Giới thiệu khái quát huyện Hữu Lũng

Giới thiệu khái quát huyện Hữu Lũng

Giới thiệu khái quát huyện Hữu Lũng

I. Vị trí địa lý và dân cư

1. Vị trí địa lý:

Hữu Lũng là huyện nằm ở phía Tây – Nam của tỉnh Lạng Sơn, có toạ độ địa lý từ 21023’ đến 21045’ vĩ độ Bắc, từ 106010’ đến 106032’ kinh độ Đông với diện tích tự nhiên là 806,74 km2.

Ranh giới của huyện:

– Phía Bắc giáp huyện Văn Quan và huyện Bắc Sơn.

– Phía Tây giáp tỉnh Thái Nguyên.

– Phía Tây Nam và Nam giáp tỉnh Bắc Giang.

– Phía Đông giáp huyện Chi Lăng và huyện Lục Ngạn, Lạng Giang tỉnh Bắc Giang.

Huyện Hữu Lũng có 26 đơn vị hành chính gồm 1 thị trấn Hữu Lũng và 25 xã (Đồng Tân, Cai Kinh, Hòa Lạc, Yên Vượng, Yên Thịnh, Yên Sơn, Hữu Liên, Sơn Hà, Hồ Sơn, Tân Thành, Hòa Sơn, Minh Hòa, Hòa Thắng, Minh Sơn, Nhật Tiến, Minh Tiến, Đô Lương, Vân Nham, Thanh Sơn, Đồng Tiến, Tân Lập, Thiện Kỵ, Yên Bình, Hòa Bình, Quyết Thắng). Trung tâm huyện lỵ đặt tại thị trấn Hữu Lũng, cách thành phố Lạng Sơn 70 km về phía Nam.

Hữu Lũng là một huyện ở vị trí chuyển tiếp giữa vùng Trung du và miền núi phía Bắc, có đường quốc lộ 1A và đường sắt liên vận Quốc tế chạy qua theo hướng Tây Nam – Đông Bắc, rất thuận tiện cho việc giao lưu hàng hoá thương mại, dịch vụ với các tỉnh trong nước, các tỉnh phía Nam Trung Quốc cũng như các nước ở phía Bắc Châu Á, tạo điều kiện thuận lợi cho Hữu Lũng trong việc giao lưu hàng hóa, tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến vào sản xuất và đời sống, là điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

2. Dân cư:

Tổng dân số trên địa bàn huyện Hữu Lũng năm 2013 là 114.860 người, bằng 15,29% dân số của tỉnh Lạng Sơn, mật độ dân số 142 người/km2.

Có 07 dân tộc chủ yếu cùng chung sống hoà thuận là Nùng, Kinh, Tày, Dao, Hoa, Cao Lan, Sán Dìu…; trong đó dân tộc Nùng chiếm 52,3%, dân tộc Kinh 38,9%; dân tộc Tày 6,6%, dân tộc Cao Lan chiếm 1,23%, dân tộc Dao chiếm 0,44%, dân tộc Hoa chiếm 0,14%, còn lại các dân tộc khác chiếm 0,39% dân số toàn huyện.

II. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên

1. Địa hình

Huyện Hữu Lũng thuộc vùng núi thấp của tỉnh Lạng Sơn, địa hình được phân chia rõ giữa vùng núi đá vôi ở phía Tây Bắc và vùng núi đất ở phía Đông Nam. Phần lớn diện tích ở vùng núi đá vôi có độ cao 450 – 500m và ở vùng núi đất có độ cao trên dưới 100 m so với mặt nước biển. Nhìn chung, địa hình phức tạp, bị chia cắt bởi các dãy núi đá vôi và các dãy núi đất.

Địa hình núi đá chiếm trên 25% tổng diện tích tự nhiên. Xen kẽ giữa vùng núi đá là những thung lũng nhỏ địa hình tương đối bằng phẳng, là vùng đất sản xuất nông nghiệp của cư dân. Xen kẽ các vùng núi đất là các dải đất ruộng bậc thang phân bố theo các triền núi, triền sông, khe suối trong vùng, là vùng đất sản xuất nông nghiệp được tạo lập từ nhiều đời nay cung cấp lương thực cho cư dân sinh sống trong vùng.

2. Khí hậu, thủy văn

Hữu Lũng chịu sự ảnh hưởng của khí hậu vùng núi phía Bắc, khô lạnh và ít mưa về mùa Đông, nóng ẩm, mưa nhiều về mùa hè. Nhiệt độ không khí trung bình hàng năm là 22,70C. Tháng 7 có nhiệt độ không khí trung bình cao nhất là 28,50C. Tháng 01 có nhiệt độ không khí trung bình thấp nhất là 2,50 C.

Lượng mưa trung bình năm là 1.488,2mm với 135 ngày mưa trong năm và phân bố từ 13 – 17 ngày/tháng, tăng dần từ tháng 5 đến tháng 8. Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10 và chiếm trên 90% lượng mưa cả năm. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau và chiếm trên 9% lượng mưa cả năm.

3. Tài nguyên đất

Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 80.674,64 ha chiếm 9,7% diện tích toàn tỉnh, trong đó diện tích núi đá có 33.056 ha chiếm 40,97% tổng diện tích của huyện; diện tích đồi núi đất có 45.223 ha chiếm 56,1%. Đa số diện tích đồi núi của Hữu Lũng thuộc loại địa hình dốc.

Đất đai gồm 9 loại đất, trong đó tập trung chủ yếu vào 4 loại đất chính đó là: Đất đỏ vàng trên đá sét (Fs) có khoảng 18.691 ha; đất vàng nhạt trên đá cát (Fq) có khoảng 9.021 ha; đất vàng đỏ trên đá mácma axít (Fa) có khoảng 7.080 ha và đất đỏ nâu trên đá vôi (Fv) có khoảng 4.350 ha.

Về tình hình sử dụng đất, theo điều tra năm 2010 đất nông nghiệp của huyện là 56.316,67 ha chiếm 69,81% tổng diện tích tự nhiên, trong đó đất sản xuất nông nghiệp chiếm 25,57%; đất lâm nghiệp chiếm 43,78% tổng diện tích tự nhiên.

Diện tích đất phi nông nghiệp 6.263,25 ha chiếm 7,76% diện tích tự nhiên của huyện, trong đó đất chuyên dùng hiện nay là 58%, đất sông suối và mặt nước chuyên dùng là 23% tổng diện tích đất phi nông nghiệp.

Diện tích đất chưa sử dụng còn nhiều, khoảng 22,43% tổng diện tích tự nhiên của huyện trong đó đất bằng chưa sử dụng là 320,81 ha; đất đồi núi chưa sử dụng là 140,33 ha, phân bố ở các xã vùng gò đồi và vùng núi; núi đá không có rừng cây là 17.633,68 ha chiếm 97,4% tổng diện tích đất chưa sử dụng. Diện tích đất chưa sử dụng của huyện chủ yếu là núi đá không có rừng cây và đất bằng chưa sử dụng.

4. Tài nguyên nước

Hệ thống sông, suối, kênh, mương của huyện Hữu Lũng có khoảng 1.427,96 ha gồm có 2 con sông lớn chảy qua là sông Thương và sông Trung.

Sông Thương dài 157 km bắt nguồn từ dãy núi Nà Pá Phước cao 600m gần ga Bản Thí của huyện Chi Lăng chảy qua huyện theo hướng Đông Bắc-Tây Nam xuôi về tỉnh Bắc Giang. Sông Thương gặp sông Trung chảy từ Thái Nguyên về ở Na Hoa xã Hồ Sơn. Trong địa bàn của huyện, thung lũng Sông Thương được mở rộng trên 30 km. Sông Thương có độ rộng bình quân chỉ 6 m, độ cao trung bình 176 m, độ dốc lưu vực 12,5%, lưu vực dòng chảy trung bình năm là 6,46 m3/s, lưu lượng vào mùa lũ chiếm khoảng 67,6 – 74,9%, còn mùa cạn là 25,1 – 32,4%. Sông Thương là nguồn nước chủ yếu phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân các dân tộc trong huyện.

Sông Trung bắt nguồn từ vùng núi Thái Nguyên chảy qua huyện theo hướng Tây Bắc-Đông Nam đổ vào sông Thương ở phía bờ phải tại thôn Nhị Hà, xã Sơn Hà. Sông Trung chảy trong vùng đá vôi, thung lũng hẹp, độ dốc trung bình lưu vực sông là 12,8%.

Ngoài ra, huyện còn có khoảng 216,69 ha các ao, hồ như hồ Cai Hiển; hồ Chiến Thắng; hồ Tổng Đoàn … và ở khắp các xã trong huyện đều có các con suối lớn, nhỏ chảy quanh các triền khe, chân đồi ven theo các làng, bản, chân ruộng.

Hệ thống sông, suối, kênh mương cùng các ao hồ của huyện đảm bảo nguồn cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trên địa bàn. Hệ thống sông, suối với địa hình dốc có thể phát triển thuỷ điện nhỏ.

Nguồn nước ngầm của huyện cũng khá dồi dào với chất lượng tốt.

5. Tài nguyên rừng

Huyện Hữu Lũng có diện tích rừng khá lớn. Năm 2014 tổng diện tích rừng của huyện có khoảng 35.322,96 ha, trong đó rừng tự nhiên là 18.032,7 ha, chiếm 51,05%, đất có rừng trồng là 18.032,65 ha, chiếm 48,94% tổng diện tích rừng của huyện. Rừng của Hữu Lũng trước đây thực vật, động vật đa dạng, phong phú, nhiều cây dược liệu quý và cây ăn quả đặc sản nổi tiếng. Năm 2014, tỷ lệ che phủ rừng của huyện Hữu Lũng đạt khoảng 54,3%.

6. Tài nguyên khoáng sản

Tài nguyên khoáng sản của Hữu Lũng chủ yếu có: Đá vôi với hàm lượng Cao khoảng 55% là nguyên liệu để sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng… tập trung ở Đồng Tân, Cai Kinh; Yên Vượng, Yên Thịnh, Yên Sơn, Minh Tiến, Đồng Tiến với diện tích khai thác khoảng 544,05 ha; Ngoài ra, Hữu Lũng còn có một số khoáng sản khác như mỏ sắt ở Đồng Tiến, diêm tiêu ở Tân Lập, Thiện Kỵ, phốt phát Vĩnh Thịnh, mỏ bạc Nhật Tiến và các loại  cát, cuội, sỏi cung cấp cho nhu cầu xây dựng của huyện và tỉnh.

7. Tài nguyên văn hóa – du lịch

Hữu Lũng là huyện miền núi thấp có khí hậu ôn hòa đặc sắc của vùng núi, lại rất thuận lợi về giao thông, có nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, văn hóa đa dạng phong phú, lại cách Hà Nội không xa, khoảng 80 km là tiềm năng, điều kiện tự nhiên quý giá để huyện phát triển mạnh lĩnh vực dịch vụ và du lịch:

– Trên địa bàn huyện có nhiều dân tộc sinh sống như dân tộc Tày, Nùng, Kinh, Hoa, Dao, Sán Chỉ với bản sắc văn hoá riêng, có các làn điệu hát Then, hát Lượn, hát Lượn cổ Tày, Nùng; múa Chầu, múa Sư Tử… và kiến trúc xây dựng nhà sàn mang đậm sắc thái của vùng xứ Lạng.

– Hữu Lũng có khá nhiều di tích đình, đền, chùa như Đền Bắc lệ (xã Tân Thành); Đền Quan Giám Sát, Đến Chầu Lục (xã Hòa Lạc); Chùa Cã (xã Minh Sơn); Đền Suối Ngang (xã Hòa Thắng); Đền Phố Vị (xã Hồ Sơn); Đền Chúa Cà Phê, Đền Voi Xô (xã Hòa Thắng); Đền Ba Nàng (xã Cai Kinh); lễ hội Chò Ngô (xã Yên Thịnh) … là những điểm thu hút khách du lịch tâm linh của cả vùng và tỉnh. Ngoài ra các xã, thôn làng đều có những lễ hội riêng với nhiều hoạt động văn hóa cổ truyền độc đáo.

Hữu Lũng có phong cảnh đẹp của vùng trung du miền núi phía Bắc, có nhiều địa danh, thắng cảnh trên địa bàn như Mỏ Heo xã Đồng Tân (có suối với phong cảnh đẹp); các xã Yên Thịnh, xã Hữu Liên môi trường và phong cảnh đẹp, có nhà sàn, suối nước, rừng cây; xã Tân Lập có hang Dơi, hang Thờ, hang Đèo Thạp; xã Thiện Kỳ có hang Rồng… đều là những điểm có thể phát triển các loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch làng nghề, du lịch leo núi, du lịch nghỉ ngơi an dưỡng, mua sắm kết hợp tổ chức hội nghị, hội thảo…. Khi được đầu tư xây dựng và tuyên truyền quảng bá tốt, Hữu Lũng sẽ thu hút được nhiều du khách, phát triển mạnh lĩnh vực dịch vụ và du lịch.

III. Truyền thống Lịch Sử 

Ngay buổi đầu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX, dưới ngọn cờ của các sĩ phu yêu nước, nhân dân các dân tộc huyện Hữu Lũng đã dũng cảm vùng lên, phá tan xiềng xích nô lệ của ách áp bức thực dân. Tiêu biểu cho ý chí đó là phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược năm 1884 do Hoàng Đình Kinh đứng đầu, làm chủ cả một vùng rộng lớn, từ Nam Chi Lăng đến Lạng Giang gây cho địch hao binh tổn tướng, điêu đứng, mất ăn mất ngủ, thiệt hại nặng nề. Hoàng Đình Kinh đã trở thành người con tiêu biểu của núi rừng Yên Thế – Hữu Lũng trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Trong cuộc kháng chiến thần thánh 9 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hữu Lũng là căn cứ địa, hậu phương của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và cũng là nơi chôn vùi nhiều cuộc hành quân càn quét của bọn xâm lược mà sử sách đã từng ghi nhận, khiến cho chúng khiếp đảm khi bước vào cửa ngõ phía Nam của tỉnh Lạng Sơn. Quân dân các dân tộc Hữu Lũng tự hào ghi tiếp những chiến công vẻ vang vào trang sử mới của dân tộc với những Đồn Vang, Đá Bia, Rừng Cấm, Đèo Cà lịch sử.

Nối tiếp truyền thống yêu nước, đấu tranh cách mạng, nhân dân các dân tộc Hữu Lũng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện đã kề vai sát cánh cùng nhân dân cả nước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, kịp thời chi viện sức người, sức của cho đồng bào miền Nam ruột thịt; cùng cả nước làm nên chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tiến bước trên con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong hai cuộc kháng chiến đã qua, cũng như cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc tháng 2 năm 1979 đã có biết bao con người ưu tú của quê hương Hữu Lũng ngã xuống cho độc lập –  tự do của dân tộc; nhiều anh hùng và liệt sĩ được Đảng và Nhà nước tuyên dương công trạng, như anh hùng quân đội Nguyễn Bá Tòng, anh hùng liệt sĩ Nông Văn Giáp… cùng nhiều gia đình và cá nhân khác được Đảng, Nhà nước tặng bằng có công với nước.

Có được cuộc sống thanh bình, tự do, độc lập, người dân Hữu Lũng vẫn không quên những năm tháng bị đày đọa dưới ách đô hộ của thực dân phong kiến. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân các dân tộc Hữu Lũng với ý thức trách nhiệm lớn lao của người công dân đang tiếp tục phát huy truyền thống yên nước, đấu tranh cách mạng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nguồn: Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội huyện Hữu Lũng giai đoạn 2011-2020 và Lịch sử Đảng bộ huyện Hữu Lũng

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây