kinh tế: 11,2%, sản lượng lương thực cả năm đạt 128.050 tấn, giá trị thu nhập trên một hecta canh tác đạt 44 triệu đồng, Giá trị sản xuất công nghiệp – TTCN trên địa bàn quy theo giá trị thực tế ước đạt 248 tỷ 855 triệu đồng, giá trị hàng hoá dịch vụ đạt 278 tỷ 303 triệu đồng, thu ngân sách tăng 42% so với kế hoạch tỉnh giao. Tổng mức đầu tư xây dựng trên địa bàn tăng 83,5% so với cùng kỳ.

          Các hoạt động về văn hoá xã hội có bước chuyển biến tích cực, an sinh xã hội được quan tâm, tỷ lệ hộ nghèo giảm so với các năm trước. Thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh, đặc biệt là dịch tiêu chảy cấp, không để dịch bệnh bùng phát sau dịch tai xanh

Tình hình an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh nông thôn, trật tự an toàn xã hội trờn địa bàn ổn định, tệ nạn xã hội, hoạt động tội phạm tiếp tục được kiềm chế đảm bảo môi trường thuận lợi cho kinh tế – xã hội phát triển.

          Công tác điều hành của chính quyền các cấp có nhiều tiến bộ, công tác cải cách hành chính, đặc biệt là thủ tục hành chính đã được đẩy mạnh.

  1. Tiềm năng và cơ hội đầu tư

5.1. Chính sách để thu hút đầu tư.

5.2.Danh mục các dự án kêu gọi đầu tư.

  1. Mục tiêu và các định hướng phát triển kinh tế – xã hội

6.1. Mục tiêu

          – Tốc độ tăng trưởng kinh tế 12% trở lên. Tỷ trọng các ngành kinh tế: Nông nghiệp: 43%; Công nghiệp – Xây dựng: 24%; Dịch vụ – Thương mại: 33%

          – Tổng sản lượng lương thực: 125.000 tấn trở lên. Giá trị thu nhập trên một hecta canh tác đạt 47 triệu đồng.

          – Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tăng 3% so với kế hoạch Tỉnh giao, (Trừ tiền cấp quyền sử dụng đất).

          – GDP bình quân đầu người đạt 8.500.000 đồng trở lên.

          – Tổng mức đầu tư xây dựng & phát triển trên địa bàn: 1.000 tỷ đồng

          – Giải quyết việc làm mới: 3000 người.

          – Xuất khẩu lao động: 300 người trở lên. Tỷ lệ lao động được đào tạo: 27%.

          – Giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 1,5 – 2%

          – Duy trì tỷ lệ tăng dân số: 0,6%

          – Hạ tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống dưới: 17,5%

          – Khai trương xây dựng 15 đơn vị văn hoá.

          Tỷ lệ gia đình văn hoá: 80%

          Xét đề nghị công nhận 20 đơn vị đạt danh hiệu văn hoá.

          – Có thêm 8 trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I và 2 trường đạt chuẩn quốc gia mức độ II.

          – Phấn đấu có 5 xã đạt chuẩn quốc gia về Y tế.

          – Làm mới 13 nhà văn hoá thôn để đạt 100% thôn có nhà văn hoá.

6.2. Nhiệm vụ

          Đẩy mạnh thâm canh, chuyển dịch cơ cấu giống cây trồng mùa vụ, nâng cao năng suất chất lượng và giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích giữ vững tổng sản lượng lương thực, tích cực tham gia chương trình trồng lúa cao sản của Tỉnh , đẩy mạnh phát triển chăn nuôi đảm bảo tỷ trọng trong cơ cấu nền kinh tế, nhân rộng mô hình trang trại chăn nuôi theo hướng an toàn, sinh học, tạo chuyển biến mới trong công tác phòng chống dịch cho gia súc, gia cầm, chủ động trong phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng. Thực hiện tốt phương án và kế hoạch phòng chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai.

Quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành nghề truyền thống phát triển, xây dựng và quản lý các cụm công nghiệp, dịch vụ thương mại và kêu gọi đầu tư và thu hút các dự án đầu tư. Quan tâm tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển, mở rộng tìm kiếm thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Củng cố kinh tế hợp tác xã theo hướng đẩy mạnh kinh doanh, dịch vụ.

Làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”

Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; tiếp tục thực hiện cuộc vận động: “Hai không” với 4 nội dung, thực hiện tốt chủ đề năm học 2008 – 2009: “Ứng dụng Công nghệ thông tin và đổi mới công tác quản lý Tài chính; thực hiện trường học thân thiện, xanh – sạch – đẹp”, làm chuyển biến hoạt động khuyến học, khuyến tài và hoạt động của Trung tâm học tập cộng đồng.

Củng cố hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, nâng cao trách nhiệm, thái độ trong công tác khám chữa bệnh; thực hiện tốt chương trình xây dựng xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; trường học đạt chuẩn quốc gia chỉ đạo công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường. Tăng cường lãnh đạo công tác dân số – gia đình – trẻ em; chú trọng công tác truyền thông lồng ghộp với dịch vụ KHHGĐ; thực hiện mục tiêu giữ mức sinh và giảm tỷ lệ sinh con thứ ba. Làm tốt công tác phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em.

6.3. Giải pháp

          Tập trung tháo gỡ khó khăn, ách tắc để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư nhất là các dự án đầu tư xây dựng các công trình phòng chống lụt bão; chương trình dự án từ nguồn trái phiếu Chính phủ; công trình giao thông và các công trình từ nguồn kinh phí khác. Tăng cường quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý chất lượng công trình, quyết toán vốn đầu tư các công trình hoàn thành và công tác giải phóng mặt bằng, khởi công các công trình đã có chủ trương xây dựng. Có giải pháp hợp lý nhằm thu hút vốn đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật và làm tốt công tác quản lý qui hoạch, chuẩn bị các dự án đầu tư cho năm 2010 và những năm tiếp theo .

Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, coi trọng xây dựng văn hoá cơ sở, tiếp tục đẩy mạnh phong trào thể thao quần chúng, khuyến khích phát triển thể thao theo hướng xã hội hoá.

Tăng cường kiểm tra, quản lý, hướng dẫn việc xử dụng nguồn vốn vay giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo; quan tâm chỉ đạo quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động.

PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG, ANH HÙNG – ĐOÀN KẾT, NĂNG ĐỘNG, XÂY DỰNG HUYỆN SỚM ĐẠT CHUẨN NÔNG THÔN MỚI

Thiệu Hóa – Vùng đất tươi đẹp, non nước hữu tình, là một trong những chiếc nôi của người Việt cổ. Trong suốt tiến trình hàng ngàn năm lịch sử, các thế hệ người Thiệu Hóa sinh tụ nơi đây đã chung sức đồng lòng, lao động cần cù sáng tạo, dũng cảm đấu tranh với thiên nhiên, giặc giã để xây dựng quê hương ngày càng trù phú và dệt nên những truyền thống quý báu, tiêu biểu là truyền thống yêu nước và cách mạng.

Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trước cảnh đất nước chìm đắm trong đêm trường nô lệ, nhân dân chịu bao cảnh áp bức lầm than dưới gót giầy thực dân phong kiến, nhiều người con ưu tú của quê hương Thiệu Hóa đã anh dũng đứng lên đấu tranh tìm con đường cứu nước, cứu nhà. Ngày 10 – 7 – 1930, chỉ hơn 5 tháng sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Chi bộ Đảng ở Thiệu Hóa đã được thành lập, một trong 3 chi bộ đầu tiên để thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa vào ngày 29 – 7 – 1930. Trong suốt thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 – 1945), Thiệu Hóa là một trong những trung tâm cách mạng của tỉnh Thanh Hóa, là cơ sở tin cậy của Xứ ủy Bắc Kỳ, Xứ ủy Trung Kỳ, nơi Tỉnh ủy – Ủy ban  hành chính tỉnh họp bàn phát lệnh khởi nghĩa, góp phần xứng đáng cùng với toàn tỉnh và cả nước làm nên thành công của cuộc Cách mạng vĩ đại Tháng Tám năm 1945, giành lại nền độc lập cho Tổ quốc, tự do cho nhân dân.

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng bộ và nhân dân Thiệu Hóa tiếp tục cùng với cả tỉnh đóng góp tích cực vào những thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc, Thiệu Hóa đã kiên cường chiến đấu bảo vệ vững chắc quê hương và đóng góp sức người, sức của, làm tròn nghĩa vụ hậu phương đối với tiền tuyến.

Trước yêu cầu tạo nên những “pháo đài” cấp huyện đủ mạnh để thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nước sau khi hòa bình lập lại, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 177 – CP ngày 05 – 7 – 1977 giải thể huyện Thiệu Hóa, chia tách, sáp nhập vào huyện Yên Định và huyện Đông Sơn trong 2 huyện mới là Thiệu Yên, Đông Sơn. Nhân dân Thiệu Hóa đã tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, kề vai chung sức cùng Đảng bộ và nhân dân hai huyện xây dựng Thiệu Yên và Đông Sơn trở thành những đơn vị vững mạnh toàn diện, ngày càng thêm giàu đẹp.

Sau gần 20 năm hoạt động cùng 2 huyện bạn, cách đây vừa tròn 20 năm huyện Thiệu Hóa được tái lập theo Nghị định số 72/NĐ – CP ngày 18 -11 – 1996 của Chính phủ. Thời điểm đó huyện có diện tích tự nhiên 17.035,8 ha và 31 xã với dân số 200.774 người. Đảng bộ huyện có 7.235 đảng viên ở 46 tổ chức cơ sở đảng, 329 chi bộ. Đến ngày 01/7/2012, ba xã Thiệu Vân, Thiệu Khánh, Thiệu Dương chuyển về thành phố Thanh Hóa theo Nghị quyết 05/NQ-CP, ngày 29/02/2012 của Chính phủ về điều chỉnh địa giới hành chính để mở rộng TP Thanh Hóa. Hiện nay, huyện có diện tích tự nhiên 16.068,38 ha và 28 đơn vị hành chính trực thuộc (gồm 27 xã, 01 thị trấn) với dân số 157.248 người. Đảng bộ huyện có 8.676 đảng viên ở 56 tổ chức cơ sở đảng, 380 chi bộ.

Hai mươi năm qua, Thiệu Hóa tái lập, đổi mới và phát triển trong bối cảnh có nhiều thuận lợi đan xen những khó khăn, thách thức. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, được sự quan tâm động viên, giúp đỡ của các sở, ban, ngành của tỉnh và các huyện bạn, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thiệu Hóa đã phát huy tốt truyền thống cách mạng, anh hùng, quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nỗ lực phấn đấu xây dựng huyện phát triển toàn diện và ngày càng vững chắc.

Kinh tế của huyện tăng trưởng liên tục, năm sau cao hơn năm trước: Thời kỳ 1997 – 2000 bình quân 5,8%/năm; 2001 – 2005 bình quân 8%/năm; 2006 – 2010 bình quân 11,6%/năm; 2011 – 2015 bình quân 11,8%/năm; năm 2016 đạt 13,2%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực: Tỷ trọng nông nghiệp từ 73,7% năm 1997 giảm còn 32,8% năm 2016; tỷ trọng công nghiệp – xây dựng tăng từ 19,2% lên 39,2% và tỷ trọng dịch vụ tăng từ 7,1% lên 28%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2016 đạt 27,3 triệu đồng, gấp 10,8 lần năm 1997.

Các ngành kinh tế đều có bước phát triển khá mạnh. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, Thiệu Hoá là huyện đầu tiên trong tỉnh thực hiện thành công đổi điền dồn thửa, quy hoạch lại đồng ruộng. Qua 2 lần “đổi điền dồn thửa” gắn với xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, làm giao thông thủy lợi nội đồng, đã cơ bản khắc phục được tình trạng ruộng đất manh mún, canh tác hiệu quả thấp. Từ đó, khuyến khích nông dân đổi mới cách nghĩ, cách làm, đầu tư khoa học kỹ thuật, cây con mới có hiệu quả cao vào sản xuất, tạo tiền để để nông nghiệp phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra bước đột phá cả về năng suất, chất lượng và hiệu quả. 20 năm qua, năng suất lúa tăng từ 86,5 tạ/ha/năm lên 132 tạ/ha/năm; tổng sản lượng lương thực từ dưới 90 nghìn tấn năm lên 129 nghìn tấn/năm; giá trị sản phẩm thu hoạch trên 1ha canh tác năm 2016 đạt 105 triệu đồng, tăng thêm 70 triệu đồng so với năm 1997. Từ chăn nuôi nông hộ, tự phát, nhỏ lẻ, hiệu quả kinh tế thấp đã phát triển theo hướng trang trại; đến nay, toàn huyện có 648 trang trại, gia trại, nhiều trang trại, gia trại theo hướng công nghiệp và bán công nghiệp, cho hiệu quả kinh tế ngày càng cao, bền vững.

Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn có bước phát triển khá, giá trị sản xuất năm 2016 gấp 18 lần năm 1997. Xây dựng mới 1 cụm công nghiệp, 2 cụm làng nghề, sản xuất được những mặt hàng có giá trị cao, thúc đẩy phát triển kinh tế và phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới.

Các loại hình dịch vụ phát triển ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân; giá trị sản xuất năm 2016 gấp 43,5 lần năm 1997. Số cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ tăng nhanh, cuối năm 2016 có trên 4.500 cơ sở, đang tạo việc làm cho trên 6 nghìn lao động, đáp ứng nhu cầu và yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội.

Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội được tăng cường, đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng nhiều công trình giao thông, thuỷ lợi, trường học, bệnh viện, công sở, cơ sở hạ tầng cụm công nghiệp, cụm làng nghề, xây dựng nhà văn hóa, thư viện, nhà truyền thống, hệ thống điện.v.v làm cho diện mạo làng quê đổi mới rõ rệt. Nhiều công trình đã được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng 20 năm qua, mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội thiết thực, góp phần quan trọng thúc đẩy sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân như Khu hội nghị huyện, 25 trụ sở cơ quan trên địa bàn, 69 ngôi trường với gần 900 phòng học và nhà chức năng kiên cố; 22 công sở xã, thị trấn; 200 nhà văn hóa thôn; Nhà tập luyện và thi đấu TDTT huyện; Trung tâm BDCT huyện; Khu Di tích lịch sử cách mạng Nhà thờ Họ Vương; hàng nghìn km đường liên xã, liên thôn, ngõ xóm, giao thông nội đồng, kênh mương; hàng vạn công trình dân dụng do nhân dân xây dựng mới, tu sửa, nâng cấp; nhà ở kiên cố trong dân cư tăng từ 15% lên 60%…

Các thành phần kinh tế phát triển ngày càng đa dạng. Đến nay, trên địa bàn huyện có 171 doanh nghiệp, trong đó thu hút được những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động như May Thiệu Đô thuộc Công ty May 10, may Vạn Hà thuộc Công ty may Minh Hoàng thành phố Hồ Chí Minh. Có 1.950 cơ sở cơ sở sản xuất công nghiệp, tạo việc làm cho trên 1 vạn lao động. Thu ngân sách trên địa bàn hàng năm đều vượt kế hoạch và tăng so với dự toán tỉnh giao từ 30% trở lên; năm 1997 đạt 7,6 tỷ đồng, năm 2006 đạt 20,3 tỷ đồng, năm 2016 đạt trên 120 tỷ đồng.

Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực, số tiêu chí đạt bình quân từ 5,7 tiêu chí/xã năm 2010 tăng lên 16,5 tiêu chí/xã năm 2016 và có 10 xã đạt chuẩn nông thôn mới.

Đi đôi với phát triển kinh tế, lĩnh vực văn hóa-xã hội có chuyển biến mạnh mẽ, đạt nhiều thành tựu và tiến bộ mới. Chất lương giáo dục toàn diện được nâng lên. Số học sinh trúng tuyển vào các trường đại học thuộc tốp đầu của tỉnh. Tỷ lệ đỗ đại học, cao đẳng hàng năm trên 60% số dự thi. Từ khi có chủ trương xây dựng và công nhận trường chuẩn quốc gia (1998) đến nay, toàn huyện có 64 trường chuẩn quốc gia (trên tổng số 86 trường, đạt 74,4%; trong đó cấp THPT đã có Trường Lê Văn Hưu đạt chuẩn quốc gia) và có 8 trường đạt chuẩn quốc gia mức độ II. Mạng lưới giáo dục tiếp tục được mở rộng, nâng cấp. Mỗi xã, thị trấn đều có các trường từ mầm non đến THCS. Trên địa bàn huyện có 4 trường PTTH, 1 trung tâm giáo dục thường xuyên, 1 trung tâm dạy nghề, 100% xã, thị trấn có trung tâm học tập cộng đồng. Phong trào khuyến học khuyến tài tiếp tục được phát triển sâu rộng.

Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được duy trì, phát triển; tỷ lệ gia đình văn hóa tăng từ 25% lên trên 85%. Cơ sở vật chất văn hóa được đầu tư xây dựng. 100% xã, thị trấn đã xây dựng quy hoạch xây dựng trung tâm văn hóa xã. 100% thôn, làng có nhà văn hóa, khu thể thao. Phong trào luyện tập thể dục thể thao, sinh hoạt văn hóa văn nghệ thường xuyên được phát triển sâu rộng trong nhân dân.

Sự nghiệp y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm chú trọng. 100% xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế giai đoạn I và đến nay đã có 24 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế giai đoạn II, đạt 85,7%. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ khám chữa bệnh từ huyện đến cơ sở được quan tâm đầu tư ngày càng hiện đại đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân.

Phát triển kinh tế gắn với giải quyết hiệu quả các vấn đề an sinh xã hội. Thực hiện tốt công tác giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân mỗi năm 2%, năm 2016 còn 9,03% (theo chuẩn nghèo đa chiều). Công tác dạy nghề, giải quyết việc làm được quan tâm, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 51%. Thực hiện tốt chính sách với các gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người có công với nước. Các hoạt động nhân đạo, từ thiện, giúp đỡ người thuộc diện bảo trợ xã hội được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng.

Quốc phòng, an ninh không ngừng được củng cố ngày càng vững chắc. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân được tăng cường. Anh ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững ổn định, không để xảy ra điểm nóng, đột xuất, bất ngờ. Chất lượng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được nâng lên.

Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị luôn được quan tâm, chú trọng. Chất lượng công tác xây dựng Đảng không ngừng được nâng lên cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng được nâng lên, đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới. Tổ chức bộ máy chính quyền các cấp luôn được củng cố, kiện toàn kịp thời, năng lực quản lý, chỉ đạo, điều hành ngày càng hiệu quả. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể chính trị – xã hội trong huyện được củng cố, kiện toàn, phát huy tốt vai trò tập hợp các lực lượng trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tạo ra sức mạnh tổng hợp trong các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, lòng tin của các tầng lớp nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền các cấp không ngừng được nâng lên.

20 năm, một chặng đường phát triển, Đảng bộ và nhân dân Thiệu Hóa đã vượt qua biết bao khó khăn, phấn đấu vươn lên đạt những thành quả rất đáng phấn khởi và đã được Đảng, Nhà nước, các bộ ngành Trung ương, tỉnh ghi nhận, động viên, khen thưởng nhiều phần thưởng cao quý. Đặc biệt, huyện đã được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba. 14 xã, thị trấn trong huyện được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 1 xã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới.

Có được những thành tựu quan trọng và rất đáng tự hào là do các cấp uỷ, chính quyền trong huyện, BCH Đảng bộ huyện đã lựa chọn đúng những vấn đề trọng tâm trong từng thời kỳ và các khâu đột phá để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế – xã hội. Làm tốt công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là công tác chính trị tư tưởng, công tác cán bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền, nhạy bén, kiên quyết, linh hoạt, sáng tạo, bám sát thực tiễn kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình. Giữ vững sự đoàn kết, mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Phát huy truyền thống cách mạng, khơi dậy các tiềm năng, thế mạnh kết hợp với tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để xây dựng, phát triển quê hương. Coi trọng và phát huy vai trò và tính tích cực, chủ động, sáng tạo của MTTQ và các đoàn thể nhân dân trong tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt có sự nỗ lực phấn đấu lao động cần cù sáng tạo, không ngại khó khăn, gian khổ của nhân dân, đảng viên, cán bộ trong huyện.

Mặc dù đạt được nhiều thành tựu sau hai mươi năm tái lập, đổi mới và phát triển, nhưng Thiệu Hóa vẫn đang đứng trước không ít khó khăn, thách thức. Quy mô kinh tế của huyện nhỏ, thu nhập bình quân đầu người thấp so với bình quân chung toàn tỉnh. Chất lượng tăng trưởng thấp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa mạnh, thu ngân sách không bền vững, chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên đất đai, khoáng sản. Thu hút đầu tư chưa tốt. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao. Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống còn hạn chế. Một số mặt công tác quốc phòng – an ninh chưa thật sự vững chắc. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức đảng, đảng viên chưa đáp ứng yêu cầu mới; vai trò lãnh đạo của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa rõ nét, một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thực sự gương mẫu. Cải cách hành chính còn chậm; tổ chức bộ máy cán bộ và hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị có mặt còn bất cập, chưa đáp ứng được với yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới.

Thực tiễn trong hai mươi năm tái lập của huyện Thiệu Hóa đã khẳng định chủ trương tái lập huyện của Đảng, Nhà nước là đúng đắn, không những đáp ứng nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong huyện, phù hợp với xu thế phát triển. Sự vận dụng đường lối đổi mới của Đảng vào hoạch định chủ trương, chính sách phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương của Đảng bộ huyện Thiệu Hóa là sáng tạo, phù hợp. Những thành tựu nổi bật và toàn diện của Thiệu Hóa đã có nhiều đóng góp vào thành công chung của tỉnh. Quá trình ấy là kết quả của sự gắn kết lý luận, đường lối đổi mới của Đảng, chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh vào thực tiễn ở Thiệu Hóa. Với truyền thống lịch sử, văn hóa tốt đẹp, truyền thống yêu nước và cách mạng cùng những tiềm năng, lợi thế vốn có đã được bồi đắp, phát huy trong hai mươi năm tái lập, xây dựng và phát triển. Hôm nay trong bối cảnh mới của đất nước, của tỉnh và những thuận lợi, khó khăn, thách thức của huyện đang đặt ra trước mắt đòi hỏi Thiệu Hóa phải tiếp tục năng động, sáng tạo, phải tạo ra được những “đột phá” mới để phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Trước thời cơ, vận hội mới, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thiệu Hóa quyết tâm hành động thiết thực, quyết liệt hơn, tiếp tục đưa Thiệu Hóa trở thành huyện mạnh trong tỉnh, xứng đáng với truyền thống văn hóa, cách mạng mà bao thế hệ người Thiệu Hóa xây dựng, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Trong suốt quá trình xây dựng và trưởng thành, đặc biệt trong 20 năm từ ngày tái lập, Đảng bộ và nhân dân huyện Thiệu Hóa luôn luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, quan tâm của các bộ, ngành Trung ương và giúp đỡ của Ủy ban MTTQ, các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và các đơn vị bạn. Nhân dịp này, Đảng bộ và nhân dân huyện Thiệu Hóa trân trọng biết ơn sự quan tâm giúp đỡ quý báu đó.

Xin cảm ơn toàn thể nhân dân, đảng viên và các thế hệ cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành từ huyện đến cơ sở qua các thời kỳ đã đoàn kết nhất trí, nỗ lực phấn đấu. Cảm ơn những người con của quê hương Thiệu Hóa trên khắp mọi miền đất nước cũng như ở nước ngoài với tình cảm luôn hướng về quê nhà. Tất cả chúng ta đã cùng nhau viết tiếp những trang sử vẻ vang của huyện Thiệu Hóa ah hùng.

Phát huy truyền thống quê hương cách mạng và những thành quả đã đạt được 20 năm qua, Đảng bộ và nhân dân Thiệu Hóa xác định mục tiêu những năm tới Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực phát triển kinh tế với tốc độ cao, chất lượng và bền vững; tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng các hoạt động văn hóa, xã hội; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng – an ninh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; xây dựng huyện sớm đạt chuẩn nông thôn”.

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đại hội đề ra, trong thời gian tới cần tập trung xây dựng mới và rà soát, bổ sung, hoàn chỉnh các quy hoạch; đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội theo hướng đồng bộ, từng bước hiện đại. Thực hiện hiệu quả 3 chương trình trọng tâm: Chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; Chương trình nâng cao chất lượng đào tạo nghề và xuất khẩu lao động; Chương trình phát triển hạ tầng cụm công nghiệp, làng nghề, thu hút đầu tư và phát triển doanh nghiệp.

Tập trung phát triển kinh tế với tốc độ cao, chất lượng, bền vững; nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm sản xuất trên địa bàn huyện. Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa; đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới. Triển khai thực hiện thật tốt đề án tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Khuyến khích tích tụ ruộng đất, tạo điều kiện để các doanh nghiệp, hộ nông dân đầu tư vào sản xuất nông nghiệp với quy mô lớn, công nghiệp, công nghệ cao.

Đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nhất là các ngành nghề có lợi thế, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm. Triển khai tích cực các quy hoạch phát triển cụm công nghiệp, cụm làng nghề đã được phê duyệt. Phát triển nhanh và đa dạng các loại hình dịch vụ, đưa dịch vụ trở thành ngành tạo ra nhiều việc làm và đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế. Đẩy mạnh đào tạo nghề để chuyển dịch phần lớn lao động nông nghiệp sang làm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ. Hỗ trợ và tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư, phát triển doanh nghiệp, kinh tế hợp tác và hợp tác xã, tăng thu ngân sách. Làm tốt công tác quản lý tài nguyên, khoáng sản, bảo vệ môi trường.

Nâng cao chất lượng toàn diện các lĩnh vực văn hoá – xã hội; đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất và đời sống. Duy trì vững chắc và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa thông tin, thể dục thể thao. Bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo bảo vệ môi trường, xây dựng cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp. Tăng cường, củng cố quốc phòng – an ninh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nội chính.

Tăng cường công tác xây dựng Đảng trên tất cả các mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Nâng cao hiệu quả công tác chính trị tư tưởng. Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ. Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác dân vận, tạo sự thống nhất, đồng thuận cao trong Đảng và trong nhân dân. Làm tốt công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí. Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội. Quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIX, nghị quyết Đại hội Đảng các cấp góp phần xây dựng Thanh Hóa đạt tỉnh khá của cả nước năm 2020. 

Trong không khí phấn khởi, tự hào, tràn đầy niềm tin nhân kỷ niệm trọng thể hôm nay và chuẩn bị đón chào năm mới, Xuân Đinh Dậu, Huyện ủy, HĐND, UBND, UB MTTQ huyện kêu gọi toàn thể cán bộ đảng viên, các lực lượng vũ trang và nhân dân huyện nhà nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thách thức, đoàn kết, năng động tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng huyện Thiệu Hóa ngày càng giàu đẹp, văn minh, sớm đạt huyện nông thôn mới.

TIỀM NĂNG HUYỆN 

Thiệu Hóa ngày nay được kiến tạo từ hai vùng đất thuộc huyện Quân Ninh và huyện Tư Phố trong quận Cửu Chân. Dấu tích thành Tư Phố – trị sở của quận và lỵ sở của huyện, điểm hội tụ, đầu mối giao thông thủy – bộ của cả khu vực hiện vẫn còn tại làng Giàng (Dương Xá – Thiệu Dương).

Sang thời Lý – Trần, các huyện trên đổi tên là Lương Giang và Cửu Chân. Đến thời Lê, các tên gọi Thụy Nguyên và Đông Sơn lần lượt được sử dụng.

Sở dĩ Quân Ninh được gọi là Lương Giang vì có sông Lương (tên khác nữa là sông Lường), tên gọi cũ của sông Chu. Đến thế kỷ XV, vào đầu thời Lê Thuận Thiên (năm 1428), do là nơi phát tích của nhà Lê nên triều đình đem đất này đặt làm Tây Kinh và đổi tên huyện là Thuỵ Ứng. Khi Lê Hồng Đức định bản đồ, đưa huyện lỵ vào phủ Thiệu Thiên, lấy lại tên cũ là Lương Giang. Đời Đoan Khánh đổi tên thành huyện Thuỵ Nguyên.

Thời Nguyễn, dưới triều Gia Long, huyện lỵ dời về Mật Vật. Dưới thời Minh Mệnh đóng ở Kiến Trung (nay thuộc xã Thiệu Hưng). Năm 1815, phủ Thiệu Thiên đổi tên thành phủ Thiệu Hóa.

Sau Cách mạng tháng Tám thành công, phủ Thiệu Hóa được đổi thành huyện Thiệu Hóa. Ngày 5-7-1977, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định số 177/CP về việc giải thể huyện Thiệu Hóa. 15 xã nằm trong vùng tả ngạn sông Chu sáp nhập vào huyện Yên Định, lập ra huyện mới mang tên Thiệu Yên. 16 xã còn lại ở hữu ngạn sông Chu sáp nhập vào Đông Sơn, lập ra huyện Đông Thiệu (năm 1982 đổi theo tên cũ là Đông Sơn).

Ngày 18 tháng 11 năm 1996, huyện Thiệu Hóa được tái lập theo Nghị định số 72/CP của Chính phủ. Ngày 1 tháng 1 năm 1997, địa giới và tổ chức hành chính trở lại như Thiệu Hóa của 20 năm trước đây, gồm 31 xã: Thiệu Châu, Thiệu Chính, Thiệu Công, Thiệu Đô, Thiệu Dương, Thiệu Duy, Thiệu Giang, Thiệu Giao, Thiệu Hòa, Thiệu Hợp, Thiệu Hưng, Thiệu Khánh, Thiệu Long, Thiệu Lý, Thiệu Minh, Thiệu Ngọc, Thiệu Nguyên, Thiệu Phú, Thiệu Phúc, Thiệu Quang, Thiệu Tâm, Thiệu Tân, Thiệu Thành, Thiệu Thịnh, Thiệu Tiến, Thiệu Toán, Thiệu Trung, Thiệu Vân, Thiệu Vận, Thiệu Viên, Thiệu Vũ.

Ngày 30 tháng 10 năm 2000, giải thể xã Thiệu Hưng để thành lập thị trấn Vạn Hà.

Ngày 29 tháng 2 năm 2012, một phần diện tích và dân số với 14,97 km² và 26.098 người của huyện Thiệu Hóa (gồm các xã Thiệu Dương, Thiệu Khánh, Thiệu Vân) được chuyển về thành phố Thanh Hoá[1].

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây