Tình hình phân loại văn học nghệ thuật theo tiêu chí chức năng và vấn đề phân chia văn học nghệ thuật thành hai hệ thống – Tiến sĩ Lâm Vinh

Tiến sĩ Lâm Vinh

LÂM VINH

Năm sinh: 1936
Tên thật: Lâm Quang Vinh
Quê quán: huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
Hiện sống tại: Thành phố Hồ Chí Minh.
Nghề nghiệp cơ bản: dạy học.
Học vị: Tiến sĩ khoa học Ngữ văn.
Hội viên Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam.
Hội viên Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh.
Hội viên Hội Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.

TÌNH HÌNH PHÂN LOẠI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT THEO TIÊU CHÍ CHỨC NĂNG VÀ VẤN ĐỀ PHÂN CHIA VĂN HỌC NGHỆ THUẬT THÀNH HAI HỆ THỐNG

Trích trong cuốn sách “Văn học nghệ thuật và chức năng” sắp xuất bản của tác giả Lâm Vinh

Phần 1: Trong nghiên cứu Mỹ học và Nghệ thuật

Sau khi giới thiệu về hình thái học nghệ thuật, một bộ môn về phương pháp phân loại nghệ thuật, dưới đây xin lược kể về sự thực hành phân loại văn học nghệ thuật theo tiêu chí chức năng và phân chia thành hai hệ thống trong lịch sử nghiên cứu – lý luận văn học nghệ thuật.

Không phải những nhà lý luận, không phải những bộ óc bác học, mà chính những con người thuở ban đầu của cuộc sống hoang sơ, trong trạng thái hỗn đồng, nguyên hợp của những sinh hoạt vật chất và tinh thần, đã nhận ra sự khác biệt của các hoạt động của con người, của các loại hình thẩm mỹ – nghệ thuật. Đó là mầm mống tư tưởng hình thái học trong tư duy thần thoại, chức năng tạo lập vũ trụ (Nhất ông đếm cát, Nhì ông tát bể, Ba ông kể sao, Bốn ông đào sông, Năm ông trồng cây, Sáu ông xây rú…), sau đó là thần hóa những sáng tạo kiến trúc đầu tiên, những vũ khí đầu tiên (Loa thành, nỏ thần). Người cổ Hy Lạp có cả một gia hệ các nữ thần nghệ thuật (muses) dưới trướng của vị nam thần đẹp nhất, được ngưỡng mộ nhất – thần ánh sáng và nghệ thuật, là Apolon: nữ thần âm nhạc Euterpe, nữ thần sử thi và hùng biện Calliope, nữ thần thơ trữ tình Polymnie, nữ thần bi kịch Melpoméne, nữ thần hài kịch và thơ điền viên Thalie, nữ thần múa Terpsichore…

Thế giới nghệ thuật được hình thành trong thuở ban đầu giữa thực tiễn xã hội còn bán khai, khó có thể hình dung được rõ rệt những loại hình loại thể. Một điệu vũ trước bàn thờ vật tổ, một giọng ca hòa trong tiếng đàn tre, đàn đá trước buổi đi săn, những hình muông thú khắc trên vách hang động…, rồi những lời nói thuận tai, vui miệng như là tục ngữ…, đó là gì, nghệ thuật ư? Có lẽ chưa phải.Chỉ là tín ngưỡng, là cách trí dân gian? Cũng là những hình thức mở đầu của hoạt động nghệ thuật “không tự giác”.

Từ tiền sử chuyển dần sang thời cổ đại, nghệ thuật mới có hình thù rõ nét, và sự phân loại đi đôi với sự phân công lao động.

Sau thời đại thần thoại là bắt đầu xuất hiện những quan điểm hình thái học của những nhà triết học danh tiếng.

Liên quan đến vấn đề chức năng và hệ tiêu chí chức năng, có hai vấn đề cần xem xét về lịch sử hình thái học: một là, quan niệm rộng hay hẹp về phạm vi lãnh thổ của nghệ thuật (qua việc liệt kê ra các loại hình thể, có những hình thức ứng dụng không); hai là có cách xử lý như thế nào với hai loại nghệ thuật ứng dụng và nghệ thuật thuần túy (xem nặng nhẹ, cao thấp, hay san bằng không có phân biệt) và có dùng hệ tiêu chí chức năng để chia nghệ thuật thành hai hệ thống hay không.

      Trong nghiên cứu mỹ học và nghệ thuật:

Nhìn chung, về phạm vi của nghệ thuật, đường biên giới lãnh thổ phân biệt nghệ thuật và phi nghệ thuật, văn học và phi văn học, trong công việc sưu tập, biên khảo và cả lý luận đều tương đối có sự thống nhất: một đường biên giới rộng. Nghệ thuật thì bắt đầu từ kiến trúc, thủ công mỹ nghệ cho đến hội họa, âm nhạc, văn học thì từ ký, chính luận cho đến thơ, tiểu thuyết,…

Hầu như tất cả các bộ Bách khoa toàn thư về nghệ thuật tạo hình trên thế giới đều đưa vào toàn bộ nền văn hóa tạo hình của dân tộc và thời đại mà người ta tuyển chọn, từ kiến trúc, thủ công mỹ nghệ đến điêu khắc hội họa. Quan điểm này thể hiện rõ trong hoạt động bảo tàng về mỹ thuật của các nước cũng như Việt Nam.

Sự ra đời của các hình thức văn học nghệ thuật là do nhu cầu của đời sống, của hoạt động thực tiễn, đặc biệt do nhu cầu của đời sống tình cảm. Xã hội càng phát triển, các hình thức, các thể loại càng phong phú. Nhưng không phải ở đâu có văn hóa nghệ thuật phát triển là ở đó có sự phát triển của tư tưởng phân loại. Khoa học phân loại thường ra đời muộn vì phải chờ đợi để thừa hưởng thành tựu của các khoa học khác. Hình thái học của văn học nghệ thuật chỉ có được trong điều kiện chín muồi của những quan niệm về mỹ học và của sự thực hành phân loại qua các hoạt động sưu tầm biên soạn, nghiên cứu, phê bình.

Trong những tài liệu ghi tên các nghệ thuật thời cổ đại và trung đại của Hy Lạp và La Mã người ta thấy có cả ngữ pháp và từ chương học, biện chứng pháp, số học, hình học, thiên văn, bên cạnh âm nhạc và thơ.Và trong những tài liệu đó đã thấy có phân chia hai loại nghệ thuật kỹ thuậtnghệ thuật thẩm mỹ. Bản trường ca của Lukrêxiút bàn về bản chất của sự vật, có phân biệt hai lĩnh vực hoạt động của con người theo đuổi hai mục đích khác nhau: mục đích vụ lợi và mục đích khoái cảm. Loại thứ nhất có việc đóng tàu, làm ruộng, làm võ khí, áo quần,… Loại thứ hai là tất cả những gì đem tới lạc thú, như hội họa, thơ ca, điêu khắc,… Thời trung cổ, hai loại nghệ thuật này cũng được phân biệt với hai tên gọi là nghệ thuật tự do nghệ thuật máy móc.

Khoa hình thái học nghệ thuật phát triển lên đến đỉnh cao có thể nói là vào giữa thế kỷ XVIII. Cùng trong một vài thập niên 40 và 50 của thế kỷ này, đồng thời với sự ra đời cuốn sách Mỹ học đầu tiên khai sinh ngành mỹ học, của Baumgacten, đã có một số công trình về hình thái học nghệ thuật có giá trị, như S. Báttơ (Pháp), M. Menđenxôn, I. Hecđe, V. Krugơ (Đức).

Thành tựu quan trọng nhất của các công trình nghiên cứu giai đoạn này là có cái nhìn toàn cục đối với cả hệ thống nghệ thuật, xác định đặc trưng loại hình và nhóm loại hình, xác lập được bảng phân loại nghệ thuật một cách hoàn chỉnh.

Trong tác phẩm Nghệ thuật được quy về một nguyên lý duy nhất (1746), Báttơ đã đạt tới tất cả các tiêu chí cần thiết để phân loại nghệ thuật, trong đó có hệ tiêu chí chức năng, và theo Kagan: “Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng mỹ học thế giới đã nêu lên rằng, một mặt nghệ thuật hùng biện, và mặt khác kiến trúc đều thuộc nghệ thuật, nhưng đều tách riêng ra, vì chúng có một bản chất hai mặt vừa ích dụng vừa thẩm mỹ. Chúng có thể được so sánh ở trong hệ thống các nghệ thuật”.

Người đầu tiên đưa cặp tiêu chí chức năng vào đúng vị trí của nó trong bảng phân loại nghệ thuật là Vinhem Krugơ. Bên cạnh những tiêu chí tâm lý, bản thể, ông đã đặt tên cho cặp tiêu chí chức năng là Nghệ thuật tuyệt đối hay thuần túy và nghệ thuật tương đối hay ứng dụng. Trong cuốn Bách khoa toàn thư có hệ thống về các nghệ thuật (1753) V. Krugơ đã chia nghệ thuật thành hai hệ thống. Lần đầu tiên, cặp tiêu chí chức năng được sử dụng để tách tất cả các loại hình thành thế lưỡng phân với hai tính năng khác nhau. Thí dụ:

Chia văn học thành hai loại: Thơ ca- Hùng biện

– Mỹ thuật:                          Hội họa- Kiến trúc

– Nghệ thuật múa:                Múa – Đấu kiếm

Một nhận định quan trọng của Krugơ là, nghệ thuật tuyệt đối hay thuần túy là một hệ thống khép kín hoàn mỹ, nghệ thuật tương đối hay ứng dụng là một tập hợp vô hạn.Thời của Krugơ chưa có sự phát triển của kỹ thuật nghe nhìn như hiện nay, chưa có nền mỹ thuật công nghiệp lớn mạnh như thế kỷ này, để có thêm vô số những kiểu dạng mỹ thuật phục vụ con người, để thấy rằng khái niệm tập hợp vô hạn ấy là một nhận định, đồng thời là một dự báo chính xác. Mặt khác, từ hàng nghìn năm, trừ điện ảnh là nghệ thuật thứ bảy, hệ thống nghệ thuật tuyệt đối vẫn khép kín như vậy.

Một nhận định khác, cũng rất đáng lưu ý, và cũng mang tính dự báo, là sự phân chia nghệ thuật thẩm mỹ và nghệ thuật ứng dụng tạo ra thế lưỡng phân trong cả hệ thống nghệ thuật, không chỉ xảy ra trong lĩnh vực các nghệ thuật tạo hình mà còn ở trong tất cả các lĩnh vực khác bởi vì “khả năng mỹ học của tinh thần con người tác động ở khắp nơi”. Điều dự báo này đã ứng nghiệm vì đến hôm nay, hơn hai trăm năm sau Krúc, người ta bắt đầu đưa khái niệm “tương đối hay ứng dụng” vào lĩnh vực văn học như ông đã làm.

Gọi những thành tựu của khoa hình thái học hồi giữa thế kỷ XVIII này là đỉnh cao, ngoài ý nghĩa mỹ học và nghệ thuật học, còn có ý nghĩa về quan điểm triết học: tinh thần dân chủ trong việc phân chia xếp loại nghệ thuật, gạt bỏ quan điểm tôn ty đẳng cấp trong nghệ thuật.

Các xu hướng nghiên cứu:

Về vai trò của hai loại nghệ thuật lưỡng tính và đơn tính, có ba xu hướng nghiên cứu chủ yếu sau đây:

Phân biệt tôn ty: nghệ thuật cao, nghệ thuật thấp

Xuất phát từ những lập trường khác nhau, hoặc tư tưởng duy tâm, hoặc khuynh hướng lãng mạn, hoặc quan điểm duy văn học, từ khi có sự phân chia các nghệ thuật đến nay, vẫn tồn tại dai dẳng thái độ phân biệt nghệ thuật caonghệ thuật thấp. Mức độ khác nhau, nhưng xu hướng này thể hiện trong mỹ học từ thời đại cho đến những nhà mỹ học lớn Hegel, Belinskij, Chernyshevskij. Quan điểm phổ biến là xếp thang bậc, đặt kiến trúc và các nghệ thuật ứng dụng ở bậc thấp nhất, văn học được đứng ở bậc thang cao nhất. Lý do là, chỉ có văn học mới có khả năng thể hiện cuộc sống, đặc biệt là cuộc sống tinh thần, một cách đầy đủ nhất. Tuy có những lý do khác nhau, coi tinh thần cao hơn vật chất (mỹ học duy tâm và lãng mạn), coi văn học là cao vì nó trực tiếp tham gia đấu tranh tư tưởng có hiệu quả (mỹ học dân chủ cách mạng), nhưng hiệu quả là tạo ra thứ bậc tôn ty trong các nghệ thuật.

Xóa nhòa ranh giới giữa hai loại nghệ thuật

Một là, đề cao một cách cực đoan những hình thức thẩm mỹ trong đời sống và coi nhẹ những sáng tác nghệ thuật. Trong thế kỷ trước, đã có những nhà mỹ học như L. Lemke với tác phẩm “Mỹ học phổ cập”, V. Tappenpét với tác phẩm “Tôn giáo của cái đẹp”, tuyệt đối hóa “tính trật tự thẩm mỹ” trong đời sống con người, xem nó cần thiết “như bánh mì trong đời sống”. Điều đó cũng có lý, nhưng đến lúc cho rằng “có thể thiếu âm nhạc, hội họa, nhưng không thể thiếu tính trật tự thẩm mỹ”, thì các ông đã rơi vào lập trường cực đoan.

Hai là, như nhà Mỹ học Mỹ đương đại Thomas Manro, ông đã liệt kê hàng trăm loại nghệ thuật, trong đó các nghệ thuật nấu ăn, in ấn, làm nhạc cụ, làm hương liệu… được xếp chung ngang hàng với văn chương, âm nhạc, hội họa.

Ba là, mức độ phổ biến nhất hiện nay, trong mỹ học và lý luận văn học: chỉ trừ một vài tác giả, còn hầu hết những công trình và tài liệu mỹ học và lý luận văn học trong và ngoài nước hiện nay đều xếp hai loại nghệ thuật này cùng chung một danh mục không chia thành hai nhóm, hai hệ thống. Xu hướng này cũng chỉ nêu ra một số loại hình nghệ thuật nhất định như kiến trúc, mỹ nghệ là nghệ thuật lưỡng tính, trong văn học cũng chỉ có ký và luận. Ngay trong lòng các nghệ thuật khác như trong hội họa, âm nhạc, trong các loại tự sự trữ tình của văn học cũng cần phải chia đôi thành hai loại lưỡng tính và đơn tính.

Với các xu hướng trên, trường hợp Chernyshevskij là đặc biệt: xuất phát từ lập trường chống chủ nghĩa duy tâm triết học, ông theo luận điểm “cái đẹp là cuộc sống”, đã xem những yếu tố thẩm mỹ phi nghệ thuật là cao hơn nghệ thuật, mặt khác lại co hẹp nghệ thuật vào phạm vi phi vật chất, tôn vinh nghệ thuật ngôn từ là cao nhất. Ông viết: “Sức mạnh của “trí tưởng tượng sáng tạo” rất là có hạn”. “Chúng ta không thể tưởng tượng ra cái gì đó có cường độ hơn là cái chúng ta đã nhìn và cảm thấy; vẻ đẹp của một pho tượng không thể vượt hơn vẻ đẹp của một con người đang sống, vì rằng ảnh chụp không thể đẹp hơn được người”. Chỗ khác, khi đề cập đến kiến trúc, ông nói: “Dù thế nào đi nữa, chúng ta không được phép gọi những sản phẩm của kiến trúc là tác phẩm nghệ thuật – kiến trúc là một trong các ngành hoạt động thực tiễn của con người”. Và ông nói về thi ca – tức văn học: “Về nội dung, thi ca hơn hẳn các nghệ thuật khác, những nghệ thuật khác không có năng lực nói với chúng ta dù là một phần trăm cái mà thi ca nói với chúng ta”. Nhưng với một quan điểm nhất quán “cái đẹp là cuộc sống”, ông cho rằng các nghệ thuật khác với hình thức cảm tính gần với sự sống, sẽ có tác động mạnh mẽ hơn thi ca (như âm nhạc, hội họa).

Tuy có quan niệm “duy văn học” nhưng Chernyshevskij đã chứng tỏ có một quan niệm chặt chẽ về đặc trưng của nghệ thuật, khi ông xem kiến trúc chỉ là một hoạt động thẩm mỹ. (Về kiến trúc, Hegel xem là “tiền nghệ thuật”, Belinskij xem là “bước đầu tiên đi đến nghệ thuật”).

Quan niệm chia nghệ thuật thành hai hệ thống

Quan niệm khá triệt để phải kể ngay từ Aristotle, khi ông cho rằng “Homer là nhà thơ, còn Empédocles là nhà triết học”, mặc dù Empédocles viết triết học bằng văn vần và mọi người có “thói quen” coi ông là nhà thơ. Đó là thời văn triết bất phân, nên “thói quen” đó không phải là không có lý.Cho đến hiện nay, nhiều tài liệu vẫn gọi Empédocles là nhà triết học và nhà thơ. Việc tách thơ trữ tình, tức thơ đơn tính, ra khỏi lĩnh vực thơ nói chung, là một quan điểm hình thái học rất tiên tiến trong bối cảnh nghệ thuật cổ đại.

Đến giữa thế kỷ XVIII, bảng phân loại của Vilhem Krugơ đã chia đôi nghệ thuật thành hai hệ thống:

  • Các nghệ thuật tương đối hay ứng dụng: những nghệ thuật “nhằm mục đích thực tế” như hùng biện, kiến trúc, mỹ thuật chữ viết, đấu kiếm, cưỡi ngựa,…
  • Các nghệ thuật tuyệt đối hay thuần túy: Đó là những nghệ thuật mà ở đấy “sự sáng tạo là tự do và có mục đích thẩm mỹ thuần túy”, như thơ, nhạc, vũ, điêu khắc, hội họa.

Và theo Krugơ hình thức lưỡng phân này không loại trừ một nghệ thuật nào, kể cả văn học.Hiện nay, trong mỹ học và lý luận văn học vẫn chưa có được quan niệm triệt để này như nhà mỹ học Đức thế kỷ XVIII.

Mỹ học Nga hiện đại có M. Kagan đã kế thừa và nâng lên một trình độ thực sự khoa học trong sự phân chia hai hệ thống nghệ thuật, theo Kagan, việc phân chia nghệ thuật thành hai chức năng và một chức năng “phải được xem là một trong những nguyên tắc cơ bản của hình thái học nghệ thuật”. … “Đó là hai phương thức cần thiết của hoạt động sáng tạo nghệ thuật, về nguyên tắc là bình đẳng có giá trị như nhau, và cần thiết như nhau đối với con người. Vì vậy, không thể nào đồng hóa chúng, cũng như không thể nào tách cái này hoàn toàn ra khỏi cái kia.”

Ngành mỹ học Liên Xô cũ có nhiều tác phẩm mỹ học đại cương có mục Các loại hình nghệ thuật nhưng rất ít trường hợp giải quyết triệt để vấn đề hai hệ thống nghệ thuật. Ngay cả trong hai cuốn giáo trình – công trình tập thể của đại học Mạc Tư Khoa và cuốn sách Mỹ học nhiều người biết của Borev, vấn đề này cũng không được nhắc nhở tới. Nói chung, ý tưởng về hai tính năng chỉ được phân tích trong từng nghệ thuật riêng lẻ, không phân tích như một nguyên tắc phân loại nghệ thuật như Kagan và như trường hợp sau đây. Đó là cuốn sách Mỹ học Mác – Lênin của hai tác giả IA Lukin và V.C Xcachersicov, đã đề cập đến vấn đề này như sau: “Một cách phân chia rất quan trọng là chia nghệ thuật ra thành các loại hình “ứng dụng”, hay “có công dụng thực tế” và các loại hình “thuần túy”, hoặc đôi khi người ta còn gọi là “nghệ thuật đẹp”. Nguyên tắc phân chia này gắn liền với quan niệm coi nghệ thuật như một hình thức thực tiễn của con người”. Tác giả cũng có nhận định như Krugơ và Kagan: “Sự phân chia nghệ thuật thành hai loại “thuần túy” và “ứng dụng” trong một chừng mực nhất định là có ngay ở bên trong mỗi loại hình nghệ thuật. Ở một số loại hình nghệ thuật vẫn quen được coi là “thuần túy” (thơ ca, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, v.v…) vẫn thường có thể có cả mặt ứng dụng, có ý nghĩa công dụng thực tế”.Sau đó tác giả lấy thí dụ về các hình thức ứng dụng:

Thí dụ: nhạc nhảy, nhạc hành quân, nhạc nghỉ lễ

Phần 2: Trong nghiên cứu văn học

Với câu hỏi “Văn học là gì, và phạm vi của văn học là ở đâu?”, xưa nay vẫn thường có hai cách trả lời:

  • Một là, văn học là những văn phẩm có lời văn đẹp.
  • Hai là, văn học là những văn phẩm thuộc các loại thuần túy nghệ thuật như thơ, truyện, kịch.

Đó là lối nói giản lược, theo quan niệm về loại thể, vì trả lời câu hỏi này có biết bao nhiêu cách nói khác nhau.

Hai cách trả lời trên, một quan niệm rộng và một quan niệm hẹp, sẽ thể hiện trong hai khuynh hướng lý luận. Khuynh hướng rộng sẽ cho Empédocles là nhà triết học, đồng thời là nhà thơ, khuynh hướng hẹp sẽ cho Empédocles không phải là nhà thơ, mà chỉ là nhà triết học, như quan niệm của Aristotle. Hai khuynh hướng này đều có lý, vì có chứng minh trên thực tế sáng tác văn học và trong đời sống văn học.

Các công trình nghiên cứu – sưu tập thường đi theo quan niệm rộng về văn học: thu vào đối tượng nghiên cứu, giới thiệu, bình giảng tất cả các loại thể, không chỉ ba loại thơ, truyện, kịch. Về văn học, trong từ ngữ phương Tây từ lâu đã có phân biệt văn thẩm mỹ, văn nghệ thuật[1] với các loại văn khác. Ở phương Đông (Trung Quốc, Việt Nam), các thời đại trước chưa có khái niệm từ ngữ riêng để phân biệt hai loại nghệ thuật, hai loại văn, nhưng những quan niệm về loại và thể với đặc điểm chức năng khác nhau đã có rất sớm.

Quan niệm phân loại văn học nghệ thuật thường thể hiện trong những khảo sát từ nguyên về các từ nghệ thuậtvăn học. Từ ý nghĩa ban đầu đến ý nghĩa hiện đại nhất, các từ ngữ, các khái niệm gọi tên văn họcnghệ thuật trải qua bao lần không ngừng chuyển hóa và bổ sung nội hàm và ngoại diên của nó. Một số công trình văn học sử và lý luận văn học đã mở đầu bằng khảo sát từ văn, văn chương, văn học. Qua việc khảo sát đó, sẽ thấy các thể văn xuất hiện và được định hình như thế nào trong lịch sử. Theo dõi lịch sử ra đời và không ngừng biến hóa của từ văn văn học trong lịch sử Trung Quốc (và phần nào cũng như Việt Nam) sẽ thấy được quan niệm của các thế hệ những nhà văn và học giả đã từng khoanh vùng và phân chia các loại văn như thế nào, đặc biệt là sự quan tâm đến ranh giới của văn nghệ thuật và văn ứng dụng. Thoạt tiên, văn, là những hoa văn trên bộ lông động vật và cảnh vật thiên nhiên, đó là vẻ đẹp của đất trời, vũ trụ. Về sau từ văn dùng để chỉ tất cả những tinh hoa của con người nói chung như dấu hiệu của văn minh, đến vẻ đẹp của văn hóa thể hiện nơi nhân cách của một con người (Khổng Tử khen đời Chu có văn và ông đặt tên cho người học trò giỏi giang biết khiêm nhường là Văn, và vua nhà Chu có vương hiệu là Văn vương). Nhưng ngay từ thời Khổng Tử thì văn đã được sử dụng không chỉ với nghĩa rộng nhất (văn minh, văn hóa), mà còn với nghĩa hẹp dần, là các loại văn bản, và hẹp nhất là văn tự. Trước đời Đường, một số nhà thơ và học giả tìm ra các lập luận về văn, phân loại văn, đề cao văn của học giả, văn cung đình (Vương Sung, TK I), chia văn thành tám thể, đề cao các thể tấu, nghị, thư, luận, minh, lỗi và đặt thi, phú (văn trữ tình) ở bậc thấp nhất (Tào Phi, TK II, III).

Ở phương Đông, trong kho tàng ca dao tục ngữ cổ của Việt Nam cũng như các bộ tứ thư, ngũ kinh của Trung Quốc, có thể tìm thấy mọi tri thức về xã hội, tự nhiên, nghệ thuật văn chương và cả âm nhạc nữa (ca dao và Kinh thi xưa là những bài thơ để hát). Tại Trung Quốc, trước Aristotle khoảng một thế kỷ, Khổng Tử đã nhận xét về nội dung Kinh thi như sau: “Thơ có thể làm cho người ta phấn khởi được ý chí, biết xem xét được việc hay việc dở, biết hòa hợp với mọi người, biết bày tỏ nỗi sầu oán; gần thì biết thờ cha, xa thì biết thờ vua, lại biết được nhiều tên chim muông, cây cỏ” (Thi khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán, nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân, đa chí ư điểu thú thảo mộc chi danh – Luận ngữ). Nhận xét đó lộ rõ nội dung nguyên hợp, nhiều chức năng của những thơ ca dân gian cổ, và các triết gia cổ đã thừa nhận. Trong công trình lý luận văn học cổ của Trung Quốc là Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp (TKV-VI) gồm 49 thiên, trong đó có 21 thiên phân tích các thể loại văn học cổ Trung Hoa mà phần lớn các thể loại này cũng có trong văn học ở nước ta. Trong 21 thiên, Lưu Hiệp đã để 11 thiên đầu bàn về “văn” (văn nghệ thuật) và 10 thiên bàn về “bút” (văn ứng dụng). Lưu Hiệp đã chia các thể văn (văn nghệ thuật) gồm 11 thể như sau: thơ, nhạc phủ, phú, tụng tán, chúc minh, minh châm, lũy bi, ai điếu, tạp văn, hài ẩn. Và bút (văn ứng dụng) gồm 10 thể như sau: sử truyện, chư tử, luận thuyết, chiêu sách, hịch di, phong thiện, chương biểu, tấu khải, nghị đối, thư ký [2].

Có thể xem việc xác định hai loại văn được thể hiện từ cuối thời Nam Bắc triều, trước khi mở ra thời đại văn học đời Đường, với trích lời giới thiệu tập Văn Tuyển nổi tiếng của Tiêu Thống (một học trò của Lưu Hiệp):

“Các sách của Lão, Trang, Quản, Mạnh có mục đích chính là đặt nền móng cho tư tưởng, chứ không phải có hình thức tinh diệu và sự trình bày khéo léo.Vì vậy, tôi không đưa chúng vào “văn tuyển”. Tôi cũng không tuyển các lời phát biểu, lập luận của các nhà hoạt động chính trị khác cũng như của các cố vấn, của các vương hầu, cho dù chúng có những phẩm chất đúng kỳ lạ đến đâu… Cũng như vậy, tôi không chọn gì từ các tập sử ký và sử biên niên vì chúng không đáp ứng nhiệm vụ của tôi do chỗ chúng nhằm bao biếm thị phi, phân biệt dị đồng. Nhưng một số phần của chúng như những bài văn luận hoặc các đoạn ngợi ca được viết ra bằng những câu trau chuốt, và sau nữa là những đoạn trần thuật đặc biệt với một văn phong nghệ thuật thì tôi đều đưa vào “Văn tuyển” như là những bài có nội dung sâu sắc và có dụng tâm trau chuốt ngôn từ” (Tôi nhấn mạnh – LV)”

Vậy là khi tuyển chọn, Tiêu Thống đã có ý thức phân rõ loại văn nghệ thuật và văn ứng dụng – nửa nghệ thuật (Những dòng cuối là nói về văn ứng dụng). Tóm tắt tư tưởng phân loại từ đời Đường về trước xung quanh cách hiểu thuật ngữ văn học, sách của I.S Lisêvich viết như sau:

“… Tổng kết tất cả những điều đã nói ở trên dễ dàng thấy rằng trong suốt mười ba thế kỷ từ Khổng Phu Tử cho tới Hàn Dũ đời Đường đã diễn ra sự thu hẹp dần thuật ngữ (văn), từ yếu tố văn minh nói chung, xuyên qua việc chỉ tất cả những gì được viết ra bằng kinh điển, triết học và lịch sử, ngôn từ trau chuốt, văn xuôi có nhịp điệu, và cuối cùng, đi đến chỉ một phong cách văn học nhất định và thể tài nhất định”.

Đến thời cận hiện đại, tại Trung Quốc vẫn tồn tại hai xu hướng về phạm vi của văn học: xu hướng mở quá rộng, xem tất cả những văn phẩm được ghi bằng văn tự đều là văn học (Tạ Ký Lương, Tăng Nhị, Cố Thực). Tiêu biểu của xu hướng này người ta thường nhắc câu của Chương Bình Lân: “Viết lên tre, lụa thì gọi là văn, bàn đến phép tắc của nó thì gọi là văn học” (Trước ư trúc bạch chi vị văn, luận kỳ pháp thúc vị chi văn học) (93). Xu hướng thứ hai, là thu hẹp vào các thể văn nghệ thuật. Tiêu biểu là Hồ Văn Dực, trong sách Tân trước Trung Quốc văn học sử, cho rằng văn học chỉ gồm thi ca, từ phú, từ khúc, tiểu thuyết, tản văn, tuồng, du ký mà thôi. Các loại văn triết học, kinh học, tản văn của các danh gia đều không phải là văn học. Thời kỳ sau này (những năm 50, thế kỷ XX) các nhà nghiên cứu vẫn giữ quan niệm trên, nhưng có mở rộng đưa các tác phẩm văn ứng dụng có tính nghệ thuật (từ tứ thư ngũ kinh về sau) vào kho tàng văn học. Các sách văn học sử Trung Quốc được soạn tại Việt Nam cũng theo xu hướng này[3] .

Thế kỷ XVIII, hai nhà bác học lớn là Lê Quý Đôn (1726 – 1784) và Phan Huy Chú (1782 – 1840) đã có những công trình sưu tầm biên khảo công phu giới thiệu các quan niệm văn chương và những kho tàng sách vở thư mục của nhiều đời còn để lại, qua đó ta biết được cha ông ta đã sử dụng các hình thức loại thể như thế nào.

Trong Đại Việt thông sử, chương Nghệ văn chí, Lê Quý Đôn giới thiệu 115 bộ sách, trong đó có 67 bộ thơ văn và 19 bộ tryện ký, trong di sản văn học của các thời kỳ từ “đầu Lê (trung hưng) ngược lên triều Lý”.

Trong Vân đài loại ngữ, chương Văn nghệ, Lê Quý Đôn ghi 48 điều suy nghĩ của mình và những điều học được của tiền nhân về văn chương, về nghệ thuật sáng tác. Ông có giới thiệu đặc tính của các thể loại văn cổ của Trung Quốc qua ý kiến của Tào Phi, Lưu Hiệp (Điều 15, 16).

Trong bộ bách khoa Lịch triều hiến chương loại chí, mục Văn tịch chí, Phan Huy Chú dựa trên cơ sở Nghệ văn chí của Lê Quý Đôn, bổ sung soạn lại một thư mục đồ sộ 213 bộ sách các loại. Phan Huy Chú khi viết bài tựa cho tập thơ của Lê Quý Đôn Quế đường thitập đã có ý kiến phân tích về hai loại tư duy, hai hình thái sáng tạo là “trước thuật” và “ngâm vịnh”, sáng tác hai loại văn khác nhau. Ông cho rằng Lê Quý Đôn là thiên tài hiếm hoi khi vừa là nhà thơ vừa là nhà trước thuật.

Người mở đầu làm Hợp tuyển văn học Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX là một người Pháp, ông Edmond Nordemann, đã sưu tập những áng văn Nôm cổ và các loại văn bản hành chánh (1898)[4] .

Thời kỳ đầu thế kỷ XX, có công trình của nhà giáo người Pháp là G. Cordier, Văn học Việt Nam (1914)[5] . Công trình biên khảo văn học đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ là của Phan Kế Bính, cuốn Việt Hán văn khảo (1915). Đây là một công trình biên soạn dịch thuật có giá trị, thể hiện một quan niệm văn học mẫu mực của một nhà nho, một học giả thuộc thế hệ giao thời. Trong tập sách này, Phan Kế Bính đã tuyển các tác phẩm thuộc nhiều loại và thể khác nhau, thuộc văn học Việt Nam và Trung Hoa: thơ, truyện ký, ký sự, nghị luận, tựa, biểu, chiếu, v.v…

Những năm 20 và 30 của thế kỷ XX, một loại công trình biên soạn, biên khảo ra đời với tên tuổi các nhà Hán học – Tây học: Dương Tự Quán, Lê Thành Ý, Nguyễn Hữu Tiến, Trần Tuấn Khải, Nguyễn Văn Ngọc, Trần Trung Viên… và Bùi Kỷ.

Những năm ba mươi, cuốn Quốc văn cụ thể của Bùi Kỷ, một công trình về lý thuyết thể loại đầu tiên, đồng thời là sách giảng văn, đã giới thiệu các thể thơ văn nghệ thuật theo một quan điểm chặt chẽ về văn chương (1932)[6] .

Những năm bốn mươi có hai tác gia có công trình nghiên cứu biên khảo tiêu biểu là Dương Quảng Hàm và Vũ Ngọc Phan.

Dương Quảng Hàm (1898 – 1946) là học giả, nhà tây học thông hiểu Hán học, có công đầu trong ngành văn học sử giáo khoa ở nước ta và nửa đầu thế kỷ XX). Cách nhìn toàn diện nền văn học dân tộc, kể từ văn học dân gian, văn học chữ Hán, đến các trường phái văn học hiện đại, với các loại thể văn ứng dụng và văn nghệ thuật…, đã trở thành một mô hình cho nhiều công trình văn học sử về sau.

Một bộ gồm hai cuốn, Việt Nam văn học sử yếu và Việt Nam Thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm đã mở đầu loại giáo khoa văn học sử nước ta thời hiện đại, được biên soạn một cách khoa học và hoàn chỉnh, trong đó giới thiệu cả chục thế kỷ văn học nước nhà, bao gồm các văn thơ nghệ thuật và cả kinh nghĩa, văn sách, ca dao tục ngữ về phong tục, canh nông, thiên văn, thời tiết… [7]

Sách văn học Việt Nam của những người Pháp biên soạn từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX (E. Nordeman, G. Cordier) và sách của Dương Quảng Hàm tiếp thu phương pháp Tây phương, đã đưa các loại tác phẩm văn vần văn xuôi ứng dụng có tính nghệ thuật vào bên cạnh văn thơ nghệ thuật.

Nhà văn hiện đại là bộ sách bốn tập nghiên cứu và phê bình của Vũ Ngọc Phan.Có thể nói đây là bộ sách đầu tiên nghiên cứu công phu về văn học Việt Nam hiện đại, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt về phương diện hình thái học, ta thấy ở đây một quan niệm rộng rãi nhưng chặt chẽ của tác giả về văn học và về “thế nào là nhà văn”. Nhìn vào mục lục của sách, có thể thấy tác giả là người đầu tiên phân loại các thể văn viết bằng quốc ngữ có tham khảo từ nền văn học phương Tây. Có mặt trong công trình này là hơn 70 nhà văn của 30 năm văn học thời kỳ đầu thế kỷ XX, mỗi nhà văn hoặc mỗi nhóm đã sử dụng một thể loại văn học khác nhau: từ biên khảo, dịch thuật, phê bình, đến các thể ký, truyện, thơ, kịch. Riêng tiểu thuyết, tác giả đã kể ra chín loại – chín thể tài khác nhau.

Cuối những năm 50 thế kỷ XX, tại Pháp, Maurice Durand viết công trình Văn học cổ phương Đông và văn học truyền miệng, phần Văn học Việt Nam, đã tuyển trích văn thơ, tản văn cổ Việt Nam và cả tản văn của người Việt viết bằng tiếng Pháp, như Phạm Văn Kỳ, Nguyễn Tiến Lãng, Trần Đức Thảo, Hoàng Xuân Nhị,…[8].

Sau 1954, tại Hà Nội và Sài Gòn có nhiều công trình sưu tầm biên khảo theo hướng của Dương Quảng Hàm, cũng tập hợp đủ các loại văn cổ kim như vậy. Tại Sài Gòn, có những giáo trình đại học và trung học của Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ, Phạm Văn Diêu, Hà Như Chi, v.v…

Cùng với quan niệm xem phạm vi của văn học bao gồm cả văn thuần túy và các tác phẩm văn ứng dụng, Phạm Văn Diêu viết mục “Nhận định danh từ văn học” trong sách “Văn học Việt Nam” như sau:

“Danh từ văn học trong bộ sách này, sẽ bác bỏ ý kiến cho rằng văn học bao gồm cả học thuật, vì một bài giảng về ngôn ngữ học, về âm nhạc, về toán khoa khúc chiết khô khan, cứng rắn, không thể gọi là văn được; song nó vẫn chấp nhận rằng trang sử học của Claude Bernard, bài triết lý của Descartes, Victor, Henri Bergson, Trang Tử, Vương Thủ Nhân rực rỡ những hình ảnh diễm tuyệt, tân kỳ, cũng vẫn là văn chương vậy. Nó là thi ca, tiểu thuyết kịch đã đành, mà còn bao quát tất cả công trình triết lý, sử ký, khoa học viết có nghệ thuật, có kiến trúc, tổ chức mỹ lệ, gây được hứng thú văn chương tuyệt vời”.

Tại Hà Nội, Tổng tập văn học Việt Nam, Văn thơ yêu nước – cách mạng, Văn thơ Xô Viết Nghệ Tĩnh, tuyển các tác phẩm văn thơ nghệ thuật và văn thơ tuyên truyền chính trị, thơ ca quần chúng.

Các tuyển tập và sách biên khảo về tác giả có văn thơ Phan Chu Trinh, văn thơ Phan Bội Châu, thơ Hồ Chí Minh của hai nhà xuất bản Văn hóa và Văn học (Hà Nội) thể hiện cụ thể một quan niệm rộng về văn chương. Tập Thơ Hồ Chí Minh (xuất bản năm 1970) tổng số 84 bài, trong đó có 26 bài “thơ cảm hứng trữ tình”, 58 bài “thơ tuyên truyền”. Một tuyển tập văn Hồ Chủ tịch (sách dùng trong nhà trường, NXBGD, 1971) có 10 bài văn chính luận và ký xuất sắc thường được nhắc đến, còn 36 bài là diễn văn và thư từ trong đó có cả những bài do cơ quan chức năng viết và Hồ Chủ Tịch duyệt lại, và cả các bài nói được ghi lại. (Bức thư cuối cùng gởi ngành Giáo dục là do Phòng Tuyên truyền Bộ Giáo dục viết, Bác Hồ sửa lại).

Vấn đề chia văn học nghệ thuật thành hai hệ thống lưỡng tính và đơn tính trong các công trình nghiên cứu văn học những năm gần đây có những ý kiến đáng lưu ý:

Trong những bài nghiên cứu của Nguyễn Đăng Mạnh và Nguyễn Hoành Khung về thơ văn Hồ Chí Minh, các tác giả đã chia thơ Hồ Chí Minh thành hai loại: thơ cảm hứng trữ tình thơ tuyên truyền. Nguyễn Đăng Mạnh viết: “Ta hiểu vì sao trên nhiều bài phê bình, nghiên cứu thơ Hồ Chủ tịch, vẫn có tình trạng lẫn lộn những đặc trưng về thể loại của hai loại thơ nói trên của Bác, dẫn đến những lời bình giảng, những cách phân tích không phù hợp với nội dung và hình thức thơ”.

“Tình trạng lẫn lộn” này không chỉ trong phê bình, nghiên cứu, trong tuyển chọn, xuất bản, mà cả trong giảng dạy, giáo dục văn học, gây ngộ nhận về chức năng của văn học và làm suy giảm tác dụng mỹ cảm, đưa đến sự nhàm chán của học sinh đối với bộ môn Văn trong nhà trường.

Trần Đình Sử trong công trình Thi pháp thơ Tố Hữu đã phân tích về sự hình thành kiểu nhà thơ đồng thời cũng là thể loại thơ có liên quan đến phương thức trữ tình thuần túy (thơ trữ tình chính trị, như Tố Hữu) và phương thức phân đôi (hai loại thơ: thơ trữ tình và thơ tuyên truyền, ngay trong một nhà thơ: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Xuân Thủy…

“Thơ Tố Hữu hầu như không có (LV nhấn mạnh) sự phân biệt giữa thơ tuyên truyền vận động cách mạng và thơ biểu hiện cảm xúc cá nhân” (Trần Đình Sử) [83:33]). Nhận xét này đã tuyệt đối hóa đặc điểm sáng tác của một nhà thơ; thực ra Tố Hữu, và ngay cả Xuân Diệu, Huy Cận,… cũng không phải không có sự “lưỡng phân” trong tư duy nghệ thuật của mình: vừa làm thơ trữ tình, vừa làm thơ ứng dụng. (Vấn đề này sẽ còn bàn cụ thể hơn trong các chương sau về đặc điểm của từng loại văn).

Trong lý luận văn học và ngữ học

Nếu xem việc đưa số lượng các loại thể vào bảng danh mục phân loại là một cách nhìn, một quan niệm về phạm vi rộng hẹp của văn học, thì việc đưa vào hoặc rút ra các loại ký, chính luận sẽ phản ánh hai loại quan niệm đó trong ngành lý luận văn học[9].

Quan niệm mở rộng các loại thể văn học ra ngoài bộ ba loại thể văn nghệ thuật (tự sự, trữ tình, kịch), thêm vào hai loại ký và luận, đã thể hiện khác nhau trong những tài liệu lý luận văn học. Có tài liệu đưa cả ký và luận, có tài liệu chỉ đưa ký. Có tài liệu đưa ký vào trong loại tự sự, xem như một thể loại của tự sự. Có tài liệu đưa luận vào ký, xem như một thể loại của ký. Nếu là những tài liệu – tác phẩm lý luận thông thường, không phải sách giáo khoa, sự khác nhau về quan niệm như trên là một việc bình thường. Nhưng những tài liệu đang kể hầu hết là giáo trình đại học và trung học, hoặc sách tham khảo như giáo trình, thì sự khác biệt về kiến thức lý thuyết là không bình thường. Tuy nhiên, sự khác nhau như trên không phải là cơ bản, mà sự giống nhau là cơ bản: thừa nhận có một biên giới rộng của văn học, bao gồm cả ký và luận. Những nhận xét trên được rút từ sau khi khảo sát 13 cuốn sách lý luận văn học viết và dịch được xuất bản trong vòng 35 năm qua, do hai nhà xuất bản giáo dục và các trường đại học sư phạm trong nước (xem phụ lục) xuất bản. Một điều cần lưu ý là trong số 13 cuốn sách trên, có hai cuốn chỉ để ba loại thể, không có ký và luận, đó là cuốn sách dịch giáo trình đại học Liên Xô Dẫnluận nghiên cứu văn học, do Pospelov chủ biên (Hà nội, 1985) và Văn học lớp 12, Trần Đình Sử viết (Hà Nội, 1992). Có thể do viết cho học sinh phổ thông, tác giả Trần Đình Sử giản lược kiến thức, nhưng với sách của Pospelov thì lại là trường hợp khác, thể hiện một quan niệm chặt chẽ, vạch một biên giới hẹp cho văn học. Sách Dẫn luận nghiên cứu văn học chỉ xem xét văn học trong phạm vi ba loại thể văn nghệ thuật. Phần lý thuyết chung về loại thể do V.E. Khalize viết, và phần đặc trưng văn học do Pospelov viết, đã phân tích kỹ về tính chất minh họa phi văn học của các thể ký và luận.

Tóm lại, trong ngành lý luận văn học có hai xu hướng: mở rộng và thu hẹp phạm vi lãnh thổ của văn học.

Quan niệm mở rộng không tách ký và luận thành hệ thống riêng, mà vẫn xếp chung trên một bình diện với ba loại đã có. Nghĩa là không dùng tiêu chí chức năng phân chia văn học thành hai hệ thống.

      Quan niệm thu hẹp, có tính triệt để hơn, chính đã tạo điều kiện để phân chia văn học thành hai hệ thống.

Nguyễn Phan Cảnh (nhà ngữ học) trong cuốn Ngôn ngữ thơ, Chương 3, với tiêu đề “Văn xuôi trữ tình và thơ ứng dụng” đã chứng minh có một loại thơ ứng dụng. Đây là lần đầu tiên ở Việt Nam một tác giả sử dụng thuật ngữ “ứng dụng” gắn vào loại thể văn học. Nhưng tiếc rằng tác giả không có những sự phân tích đầy đủ về khái niệm thơ ứng dụng, và gần như xem đây là một hình thức sáng tác không đáng quan tâm.

Đến đây cũng cần đặc biệt lưu ý: việc sử dụng thuật ngữ “văn học ứng dụng” lại bắt đầu từ các nhà ngữ học nổi tiếng như R. Giacôpxơn. Trong Ngôn ngữ học và thơ ca, ông viết: “… trong những nền văn hóa vừa biết đến thơ thuần túy lại vừa có cả thơ ứng dụng, loại sau này bao giờ cũng là một hiện tượng thứ yếu, có tính chất phát sinh hiển nhiên”.

[1] Tiếng Pháp: Belles lestres; tiếng Nga: Khudôjextơvennaia Litêratura

[2] Lưu Hiệp (465 – 522), với Văn tâm điêu long, được so sánh ngang với Nghệ thuật thơ ca của Aristotle (Lỗ Tấn) “một tác giả không thể có hai trong suốt một nghìn năm” (Li Trang Tư, Lisêvich, 70:134), “là người đầu tiên, nhà lý luận vĩ đại – ở Trung Quốc đã bắt đầu nghiên cứu thể tài văn học trong tổng thể các thuộc tính cơ bản của nó và đồng thời cả trong sự phát triển lịch sử của nó” (Lisêvich, 70:208) trong thiên “Tư chi” (chương kết) ở cuối sách, Lưu Hiệp đã nói về nguồn gốc của các thể tài văn chương là ở các kinh: “Núi Thái Sơn mưa khắp, sông Hoàng Hà tưới ngàn năm. Luân, thuyết từ tự thì lấy Kinh dịch làm đầu; chiếu, sách, chương, tấu thì Kinh thư là nguồn; phú, tụng, ca, tán thì Kinh Thi là gốc; minh, lũy, châm, chúc thì Kinh lễ tóm lại tất cả; ký, truyện, minh, hịch, thì Kinh Xuân thu là rễ. Theo đó thì bay cao, đi xa cùng cực. Chính vì thế mà trăm nhà bay nhảy rốt cục đều ở trong vũ trụ”. (64)

[3]Lịch sử văn học Trung Quốc, Sở Nghiên cứu Văn học thuộc Viện Khoa học Trung Quốc xuất bản (Bản dịch của NXB Văn hóa, Hà Nội), và các sách văn học Trung Quốc của NXB Giáo dục, Hà Nội

[4] Edmond Nordemann: Chrestomatieannamite, Hà Nội, 1898

[5]  G. Cordier: Literature annamite, extraits des poetes et des prosanteurs, Hà Nội, 1914

[6] Từ những năm 20, 30 đầu thế kỷ XX, có những nhà biên soạn văn học sử đã cho ra những công trình như Vận văn bách tuyển (Dương Tự Quán, 195) Việt văn hợp tuyển giảng nghĩa (Lê Thành Ý, 1925) Nam thi hợp tuyển, Tục ngữ phong giao (Nguyễn Văn Ngọc, 1927, 1928), Việt văn dẫn giải (Trần Tuấn Khải, 1932), Văn đàn bảo giám (Trần Trung Viên, 1932).

[7] Sách Văn học sử và giảng văn của Dương Quảng Hàm gồm có:

  • Quốc văn trích diễn, Nghiêm Hàm xuất bản, Hà Nội, 1925 (Xb lần 2)
  • Việt văn giáo khoa thư, Nha học chánh, Hà Nội, 1942.
  • Việt Nam văn học sử yếu, Việt Nam thi văn hợp tuyển, Nha học chánh, Hà Nội, 1944.

[8] Maurice Durand: Literature anciennes orientales et orales, phần Literature Vietnamienne, Paris, 1950 – 60, (M. Durand là Hội viên Học viện Đông Phương bác cổ)

[9] Trước 1975, tại miền Nam, những tài liệu lý luận văn học không có phần riêng về loại thể. Cuốn lý luận – lịch sử văn học tiêu biểu như Lược khảo văn học của Nguyễn Văn Trung cũng không có vấn đề lý luận về loại thể.

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây