Giới thiệu khái quát huyện Nam Sách
Diện tích: 109 km2
Dân số: 111.635 người
Đơn vị hành chính: 18 xã và 01 thị trấn
Thị trấn : Nam Sách
Xã: An Bình, An Sơn, An Lâm, Cộng Hòa, Đồng Lạc, Hiệp Cát, Hồng Phong, Hợp Tiến, Minh Tân, Nam Chính, Nam Hồng, Nam Hưng, Nam Tân, Nam Trung, Phú Điền, Quốc Tuấn, Thái Tân, Thanh Quang
Giới thiệu chung
Nam Sách là huyện có lịch sử phát triển lâu đời, con người đến sinh cơ lập nghiệp khá sớm. Theo kết quả khảo cổ học gần đây nhất cho thấy ngay từ đầu Công nguyên, mảnh đất này đã có con người sinh sống
Vị trí địa lý
Huyện Nam Sách phía bắc giáp huyện Chí Linh, phía đông giáp huyện Kinh Môn và huyện Kim Thành, phía nam giáp thành phố Hải Dương, phía tây giáp huyện Cẩm Giàng và huyện Gia Bình (tỉnh Bắc Ninh). Tính chất đất đai cũng như địa hình của huyện mang đặc tính địa hình của đất phù sa sông Thái Bình. Độ cao so với mực nước biển trung bình là 0,60 m.
Khí hậu ở Nam Sách mang rõ nét tính chất khí hậu nhiệt đới gió mùa, hội tụ đầy đủ điều kiện để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện.
Lịch sử
Tên Nam Sách không hiểu có từ khi nào chỉ biết rằng, Phạm Chiêm là một hào trưởng ở vùng Trà Hương (Nam Sách Giang) giúp Ngô Quyền trong chiến thắng Bạch Đằng năm 938 và đã cưu mang con trai Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập năm 944. Sau khi giành lại ngôi vua Ngô Xương Văn xưng vương lấy hiệu là Nam Tấn Vương và Ngô Xương Ngập lấy hiệu là Thiên Sách Vương, mỗi người lấy một từ của tên “Nam Sách” để tỏ lòng ghi nhớ về vùng đất này. Đến đời nhà Lý cũng có tên là Nam Sách Giang. Nam Sách là nơi phát tích của hai dòng họ Việt Nam đó là dòng họ Phạm (Trà Hương) và họ Mạc (Long Động).
Thời nhà Trần, Nam Sách là tên gọi của một xứ, bao gồm Chí Linh, Nam Sách, Thanh Hà và Tiên Lãng (Hải Phòng) ngày nay. Cuối thời nhà Trần, nó là tên gọi của một châu (Nam Sách châu) thuộc phủ Lạng Giang. Đầu thời kỳ Lê sơ, là tên gọi của một lộ, bao gồm Nam Sách thượng và Nam Sách hạ. Đến thời Lê Nhân Tông là tên gọi của một phủ. Đến năm 1466, Lê Thánh Tông chia cả nước thành 13 đạo thừa tuyên, Nam Sách là một trong số đó. Tháng 4 năm 1469, nó lại chỉ là tên gọi của một phủ, do đạo thừa tuyên Nam Sách đã đổi thành Hải Dương. Trong thành phần phủ Nam Sách khi đó có các huyện Thanh Lâm, Chí Linh, Thanh Hà và Tiên Minh (Tiên Lãng ngày nay). Thời Hậu Lê, trụ sở phủ Nam Sách đặt tại Vạn Tải (nay thuộc xã Hồng Phong). Tới năm Gia Long 7 (1806) chuyển về Tổng Xá (xã Thanh Quang ngày nay). Năm 1898, bỏ cấp phủ. Tên gọi huyện Nam Sách có lẽ có từ khi này.
• Các giai đoạn từ 9/1947 tới 25/8/1948 và từ 7/11/1949 tới 22/2/1955, huyện thuộc tỉnh Quảng Yên.
• Ngày 24/2/1979 Nam Sách hợp nhất với Thanh Hà thành huyện Nam Thanh.
• Ngày 17/2/1997 huyện Nam Thanh lại tách ra thành huyện Nam Sách và huyện Thanh Hà.
Truyền thống-Văn hóa
Đình thờ Phạm Chiêm ở Thuỵ Trà, Nam Trung, Nam Sách, Hải Dương
Nam Sách đã từng là đại bản doanh của nhiều triều đại: Hai bà Trưng, nhà Tiền Lý, nhà Ngô, nhà Trần.
Đây cũng là vùng đất của gốm Chu Đậu, chùa An Ninh (Chùa Trăm Gian xứ Đông), quê hương của nhiều nhân vật lịch sử như:
• Phạm Chiêm (Phạm Lệnh Công) người đã cưu mang con trai Ngô Quyền (ông Tổ trung hưng nước Việt), có công xây dựng nhà Hậu Ngô Vương.
• Phạm Cự Lạng, cháu của Phạm Chiêm, người suy tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi cửu ngũ.
• Mạc Đăng Dung, người mở đầu triều đại nhà Mạc.
• Ngô Hoán, một thành viên trong hội thơ Tao Đàn của Lê Thánh Tông.
Tại Nam Sách còn là nơi mai táng Vũ Hồn, thủy tổ của một dòng họ Vũ/Võ của Việt Nam và Thành hoàng của làng Mộ Trạch giàu truyền thống khoa bảng.
Trong thời kỳ phong kiến Hải Dương có 10 vị đỗ đại khoa (Thủ khoa Đại Việt hay Trạng nguyên) thì riêng huyện Nam Sách có 6 vị là:
• Thủ khoa Minh kinh bác học Mạc Hiển Tích (1086), người Long Động, Nam Tân;
• Trạng nguyên Trần Quốc Lặc (1256) người Uông Hạ, Minh Tân;
• Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (1304) người Long Động, Nam Tân;
• Trạng nguyên Trần Sùng Dĩnh (1487) người Đồng Khê, An Lâm;
• Trạng nguyên Vũ Dương (1493) người Mạn Nhuế, Thanh Lâm.
• Trạng nguyên Đặng Thì Thố (1559) người làng Thạc, An Châu (nay thuộc thành phố Hải Dương);
Cũng chính vì có nhiều người đỗ đạt cao mà nhiều ý kiến cho rằng Nam Sách tức là “Sách của trời Nam”.
Trong cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc Nam Sách có 8 người được nhà nước Việt Nam tuyên dương là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, đó là Vũ Ngọc Diệu, Đỗ Chu Bỉ, Nguyễn Nhật Chiêu, Đặng Đức Song, Mạc Thị Bưởi, Nguyễn Trung Goòng, Nguyễn Đức Sáu và Nguyễn Đăng Lành.
Năm 1978, huyện Nam Sách được tuyên dương là anh hùng lực lượng vũ trang.
Nơi đây còn là quê hương nhà thơ Trần Đăng Khoa.
Kinh tế
Nông nghiệp
• Khuyến khích phát triển kinh tế hộ và kinh tế trang trại, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học, đưa giống cây trồng, vật nuôi mới vào sản xuất. Mở rộng diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, với những con có giá trị kinh tế cao như tôm, cá rô phi đơn tính, cá chim trắng. Giai đoạn 2006 – 2010, phấn đấu đưa tốc độ phát triển của ngành nông nghiệp đạt 7,6 – 7,8% /năm; tổng thu trên 1 ha diện tích đất nông nghiệp vào năm 2010 đạt 53 triệu đồng/ha.
• Diện tích trên 800 ha nuôi trồng thuỷ sản, 1.038,5 ha sông ngòi tự nhiên và 500 ha đất bãi trũng cấy lúa được chuyển đổi sang đào ao lập vườn phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
Công nghiệp
Trước kia Nam Sách có làng nghề gốm cực kỳ nổi tiếng là gốm Chu Đậu, từ năm 1995 bắt đầu phục hồi làng nghề gốm này. Huyện đã có khu công nghiệp Nam Sách được Chính phủ phê duyệt trên 63 ha, cụm công nghiệp An Đồng đã được tỉnh phê duyệt trên 35 ha. Khu Công nghiệp Cộng Hoà. Ngoài ra một số doanh nghiệp đã đầu tư vào thị trấn Nam Sách, xã Minh Tân; khả năng dành đất cho công nghiệp ở dọc đường 183, đường 17 của huyện còn lớn.
Du lịch
Toàn huyện có nhiều di tích lịch sử đền, chùa, miếu, trong đó có 11 di tích được Nhà nước xếp hạng, mặt khác Nam Sách là một miền quê trù phú về phát triển cây vụ đông xuân, phát triển các làng nghề, phải kể đến 2 làng nghề là sấy rau quả ở Mạn Thạch Đê (xã Nam Trung) và làm hương (xã Quốc Tuấn). Đó là những tiềm năng để huyện có thể phát triển du lịch, văn hoá, thu hút khách tham quan, tìm hiểu lịch sử văn hoá dân tộc.
Kiến trúc
Cầu Bình bắc qua sông Kinh Thày nối liền Nam Sách với Chí Linh
Nam Sách nằm ở trung tâm của tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, có hệ thống giao thông tổng thể không phải là không thuận lợi, mặc dù có sông bao bọc gần như bốn phía: đường 183 nối Hà Nội, Hải Phòng với Quảng Ninh (qua cầu Bình), có đường sông dài gần 50 km. Đây là một huyện có đầy đủ các điều kiện về địa lý, giao thông, cơ sở hạ tầng để phục vụ cho việc phát triển các khu công nghiệp, kinh tế trang trại, mặt khác theo chủ trương phát triển tổng thể của Tỉnh đến năm 2015 thì việc xây dựng thêm Cầu nối liền Thành phố Hải Dương (chạy thẳng từ Thành phố Hải Dương xuyên qua đường vành đai các Thôn Trúc Khê, Nham Cáp, Nhân Lễ và La Xuyên nối thẳng với đường quốc lộ 183 để hình thành một tuyến lộ Hải Dương – Quảng Ninh). Đây chính là tiền đề để biến Nam Sách thành một trung tâm khu vực, điểm liên kết với các Tỉnh như Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh. Nhờ điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, giao thông mà Nam Sách đang dần trở thành một huyện có lợi thế thu hút vốn đầu tư lớn nhất so với các huyện trong toàn Tỉnh.
Nam Sách là huyện có lịch sử phát triển lâu đời, con người đến sinh cơ lập nghiệp khá sớm. Theo kết quả khảo cổ học gần đây nhất cho thấy ngay từ đầu Công nguyên, mảnh đất này đã có con người sinh sống
Truyền thống cách mạng
Nam Sách là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, qua các cuộc kháng chiến chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc, Nam Sách đã có những đóng góp to lớn cho dân tộc. Toàn huyện có 2.808 liệt sỹ, 2.445 thương, bệnh binh, 291 Bà Mẹ Việt Nam anh hùng.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ kháng chiến, huyện Nam Sách cùng 05 xã (Nam Tân, Hợp Tiến, Minh Tân, Đồng Lạc, Cộng Hòa) và 09 cá nhân đã vinh dự được nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong đó, 09 Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân gồm:
– Liệt sỹ Mạc Thị Bưởi: Thôn Long Động, xã Nam Tân.
– Liệt sỹ Nguyễn Đăng Lành: Thôn Trần Xá, xã Nam Hưng.
– Liệt sỹ Nguyễn Trung Goòng: Thôn Vạn Tải, xã Hồng Phong.
– Liệt sỹ Nguyễn Đức Sáu: Thôn Uông Hạ, xã Minh Tân.
– Liệt sỹ Đỗ Chu Bỉ: Thôn An Lương, xã An Lâm.
– Đặng Đức Song: Thôn Chi Đoan, xã Cộng Hoà.
– Nguyễn Nhật Chiêu: Thôn Đông Thôn, xã Quốc Tuấn.
– Vũ Ngọc Diệu: Thôn Đông Thôn, xã Quốc Tuấn.
– Liệt sĩ Lê Văn Nhân: Thôn Kim Bảng, xã Phú Điền (được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lực lượng vũ trang thời kỳ chống Pháp ngày 26/4/2018)
Tôn giáo:
Trên địa bàn huyện hiện có 02 tôn giáo (Phật giáo và Công giáo) hoạt động được pháp luật công nhận. Bà con lương giáo đoàn kết, chung sống hài hòa trong cộng đồng xã hội
Những sản phẩm nổi tiếng:
– Gốm Chu Đậu (Thái Tân);
– Các mặt hàng nông sản chế biến như: hành, tỏi, cà rốt, bí ngô,… (Nam Trung, thị trấn Nam Sách);
– Hương thơm (Quốc Tuấn);
– Bún bánh (Lang khê).