Nâng cao năng lực khoa học công nghệ nội sinh quốc gia để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tóm tắt: Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam đã được thực hiện trong thời gian khá dài. Chỉ tính từ khi đất nước thống nhất (1976) đến nay, công cuộc công nghiệp hóa đã diễn ra được gần 46 năm; nếu tính từ khi thực hiện công cuộc đổi mới (1986), khoảng thời gian cũng lên tới gần 36 năm.

Mặc dù “đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới”, nhưng đến nay Việt Nam mới trở thành nước có thu nhập trung bình thấp, đang phấn đấu đến năm 2025 vượt qua mức thu nhập trung bình thấp, đến năm 2030 trở thành nước có thu nhập trung bình cao, năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để thực hiện mục tiêu này, Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định nhiệm vụ “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”. Trong khuôn khổ bài viết nhỏ này, xin trình bày một số khía cạnh về nâng cao năng lực khoa học công nghệ nội sinh quốc gia để góp phần thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng tiến bộ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

1. Một số nhận thức chung

Hiện nay, vẫn tồn tại những cách giải thích khác nhau về các thuật ngữ “khoa học”, “công nghệ”, khoa học công nghệ”, “khoa học – công nghệ”, “khoa học và công nghệ”, “phát triển khoa học công nghệ”, “tiến bộ khoa học công nghệ”, “đổi mới sáng tạo”… Mỗi cách giải thích xuất phát từ những cách tiếp cận và bối cảnh cụ thể khác nhau.

Bài viết này không đưa ra cách giải thích riêng, mà sử dụng các thuật ngữ này theo các quy định tại Luật Khoa học và Công nghệ được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 18/6/2013.

– “Khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy”.

– “Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm”.

– “Hoạt động khoa học và công nghệ là hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ”.

– “Nghiên cứu khoa học là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn”.

– “Nghiên cứu cơ bản là hoạt động nghiên cứu nhằm khám phá bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy”.

– “Nghiên cứu ứng dụng là hoạt động nghiên cứu vận dụng kết quả nghiên cứu khoa học nhằm tạo ra công nghệ mới, đổi mới công nghệ phục vụ lợi ích của con người và xã hội”.

– “Phát triển công nghệ là hoạt động sử dụng kết quả nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, thông qua việc triển khai thực nghiệm và sản xuất thử nghiệm để hoàn thiện công nghệ hiện có, tạo ra công nghệ mới”.

– “Đổi mới sáng tạo là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa”[1].

– Năng lực khoa học công nghệ nội sinh, theo nghĩa tổng quát, là năng lực nội tại làm chủ khoa học, công nghệ phục vụ thực hiện có hiệu quả mục tiêu đã định. Xét theo phạm vi, có năng lực khoa học công nghệ nội sinh của quốc gia, năng lực khoa học công nghệ nội sinh của ngành, năng lực khoa học công nghệ nội sinh của doanh nghiệp/tổ chức.

Các loại năng lực khoa học công nghệ nội sinh này có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó năng lực khoa học công nghệ nội sinh của quốc gia là nền tảng. Năng lực khoa học công nghệ nội sinh của quốc gia bao hàm nhiều nội dung khác nhau có quan hệ tương hỗ với nhau.

Về cơ bản, nội dung của năng lực này bao gồm: Năng lực xác định phương hướng, nhiệm vụ và điều kiện phát triển khoa học công nghệ phục vụ có hiệu quả công cuộc phát triển bền vững đất nước; Năng lực chỉ đạo, điều hành thực hiện phương hướng và nhiệm vụ phát triển khoa học công nghệ đã xác định; Năng lực sáng tạo khoa học công nghệ mới, tiên tiến hiện đại phù hợp xu hướng thời đại; Năng lực quản lý, sử dụng có hiệu quả các loại công nghệ hiện có trong các ngành, lĩnh vực; Năng lực cải tiến, nâng cấp, hiện đại hóa công nghệ hiện có phù hợp với xu hướng phát triển chung của thời đại; Năng lực làm các công nghệ nhập ngoại thích nghi với điều kiện sử dụng cụ thể; Năng lực đổi mới các điều kiện về quản lý và sử dụng để thích nghi với công nghệ mới…

Có thể khẳng định rằng, nâng cao năng lực khoa học công nghệ nội sinh quốc gia là nhân tố quan trọng hàng đầu để thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Từ những khái niệm cơ bản trên đây có thể rút ra một số nhận xét sau đây:

(1) Đổi mới sáng tạo là cơ sở để thực hiện phát triển công nghệ. Điều này có nghĩa, để phát triển công nghệ, tạo ra các loại công nghệ tiên tiến, hiện đại phải thúc đẩy đổi mới công nghệ trên cơ sở các tri thức khoa học. Trong thực tế, có những trường hợp thực hiện việc “phát triển công nghệ” nhưng không phải từ “sử dụng kết quả nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng”, mà từ kinh nghiệm thực tế và nhu cầu thiết thân của người sử dụng các công nghệ hiện có.

Những kết quả của hoạt động cải tiến máy móc hiện có, sáng chế ra máy móc nông nghiệp mới mang lại năng suất và hiệu quả cao của những người nông dân với trình độ văn hóa không cao là ví dụ điển hình cho trường hợp này. Đó là hoạt động phát triển công nghệ đáng trân trọng, đáp ứng có hiệu quả nhu cầu thực tiễn và thể hiện trí tuệ sáng tạo của con người Việt Nam. Nhưng từ những trường hợp này đặt ra nhiều vấn đề đáng suy nghĩ về vai trò của các tổ chức nghiên cứu khoa học và các nhà khoa học chuyên ngành trong hoạt động phục vụ thực tế.

(2) Kết quả của hoạt động đổi mới sáng tạo là đưa ra được cái mới so với cái hiện có. Nhưng kết quả ấy chỉ được xã hội thừa nhận khi xuất phát từ nhu cầu thực tế của cuộc sống, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội đất nước và phù hợp với xu thế chung của thời đại. Nếu ngược lại, dù nghiên cứu công phu, tâm huyết cá nhân để đưa ra được “cái mới”, nhưng hoạt động “đổi mới sáng tạo” ấy hoàn toàn không có ý nghĩa gì[2].

(3) Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết là tạo sự “chuyển đổi căn bản, toàn diện các mặt của đời sống kinh tế – xã hội sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại”. Nói cách khác, nội dung cốt lõi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình phát triển lực lượng sản xuất, tạo lập cơ sở vật chất – kỹ thuật ngày càng hiện đại theo trình độ thời đại.

Quá trình này luôn gắn với việc thực hiện nhiệm vụ phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo. Phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước từ tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển thành nước phát triển hiện đại, thu nhập cao, từ trình độ văn minh nông nghiệp lên trình độ văn minh công nghiệp và văn minh trí tuệ. Do vậy, về bản chất, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo luôn giữ vị trí là nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

(4) Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế tạo cho các quốc gia đang phát triển cơ hội phát triển công nghệ theo kiểu “đi tắt, đón đầu” bằng cách nhập ngoại các loại công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, tính hiện thực và tính hiệu quả của cách đi này lại phụ thuộc trực tiếp vào năng lực khoa học công nghệ nội sinh – Năng lực làm chủ khoa học công nghệ của mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia.

Năng lực này bao gồm từ năng lực sáng tạo khoa học, công nghệ trong nước, đến năng lực làm công nghệ nhập khẩu thích nghi với điều kiện trong nước, làm chủ và sử dụng có hiệu quả công nghệ nhập khẩu. Nâng cao năng lực khoa học công nghệ nội sinh là quá trình phức tạp, đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ, có hiệu quả sự nỗ lực của Nhà nước, các doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ, các trường đại học và các nhà khoa học.

2. Khái quát chủ trương về vai trò của KHCN trong công cuộc CNH, HĐH đất nước qua các thời kỳ Đại hội Đảng và kết quả thực hiện

Ở Việt Nam, với điểm xuất phát ban đầu là nền nông nghiệp lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội Đảng lần thứ III (9/1960) đã xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với thực chất là thực hiện cách mạng kỹ thuật, phân công mới về lao động xã hội và là quá trình tích lũy để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng.

Đại hội xác định mục tiêu của công nghiệp hóa là “biến nước ta thành nước có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến”. Đại hội chỉ rõ: Quá trình công nghiệp hóa đòi hỏi thực hiện đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, Cách mạng khoa học – kỹ thuật, Cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó Cách mạng khoa học – kỹ thuật giữ vai trò then chốt.

Với tinh thần nhất quán coi công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong các kỳ Đại hội tiếp theo, Đảng ta đã có những điều chỉnh, bổ sung đường lối công nghiệp hóa phù hợp với bối cảnh thời đại và điều kiện thực tiễn Việt Nam, nhưng vẫn đặt khoa học và công nghệ ở vị trí đặc biệt quan trọng.

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1/1994) chỉ rõ việc cần thiết phải thực hiện đồng thời hai quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa: “Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa… hình thành những mũi nhọn phát triển kinh tế theo trình độ tiên tiến của khoa học – công nghệ thế giới”.

Hội nghị nhấn mạnh quan điểm coi khoa học – công nghệ là nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhằm thực hiện nhiệm vụ đẩy tới một bước sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ đã đề ra, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (7/1994) đã thông qua Nghị quyết về “Phát triển công nghiệp, công nghệ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới”.

Đại hội Đảng lần thứ VIII (7/1996) đặt ra yêu cầu ở chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải chuẩn bị đầy đủ tiền đề để chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội xác định: “Khoa học và công nghệ trở thành nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.

Đại hội Đảng lần thứ IX (4/2001) đánh giá: Trong Thế kỷ XXI, khoa học – công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật. Từ đó, Đại hội chỉ rõ: “Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để từng bước phát triển kinh tế tri thức và nâng cao năng suất lao động”.

Trong khóa này, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 1/11/2012 về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nghị quyết xác định quan điểm: “Phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước và tài năng, tâm huyết của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đóng vai trò quyết định thành công của sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ”.

Đại hội Đảng lần thứ X (4/2006) tiếp tục nhấn mạnh: “Kết hợp chặt giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức”.

Đại hội Đảng lần thứ XI (1/2011) tiếp tục khẳng định: “Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) thông qua tại Đại hội này chỉ rõ: “Phát triển khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”.

Đại hội Đảng lần thứ XII (1/2016) nhấn mạnh: “Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học – công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức”. Tại Đại hội này, Đảng ta xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần tiến hành qua 3 bước: Tạo tiền đề, điều kiện để công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Từ khái quát các quan điểm, chủ trương của Đảng từ Đại hội lần thứ III (1960) đến Đại hội lần thứ XII (2016) có thể thấy, dù được diễn giải theo những từ ngữ khác nhau (“Then chốt”: Đại hội lần thứ III; “Nền tảng”: Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đại hội lần thứ VIII; “Quốc sách hàng đầu, nền tảng, động lực”: Các Đại hội lần thứ IX, X, XI và XII), nhưng khoa học công nghệ, phát triển khoa học công nghệ, ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa luôn được đặt ở vị trí đặc biệt quan trọng.

Quá trình thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng về phát huy vai trò của khoa học công nghệ trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong những năm qua đã đạt được những kết quả tích cực. Tiềm lực khoa học công nghệ của đất nước được tăng cường. Khoa học công nghệ có những đóng góp tích cực vào việc “đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới”.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đó, hiện nay năng lực và trình độ khoa học công nghệ của nước ta còn thấp, còn khoảng cách khá xa so với nhóm đầu khu vực Đông Nam Á. Trừ một số lĩnh vực có tốc độ đổi mới công nghệ khá nhanh, như công nghệ thông tin – viễn thông, dầu khí, hàng không, tài chính – ngân hàng…, nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất, kể cả không ít doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới.

Công nghiệp vẫn chủ yếu là gia công, lắp ráp, công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển, thực hiện các khâu đơn giản với giá trị gia tăng thấp trong chuỗi giá trị và mạng sản xuất toàn cầu. Năng lực khoa học công nghệ nội sinh, năng lực đổi mới sáng tạo còn thấp kém… Hệ quả tất yếu của tình trạng này là năng suất lao động và khả năng cạnh tranh ở cả cấp độ doanh nghiệp và quốc gia còn thấp kém và chậm được cải thiện.

Theo ước tính của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), năng suất lao động của Việt Nam năm 2020 thấp hơn 7 lần so với Malaysia, 4 lần so với Trung Quốc, 3 lần so với Thailan, 2 lần so với Philippines và 26 lần so với Singapore. Trong giai đoạn 2011 – 2020, tốc độ tăng Năng suất tổng hợp các nhân tố (TFP) đạt 11%/năm, đóng góp của TFP vào tăng trưởng đạt bình quân 39,3%/năm, nhưng mức đó còn thấp xa so với các nước khu vực châu Á – Thái Bình Dương trong giai đoạn tăng tốc phát triển (Nhật Bản: 129,6%; Hàn Quốc: 64,9%; Trung Quốc: 52,6%; Thailan: 53%…)[3].

Thực tế trong những năm qua cho thấy rõ rằng khoa học công nghệ chưa thực sự là “quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Đang tồn tại khoảng cách khá xa giữa “tư duy, quan điểm, chủ trương chung” về vai trò và định hướng phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo với “kết quả thực tế”, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa được đặt đúng vị trí cần có.

Do vậy, năng lực khoa học công nghệ nội sinh ở cả cấp độ doanh nghiệp, ngành và quốc gia còn thấp. Tụt hậu ngày càng xa hơn cả về trình độ phát triển kinh tế và về trình độ phát triển khoa học công nghệ là một thách thức gay gắt với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, có ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ và sâu rộng tới tất cả các mặt của đời sống kinh tế – xã hội.

3. Một số khuyến nghị nâng cao năng lực khoa học công nghệ nội sinh

Trên cơ sở phân tích bối cảnh phát triển, đặc biệt là đánh giá tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, và yêu cầu thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, Đại hội Đảng lần thứ XIII (1/2021) đã xác định chủ trương “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”.

Trên cơ sở chủ trương này, Đại hội xác định nhiệm vụ: “… Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Có thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng, chuyển giao công nghệ; nâng cao năng lực nghiên cứu, làm chủ một số công nghệ mới, hình thành năng lực sản xuất mới có tính tự chủ và khả năng thích ứng, chống chịu của nền kinh tế, lấy doanh nghiệp làm trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ số. Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo…”.

Đó cũng là một trong các nội dung của đột phá chiến lược giai đoạn 2021 – 2030. Thật ra, điểm mới của chủ trương này chỉ là việc đặt phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo vào đúng vị trí cần có trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Từ quan điểm, chủ trương chung đề ra tại các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, trong thời gian gần đây, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ đã ban hành hàng loạt Nghị quyết về phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Cụ thể là:

– Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

– Quyết định số 50/NQ-CP ngày 17/4/2020 của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị.

– Quyết định số 2289/QĐ-TTg ngày 31/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến năm 2030.

– Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 30/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

– Quyết định số 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược Phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030…

Các nghị quyết này đã xác định rõ quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong các ngành, các lĩnh vực, những giải pháp chủ yếu, trách nhiệm của các cấp, các ngành trong tổ chức thực hiện. Trong điều kiện ấy, xin không bàn thêm về quan điểm, phương hướng nhiệm vụ, mà chỉ xin nêu một số ý kiến về nâng cao năng lực khoa học công nghệ nội sinh, góp phần bảo đảm phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự là nền tảng của việc tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong những năm tới.

Để nâng cao năng lực khoa học công nghệ nội sinh, cần giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề khác nhau. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ xin trình bày một số khía cạnh về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực – vấn đề quan trọng hàng đầu của việc nâng cao năng lực khoa học công nghệ nội sinh quốc gia.

Để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng tiến bộ và đổi mới sáng tạo đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực này được trang bị kiến thức chuyên sâu, cập nhật và hiện đại, có năng lực, kỹ năng vận dụng và phát triển kiến thức trong những công việc cụ thể, có tâm huyết và bản lĩnh vững vàng. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là sứ mệnh và trách nhiệm của hệ thống giáo dục quốc dân.

Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (11/2013) đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trong những năm qua, mặc dù có nhiều nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ đề ra trong Nghị quyết này, nhưng những kết quả đạt được còn thấp so với mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.

Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, chưa đáp ứng yêu cầu và vẫn là một trong những điểm nghẽn cản trở yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước. Trong thời gian tới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên cơ sở đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo vẫn được xác định là một trong các đột phá chiến lược. Đây cũng là nội dung trọng yếu của việc nâng cao năng lực khoa học công nghệ nội sinh quốc gia để thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định rõ các nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo cần thực hiện trong giai đoạn 2021 – 2030. Dưới đây xin nêu hai ý kiến có liên quan đến nhiệm vụ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để góp phần nâng cao năng lực khoa học công nghệ nội sinh quốc gia.

(1) Đổi mới tư duy trong thực hiện nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Đại hội Đảng lần thứ XIII (1/2021) chỉ rõ “Đổi mới tư duy, hoạt động giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra…” là một trong những hạn chế, bất cập của việc thực hiện nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Để khắc phục hạn chế, bất cập này, xin nêu một số ý kiến về đổi mới tư duy trong việc thực hiện nhiệm vụ trọng yếu trên.

Trước hết, tư duy về sứ mệnh và triết lý của nền giáo dục quốc dân.

Hiểu một cách đơn giản, triết lý giáo dục là những quan điểm, tư tưởng chủ đạo, cốt lõi phản ánh khái quát mục đích của giáo dục nhằm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của xã hội trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Triết lý giáo dục được coi là cơ sở định hướng phát triển nền giáo dục quốc dân.

Ở Việt Nam, hiện đang tồn tại nhiều đề xuất khác nhau về triết lý giáo dục của Việt Nam. Thiết nghĩ, thay vì tìm kiếm một triết lý giáo dục đặc thù riêng có của Việt Nam, có thể lấy bốn trụ cột của giáo dục trong Thế kỷ XXI do Tổ chức Giáo dục, Khoa học, Văn hóa thuộc Liên Hợp Quốc (UNESCO) đưa ra làm cơ sở xây dựng triết lý giáo dục của Việt Nam. Báo cáo “Học tập: Kho báu nội tại” do Jacques Delors, Chủ tịch Hội đồng Quốc tế về Giáo dục cho Thế kỷ XXI của UNESCO, đưa ra đã chỉ rõ: “Giáo dục phải được tổ chức xoay quanh bốn loại hình cơ bản mà trong một cuộc đời mỗi con người, chúng sẽ là những trụ cột của kiến thức: Học để biết là nắm những công cụ để hiểu; Học để làm là phải có những khả năng hoạt động sáng tạo tác động vào môi trường sống của mình; Học để cùng chung sống là tham gia và hợp tác với những người khác trong mọi hoạt động của con người; Học để làm người là sự tiến triển quan trọng nảy sinh từ ba loại hình trên”.

Trên cơ sở bốn trụ cột ấy và xuất phát từ yêu cầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc điểm lịch sử và văn hóa của Việt Nam để nghiên cứu xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam. Trên cơ sở triết lý giáo dục được xây dựng, sẽ tiến hành thiết kế các nội dung của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thứ hai, tư duy về trách nhiệm với việc đổi mới giáo dục và đào tạo.

Việc thực hiện nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo không chỉ là trách nhiệm của các nhà hoạch định chính sách và những người hoạt động trực tiếp trong lĩnh vực lĩnh vực này, mà là trách nhiệm của toàn xã hội theo tinh thần “giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn dân”.

Do vậy, việc tạo sự đồng thuận giữa các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý giáo dục và đào tạo với các tầng lớp xã hội là yếu tố quan trọng bảo đảm tính hợp lý, sát thực của các nội dung đổi mới giáo dục đào tạo và là điều kiện thuận lợi để các nội dung ấy đi vào cuộc sống. Từ đó, việc thu hút sự tham gia hoặc phản biện của các tầng lớp xã hội dưới những hình thức khác nhau vào hoạch định nội dung đổi mới giáo dục và đào tạo luôn được coi là cần thiết.

Thứ ba, tư duy nhận thức về “bằng cấp và giáo dục”.

Trong xã hội Việt Nam hiện nay, “trọng bằng cấp” là tư tưởng còn hết sức nặng nề trong các tầng lớp xã hội. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, bằng cấp là văn bản chứng nhận của cơ sở đào tạo về trình độ giáo dục – đào tạo mà mỗi cá nhân đã nhận được. Kiến thức và kỹ năng tương ứng với chứng nhận về trình độ đào tạo là cơ sở giúp mỗi người tìm kiếm việc làm và chỗ đứng trong xã hội, phát triển cá nhân và góp phần phát triển cộng đồng theo những cách khác nhau.

Tuy nhiên trong thực tế vẫn tồn tại không ít trường hợp coi “bằng cấp là chứng chỉ để thăng tiến”, coi là một minh chứng về “không thua chị, kém em”, thậm chí coi là “một dạng trang sức của một số người có quyền và có tiền”,… Họ tìm mọi cách, kể cả những cách phi pháp, để “kiếm được một tấm bằng”.

Từ đó, chỉ khi nào xã hội có sự nhìn nhận đúng đắn về bằng cấp, đánh giá mỗi cá nhân không phải từ bằng cấp, mà bằng trình độ, năng lực thực tế, cùng những chế tài nghiêm khắc, mới có thể xóa bỏ được tình trạng “mua bán bằng cấp”, “học giả, bằng thật”, “học giả, bằng giả”,… để thực hiện đúng yêu cầu “học thật, bằng thật”. Khi đó, giáo dục và đào tạo mới thực hiện đúng được sứ mệnh “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.

Thứ tư, tư duy về học tập suốt đời.

Thông thường, nói đến giáo dục và đào tạo là nói đến nhà trường. Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Thật ra, giáo dục là quá trình tiếp thu kiến thức và kỹ năng bằng những hình thức khác nhau, ở những môi trường khác nhau, với những đối tượng khác nhau. Quá trình này không phải chỉ diễn ra/được thực hiện trong nhà trường (Trường học), mà còn diễn ra/được thực hiện cả ở ngoài xã hội (Trường đời).

Theo đó, giáo dục là hành trình học hỏi trọn đời theo nhu cầu công việc và cuộc sống của mỗi người. Theo tinh thần ấy, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo không phải chỉ là giải quyết các vấn đề của nhà trường và trong nhà trường, mà không kém phần quan trọng còn là xây dựng xã hội học tập, tạo môi trường và cơ hội cho mọi người đều được học tập dưới những hình thức khác nhau, tiếp thu kiến thức, nâng cao năng lực và kỹ năng để làm việc có hiệu quả hơn.

(2) Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức.

Trong mọi thời đại, đội ngũ tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia, trong đó có năng lực khoa học công nghệ nội sinh quốc gia. Do vậy, để nâng cao năng lực khoa học công nghệ quốc gia phục vụ thiết thực nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng tiến bộ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo cần hết sức coi trong việc phát triển đội ngũ trí thức.

Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X (8/2008) đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết khẳng định: Đội ngũ trí thức có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng nền kinh tế tri thức. Nghị quyết cũng xác định rõ: Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc và sức mạnh của đất nước, đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững. Nghị quyết xác định mục tiêu “Ðến năm 2020, xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới…”.

Sau hơn 10 năm thực hiện, ngày 30/5/2019 Ban Bí thư đã ban hành kết luận số 52/KL-TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X. Trong khi khẳng định “Đội ngũ trí thức tăng nhanh về số lượng, đóng góp tích cực vào xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc”, bản kết luận cũng chỉ rõ “Đội ngũ trí thức sáng tạo, chuyên gia đầu ngành còn thiếu nghiêm trọng, đội ngũ kế cận thiếu hụt…”. Từ đó, bản kết luận xác định những công việc cần tiếp tục thực hiện trong thời gian tới.

Bối cảnh thập kỷ thứ ba của Thế kỷ XXI đã có những thay đổi lớn so với bối cảnh thập kỷ thứ nhất. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với tốc độ, quy mô và tác động của những thành tố công nghệ mới được đánh giá là “đảo lộn toàn bộ mô hình, sinh hoạt, tiêu dùng và quản trị quốc gia. Thế giới đang đứng trước một cuộc cách mạng có thể làm thay đổi cơ bản cách con người sống, làm việc và tương tác với nhau”[4].

Do vậy, cần thiết phải tiến hành nghiên cứu để ban hành một nghị quyết mới về xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức phù hợp với bối cảnh mới của thời đại và yêu cầu mới của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong nghiên cứu vấn đề này, cần: Xác định rõ những xu hướng phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, những cơ hội và thách thức với sự phát triển đất nước; Đánh giá một cách khách khách quan những điểm mạnh, điểm yếu của đội ngũ trí thức và nguyên nhân của những điểm yếu ấy; Xác định những nhiệm vụ cần thực hiện, những đột phá trong xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức; Trách nhiệm cụ thể của các cấp, các ngành trong tổ chức thực hiện.

Để phát huy vai trò nòng cốt của đội ngũ trí thức trong năng lực khoa học công nghệ quốc gia, cần thể chế hóa quan điểm: “Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước”.

Kết luận

Phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong bối cảnh mới của thời đại, việc nâng cao năng lực khoa học công nghệ nội sinh quốc gia là điều kiện trọng yếu để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng tiến bộ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo”, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Việc bảo đảm điều kiện này đòi hỏi phải có sự nỗ lực đồng bộ từ nhiều phía khác nhau. Bài viết nhỏ này chỉ xin nêu một số ý kiến ban đầu trong chủ đề có phạm vi rộng và nội dung phức tạp này.

GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

————————–

TÀI LIỆU THAM KHẢO

– Ban Kinh tế Trung ương: Việt Nam với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, 2017.

– Daron Acemoglu và James Robinson: Tại sao các quốc gia thất bại. Nhà xuất bản Trẻ, 2013.

– Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, VII, VIII, IX, X, XI, XII và XIII. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật.

– Joseph Stiglitz: Suy nghĩ lại sự thần kỳ Đông Á. Nhà xuất bản Trẻ, 2001.

– Kết luận số 52/KL-TW ngày 30/5/2019 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 27-NQ/TW ngày 6/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

– Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 6/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

– Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

– Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên): Phát triển đất nước thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2015.

– Quốc hội: Luật Khoa học và công nghệ (Luật số 29/2013/QH13).

– Quyết định số 50/NQ-CP ngày 17/4/2020 của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị.

– Quyết định số 2289/QĐ-TTg ngày 31/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến năm 2030.

– Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 30/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

– Quyết định số 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược Phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030.

– Tapchi tài chinh.vn ngay 3/9/2021.

[1] Các khái niệm trên dẫn từ Điều 3 Luật Khoa học và công nghệ (Luật số 29/2013/QH13).

[2] Một trong các ví dụ điển hình là đề xuất cải tiến chữ quốc ngữ đưa ra vào năm 2017.

[3] Tapchitaichinh.vn, ngày 3/9/2021.

[4] Ban Kinh tế Trung ương: Việt Nam với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, 2017, trang 17.

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây