Giới thiệu khái quát thị xã Quảng Trị

Giới thiệu khái quát thị xã Quảng Trị

Giới thiệu khái quát thị xã Quảng Trị

1. Đặc điểm tự nhiên:

      Nằm ven châu thổ sông Thạch Hãn, Thị xã Quảng Trị cách cố đô Huế khoảng 60km về phía bắc, phía tây và phía bắc giáp huyện Triệu Phong, phía đông giáp huyện Hải Lăng và phía nam giáp huyện ĐakrôngHải Lăng. Thị xã Quảng Trị có diện tích tự nhiên là 7.402,78 ha, dân số 22.760 người; 5 đơn vị hành chính trực thuộc.

     Địa hình thị xã Quảng Trị chia thành 2 vùng rõ rệt. Phía nam là vùng đồi núi với những thảm rừng có hệ sinh thái phong phú. Phía bắc là vùng đồng bằng tương đối bằng phẳng, thuận lợi cho việc trồng lúa và các loại cây ăn quả lâu năm. Hai con sông Thạch Hãn và Vĩnh Định chảy qua Thị xã hình thành các con đường thuỷ nối liền thị xã Quảng Trị về với Cửa Việt, Hội Yên, Đông Hà, thị xã Quảng Trị đi Thuận An (Thành phố Huế)…Đồng thời, 2 con sông chảy vào lòng thị xã đã góp phần tạo nên cảnh quan đẹp, khí hậu mát mẽ về mùa hè, bồi đắp phù sa cho ruộng đồng về mùa mưa. 

     Nằm trên trục đường giao thông chiến lược của quốc gia: quốc lộ I, tuyến đường sắt Bắc-Nam, địa bàn thị xã Quảng Trị giao thông ra bắc vào Nam hết sức thuận lợi. Thị xã cũng là đầu mối xuất phát của các con đường tỉnh lộ như đường 64 (thị xã Quảng Trị- Cửa Việt), đường 68 (thị xã Quảng Trị- đồng bằng Triệu Hải- Phong Quảng) và nhiều con đường khác: thị xã Quảng Trị -La Vang- Phước Môn, thị xã Quảng Trị- Thượng Phước- Trấm- Cùa. Với hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thuỷ từ trung tâm thị xã có thể mở rộng phát triển khắp các vùng, tiện lợi cho việc giao lưu kinh tế, văn hoá giữa thị xã Quảng Trị với các huyện, thị trong tỉnh, trong nước. Vì vậy, thị xã Quảng Trị có một vị trí quan trọng không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị, quân sự, văn hoá, xã hội.

     Khí hậu thị xã Quảng Trị mang đậm nét điển hình của khí hậu vùng nhiệt đới gió mùa. Sự khắc nghiệt của khí hậu kết hợp với sự phức tạp của địa hình thường xuyên gây ra bão, lụt, hạn hán, giá rét… Đặc biệt, gió mùa tây-nam bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 7 hàng năm, nhiệt độ có lúc lên tới 40oC-41oC, làm cho nguồn nước sông cạn kiệt, nước mặn tràn vào gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất, sinh hoạt của nhân dân thị xã.

         2. Hoàn cảnh địa lý, kinh tế,  xã hội: 

     – Về địa lý hành chính: Từ lâu đời, vào thời đại Hùng Vương, mảnh đất thị xã Quảng Trị ngày nay thuộc bộ Việt Thường, một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Dưới thời kỳ Bắc thuộc, từ 179 trước công nguyên đến 192 sau công nguyên, nhà Hán chia nước Âu Lạc thành 3 quận: Giao chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Bộ Việt Thường thuộc quận Nhật Nam. Đến cuối thế kỷ thứ II sau CN, đời Sơ Bình (190-193), nhà Đông Tấn Trung Quốc suy yếu, Vương quốc Chăm Pa, một nước mới thành lập ở phía nam đèo Hải Vân, đem quân đánh chiếm vùng đất bộ Việt Thường. Vùng đất này trở thành biên địa phía bắc của Vương quốc Chăm Pa độc lập với cơ cấu 5 châu: Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh, Ô và Rí (Lý), vùng đất thị xã Quảng Trị thuộc châu Ô.

     Năm 1069, vua Lý Thái Tông đem quân đánh vào kinh thành Chăm Pa, bắt được vua Chế Củ. Chế Củ xin dâng 3 châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh để được trả tự do. Nhà Lý đổi 3 châu đó thành châu Lâm Bình và Minh Linh.

     Năm 1306, vua Chăm Pa là Chế Mân sai sứ dâng chiếu cầu hôn công chúa vua Trần Anh Tông nước Đại Việt. Vua Trần bằng lòng gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và nhận hai châu Ô và Rí (Lý) mà Chế Mân dâng làm vật sính lễ. Nhà Trần đổi châu Ô làm Thuận Châu, châu Lý làm Hoá Châu. Mảnh đất thị xã Quảng Trị ngày nay thuộc châu Thuận.

     Đời Hậu Lê năm 1466, vua Lê Thánh Tông đổi hai châu Thuận và Hoá thành hai phủ Tân Bình và Triệu Phong thuộc xứ Thuận Hoá. Phủ Triệu Phong gồm các huyện Vũ Xương, Hải Lăng… Mảnh đất thị xã Quảng Trị thuộc huyện Hải Lăng.

     Năm 1558, để tránh nguy cơ bị ám hại bởi bàn tay của người anh rễ là Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng- con trai thứ của Thái tổ Nguyễn Kim- xin vào trấn thủ xứ Thuận Hoá.

     Từ khi đặt chân lên dải đất của phía Nam Hoành Sơn đến khi mất (1558-1613), Nguyễn Hoàng lần lượt đóng bản doanh ở gò phù sa Ái Tử (1558), làng Trà Bát (1570). Năm 1600, Nguyễn Hoàng lại dời phủ tới Dinh cát (phía Đông Ái Tử ), chăm lo mở mang bờ cõi, phát triển kinh tế, văn hoá. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: dưới thời Nguyễn Hoàng, ở hai trấn Thuận, Quảng “chính lệnh khoan hoà, thường ban ân huệ, dùng phép công bằng, khuyên răn bản bộ, trấn áp những kẻ hung ác, dân hai trấn đều cảm lòng, mến đức; thay đổi phong tục, chợ không nói thách, dân không trộm cắp, cổng ngoài không phải đóng, thuyền buôn nước ngoài đều đến buôn bán, đổi trao phải giá, quân lệnh nghiêm cấm, mọi người ra sức”. Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn xây dựng xứ Thuận Hoá dần dần trở thành bờ cõi riêng và xưng chúa.

     Từ đầu thế kỷ XVIII đến năm 1774, các chúa kế nghiệp Nguyễn Hoàng, đặc biệt là Nguyễn Phúc Thuần, bằng chính sách cai trị hà khắc, đã thả lỏng cho bọn quan lại tha hồ bóc lột, đục khoét nhân dân. Chính vì vậy, từ giữa thế kỷ XVIII, những cuộc nổi dậy của nhân dân Đàng Trong liên tiếp nổ ra, nổi bật nhất là phong trào nông dân Tây Sơn.

     Sau cái chết đột ngột của Nguyễn Huệ (16-9-1792), lợi dụng tình hình phong trào Tây Sơn gặp khó khăn và dựa vào sự chi viện của ngoại bang, Nguyễn Ánh cất quân phản kích Tây Sơn. Tháng 6-1801, Nguyễn Ánh tiến chiếm Phú Xuân rồi lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long. Sau khi giành lại được chính quyền, Gia Long lập dinh Quảng Trị bao gồm đất đai các huyện Hải Lăng, Đăng Xương (tên cũ là Vũ Xương), Minh Linh và đạo Cam Lộ (mới lập). Đến năm 1827, dinh Quảng Trị đổi là trấn Quảng Trị. Năm 1832, trấn Quảng Trị được đổi thành tỉnh Quảng Trị. Dinh lỵ Quảng Trị đóng tại làng Tiền Kiên (thuộc huyện Đăng Xương), năm 1809, dinh lỵ Quảng Trị dời từ Tiền Kiên tới đóng tại xã Thạch Hãn (huyện Hải Lăng), tức vị trí của thị xã Quảng Trị ngày nay và tiến hành xây thành, đắp luỹ cố định. Ban đầu, thành được đắp bằng đất, đến năm Minh Mạng thứ 18 (1837), thành được xây dựng bằng gạch nung.

     Năm 1853, tỉnh Quảng Trị với phủ Thừa Thiên hợp nhất thành đạo Quảng Trị. Năm 1876 lập lại tỉnh Quảng Trị. Năm 1890, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định hợp nhất Quảng Trị với tỉnh Quảng Bình thành tỉnh Bình Trị. Năm 1896, toàn quyền Đông Dương lại ra Nghị định tách Quảng Trị ra khỏi địa hạt thuộc quyền Công Sứ Đồng Hới, hợp cùng với Thừa Thiên đặt dưới quyền Khâm sứ Trung Kỳ. Năm 1900, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định tách Quảng Trị khỏi Thừa Thiên, lập thành tỉnh Quảng Trị riêng biệt. Ngày 17-2-1906, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập thị xã Quảng Trị (tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị).

     Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), đi ra khỏi cuộc chiến tranh, trong cảnh hoang tàn đổ nát, thị xã Quảng trị trở thành huyện lỵ của huyện Triệu Phong. Tháng 1-1977, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên ra quyết định thành lập thị trấn Triệu Phong. Tiếp đó, hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng hợp nhất thành huyện Triệu Hải, thị trấn Triệu Phong được đổi thành thị trấn Triệu Hải. Ngày 18-5-1981, Hội đồng Chính phủ ra quyết định thành lập thị trấn Quảng Trị (bao gồm thị trấn Triệu Hải và xã Hải Trí).

     Sau khi tỉnh Quảng Trị được lập lại vào ngày 1-7-1989, theo nguyện vọng của Đảng bộ và nhân dân Thị xã muốn xây dựng một đô thị “ đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” để xứng đáng với tầm vóc và vị thế lịch sử, ngày 16-9-1989, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra quyết định thành lập thị xã Quảng Trị. Ngày 19-3-2008, đáp ứng yêu cầu phát triển của tình hình mới, Chính phủ ra Nghị định V/v điều chỉnh địa giới hành chính huyện Hải Lăng, huyện Triệu phong để mở rộng địa giới hành chính thị xã Quảng trị, điều chỉnh địa giới hành chính các xã, phường để thành lập phường thuộc thị xã Quảng Trị với cơ cấu 4 phường và một xã.

     – Về các loại hình kinh tế:Phát huy lợi thế về vị trí địa lý, địa hình, trải qua các thời kỳ lịch sử, cư dân thị xã Quảng Trị không ngừng đấu tranh để phát triển sản xuất. Trong nông nghiệp, biểu hiện chủ yếu là sự phổ biến các công cụ bằng sắt và kỹ thuật cày bừa do trâu, bò kéo. Nhiều loại phân đã được dùng để tăng độ phì nhiêu cho đất. Ngoài lúa, nông dân ta còn trồng khoai, đậu và nhiều loại cây rau, củ khác (củ từ, môn, củ cải…). Bên cạnh các nghề chính như làm ruộng, làm nghề thủ công, làm vườn thì nghề trồng bông, nhất là nghề dâu tằm cũng khá phát triển. Đối tượng của nghề làm vườn là các loại rau, dưa, bầu, bí, cây ăn quả. Kỹ thuật chiết cành, trồng cây đã xuất hiện. Về chăn nuôi, ngoài trâu, bò, nhà nào cũng nuôi lợn, chó, gà, vịt.

     Các nghề thủ công như rèn sắt, đan lát bằng tre, mây… được áp dụng rộng rãi, phổ biến. Nghề gốm tiếp tục phát triển trên vốn liếng kinh nghiệm cổ truyền, có tiếp thu ít nhiều ảnh hưởng của kỹ thuật Trung Quốc. Cùng phát triển với nghề gốm là nghề làm gạch, ngói phục vụ các công trình kiến trúc thành quách, chùa chiền… Trên cơ sở phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và nhờ có hệ thống giao thông thuỷ, bộ thuận tiện, việc buôn bán ở thị xã ngày càng sầm uất. Từ nửađầu thế kỷ XVI, sách Ô Châu cận lục của Dương Văn An đã ghi lại cuộc sống của người dân ở đây: “non sông kỳ tú, ruộng đất mở mang, nhân dân đông đúc, thực là nơi đô hội lớn của một phương, cảnh tượng vui vẽ, phong vật quý giá”.

      – Về văn hoá, xã hội:Do đặcđiểm tự nhiên và lịch sử hình thành,văn hoá Thị xã Quảng Trị nằm ở dải đất hội tụ hai phong cách văn hoá Việt và Chàm. Cùng với sự thông thương đường bộ, đường thuỷ, đời sống văn hoá ở đây khá phong phú và đa dạng. Nhiều làn điệu dân ca như hò, vè, đồng dao mang đậm sắc thái dân gian. Đặc biệt là hò Như lệ đã trở thành một di sản văn hoá phi vật thể của quê hương Quảng trị. Các phong tục tập quán, lễ nghi của văn hoá Việt được bảo tồn khá rõ nét. Quốc sử quán Triều Nguyễn trong bộ Đại Nam nhất thống chí đãghi: “Tế lễ vào mùa xuân, mùa thu. Ngày rằm các tháng giêng, tháng bảy, tháng mười gọi là tam nguyên, các gia đình đều cúng tổ tiên ông bà”.

     Thị xã Quảng Trị có nhiều di tích lịch sử, văn hoá như miếu Thành Hoàng, đền Xã Tắc của đạo Quảng Trị dựng ở Thạch Hãn, đền Văn thánh ở An đôn, Nghĩa Trũng; đặc biệt là toà Thành Cổ bằng gạch kiên cố, dinh luỹ của chế độ phong kiến còn để lại- đánh dấu công trình xây bằng mồ hôi và máu của bao kiếp đời dân nô lệ. Thành Cổ sau này đã gắn liền với chiến công hiển hách 81 ngày đêm lịch sử của quân và dân ta trong chiến dịch xuân hè-1972, làm nức lòng nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế. 

     Về tôn giáo, với vị trí địa lý thuận lợi, các tôn giáo như đạo Khổng, đạo Phật, Thiên Chúa có mặt khá sớm ở thị xã Quảng Trị. Sự hiện diện của các tôn giáo góp phần làm cho đời sống tinh thần của nhân dân thêm đa dạng và phong phú.

II- TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH ANH HÙNG BẤT KHUẤT CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN THỊ Xà

     1. Nêu cao truyền thống chống giặc ngoại xâm, không cam chịu thân phận nô lệ, nhân dân thị xã Quảng Trị tích cực hưởng ứng các phong trào yêu nước, nhiều cuộc đấu tranh cứu nước đã nổ ra trên mãnh đất thị xã Quảng Trị:

    Trước khi Đảng Cộng sản Vệt Nam ra đời, dưới ách thống trị của chế độ phong kiến và sự xâm lược của bọn phong kiến phương Bắc, nhân dân thị xã Quảng Trị đã đứng lên tham gia các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Mai Thúc Loan, Trần Quý Khoáng, Lê Lợi, Nguyễn Huệ. Đặc biệt là đã tham gia cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Đặng Tất, Đặng Dung chống lại nhà Minh xâm lược tại vùng đất Thuận Hoá trong những ngày đầu khi quân Minh kéo vào xâm lược nước ta.

     Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, nhân dân thị xã Quảng Trị đã hưởng ứng các phong trào Cần Vương, Đông Du, Duy Tân, phong trào chống đi phu, chống sưu thuế, phong trào Việt Nam Quang Phục Hội…

       Thị xã Quảng trị – mảnh đất giàu truyền thống đấu tranh cũng là nơi đầu tiên tiếp nhận ánh sáng Cách mạng Tháng mười Nga (năm 1917), tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc – Người cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Những tư tưởng cách mạng đó đã làm thay đổi nhận thức về đường lối cứu nước của những người yêu nước tại thị xã Quảng Trị dẫn đến việc thành lập nhóm Việt Nam Độc lập Đảng vào tháng 6/1925, với “mục tiêu làm cách mạng dân tộc, dân chủ, tìm bắt liên lạc với tổ chức cách mạng ở các nơi khác, tìm đọc sách báo tiến bộ”

      Sau khi liên lạc được với đại diện Tổng bộ Thanh niên, hầu hết các thành viên trong nhóm Việt Nam Độc lập Đảng đều tán thành chuyển sang tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên- tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam vào tháng 10/1926.

     Phong trào đấu tranh của tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở thị xã Quảng Trị phát triển theo con đường cách mạng vô sản trong những năm 1926-1929 đã tạo nền tảng vững chắc cho cho sự thành lập Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Trị vào tháng 4-1930.

     2.  Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng bộ và nhân dân thị xã Quảng Trị phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, kiên cường bất khất trong hai cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại của dân tộc, giành những thắng lợi vẽ vang.

     – Không chịu khuất phục trước sự đàn áp của kẻ thù, dưới sự lãnh dạo của Tỉnh uỷ, nhân dân thị xã Quảng Trị đoàn kết xung quanh Đảng, bền bỉ, kiên cường nổi dậy dấu trang tranh giành chính quyền thắng lợi (1930-1945):

 Sau ngày Đảng bộ Quảng Trị được thành lập, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, cán bộ, đảng viên của thị xã Quảng Trị đã quán triệt đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, nêu cao tư tưởng cách mạng tiến công, phát động nhân dân, trước hết là nhân dân lao động thị xã, đứng lên đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ, “lấy những sự nhu yếu hàng ngày làm bước đầu mà dắt vô sản giai cấp và dân cày ra chiến trường cách mạng” trong cao trào cách mạng 1930-1931.

     Trong những năm 1932-1935, hoạt động của một số đảng viên của ta ở nhà lao Quảng Trị đã biết lợi dụng những ngày tháng ở từ hội họp để học văn hóa lý luận…việc làm này đã tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhiều tù nhân ở nhà lao Quảng Trị chưa phải là đảng viên Cộng sản, một số người nhận ra chân lý, về sau đã gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam. Qua rèn luyện và thử thách trong nhà lao, một số cán bộ tốt được đào tạo và vượt ngục ra ngoài công tác. Sự kiện đó đã có tác dụng tạo dư luận tốt về những người cộng sản, tiếp sức cho một số tổ chức cơ sở Đảng ở Quảng Trị lúc đó, mặc dù đang bị địch khủng bố dữ dội, vẫn kiên cường bắm chắc quần chúng hoạt động. Cơ sở cách mạng ở địa bàn thị xã cùng với các nơi khác vẫn tồn tại và phát triển cho đến thời kỳ 1936 – 1939.

     Hòa nhập với phong trào cách mạng của cả tỉnh trong những năm 1936-1939, các tầng lớp nhân dân thị xã Quảng trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã tổ chức ra các Hội quần chúng công khai và nửa công khai như: Hội Ái Hữu, Hội thể thao, Hội truyền bá quốc ngữ, lập đại lý sách báo, vận động mua sách báo công khai…Cuộc vận động dân chủ 1936-1939 ở thị xã Quảng Trị đã giành được nhiều kết quả to lớn. Thắng lợi đó tạo ra lực lượng mới và trận địa mới cho cao trào 1939-1945.

     Thời kỳ 1939-1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng thị xã chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ công khai trong những năm 1936-1939 sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chủ nghĩa đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật, bất hợp pháp, chuẩn bị điều kiện để tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Khi thời cơ đến, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân thị xã nhất tề đứng lên cùng toàn tỉnh như “triều dâng thác đổ”, đập tan chính quyền Bảo Đại – Trần Trọng Kim, thành lập chính quyền cách mạng tỉnh vào ngày 23-8-1945.

     Kế hoạch khởi nghĩa ở thị xã tỉnh lỵ Quảng Trị diễn ra nhanh gọn, không đổ máu đã nói lên đường lối đúng đắn của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; khẳng định Đảng bộ đã vận dụng đường lối của Đảng vào địa phương của mình một cách khéo léo, kịp thời, làm tốt công tác vận động quần chúng, trong đó có sự đóng góp xứng đáng của cán bộ, đảng viên và quần chúng yêu nước thị xã Quảng Trị. Thắng lợi đó cùng với sự nghiệp cách mạng chung của cả nước, đã góp phần mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam – Kỷ nguyên độc lập, tự do, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

            – Quân và dân thị xã Quảng Trị sát cánh cùng cả nước tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống Thực dân Pháp giành thắng lợi to lớn trên các mặt trận, xây dựng xã hội mới, củng cố chính quyền vững chắc:

       Sau cuộc khởi nghĩa ngày 23/8/1945 ở Thị xã Quảng Trị thắng lợi, uỷ ban cách mạng lâm thời thị xã Quảng Trị được thành lập, bắt tay vào xây dựng chế độ mới, các tổ chức cách mạng của nhân dân và mọi lĩnh vực kinh tế- xã hội, an ninh -quốc phòng ra đời…Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ về phong trào “Diệt giặc đói, giặc dốt”, chỉ trong vòng 9 tháng, nhân dân trong độ tuổi đều biết đọc, biết viết, cử tri đã tự tay mình viết phiếu bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Vì vậy năm 1948, Thị xã Quảng Trị được Hội đồng Chính phủ tặng cờ luân lưu Hạng nhất toàn quốc về phong trào bình dân học vụ. Với phong trào “hũ gạo tiết kiệm”, “tuần lễ vàng”, quân và dân Thị xã Quảng Trị đã tích cực lao động, sản xuất đẩy lùi nạn đói, ổn định đời sống. Thị xã Quảng Trị đã quyên góp được 33 lạng vàng, 45 lạng bạc, 8 tấn đồng…cho cách mạng.

      Song song với nhiệm vụ xây dựng chế độ mới, Thị xã Quảng Trị còn chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang để bảo vệ chính quyền. Thị xã đã xây dựng được 1 đơn vị dân quân thường trực gồm 35 đồng chí, các cơ quan, công sở đều thành lập đội tự vệ chiến đấu, tổng cộng 147 đồng chí, chuẩn bị tinh thần và lực lượng cho cuộc chiến đấu mới.

      Ngày 16/2/1947, thực dân Pháp bắt đầu tiến công quyết liệt vào thị xã Quảng Trị, lực lượng dân quân du kích đã phối hợp với bộ đội ngoan cường, dũng cảm, bẻ gãy hàng chục cuộc tiến công của địch, diệt hơn 200 tên và làm bị thương hàng trăm tên khác, thu 8 khẩu súng, phá hỏng 5 xe cơ giới. Với thắng lợi này, đã góp phần cũng cố lòng tin đối với Đảng, động viên khích lệ bộ đội, tự vệ vượt qua khó khăn, ác liệt, bám đất, bám dân, tiêu hao sinh lực địch.

       Sau khi thực dân Pháp chiếm được Quảng Trị, quân và dân Thị xã bước vào cuộc chiến tranh du kích, toàn dân, toàn diện, kháng chiến trường kì. Mặc dầu bị kìm kẹp, khủng bố gắt gao, nhưng nhân dân Thị xã vẫn một lòng hướng về cách mạng, cương quyết “không đi lính cho Pháp”, “không hợp tác với Pháp”, “đoàn kết để diệt thực dân Pháp”. 

     Quân và dân Thị xã vừa chiến đấu, vừa xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức của Đảng và cơ sở cách mạng. Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cách mạng, tháng 9/1949, tỉnh uỷ ra quyết định thành lập thị uỷ thị xã Quảng trị gồm 9 uỷ viên, do đồng chí Phan Hào làm Bí thư kiêm chủ tịch UB kháng chiến hành chính thị xã.

     Cán bộ, đảng viên của thị xã Quảng Trị và mặt trận Liên Việt bám sát được địa bàn nội thị để xây dựng lực lượng, tuyên truyền đường lối, chính sách của cách mạng, giác ngộ quần chúng nhân dân, củng cố cơ sở.

     Trải qua 9 năm kháng chiến biết bao gian khổ hy sinh, thử thách, có lúc rất gay go, quyết liệt tưởng chừng như không thể vượt qua được. Song, Đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân thị xã Quảng Trị vẫn giữ vững bản lĩnh chính trị, gương mẫu chịu đựng mọi gian khổ, khó khăn, kiên trì bám đất, bám dân, ngày đêm lăn lộn xây dựng và củng cố cơ sở chính trị và LLVT, tổ chức chính quyền, tiến hành chiến tranh du kích giết giặc, phá tề, trừ gian, chống phá âm mưu bình định của địch. Nhân dân thị xã Quảng Trị đã làm hết sức mình cùng đánh giặc với dân quân du kích, cưu mang đùm bọc LLVT trong tình “ cá nước”, quân và dân thị xã Quảng Trị đã phối hợp đánh 33 trận, chủ động đánh nhỏ 41 trận, diệt và làm bị thương 237 tên, trong đó lính Pháp và Âu Phi 72 tên, 1 quan 5 Pháp, phá huỷ 21 xe quân sự (trong đó 2 xe tăng), phá sập 2 cầu; thu 97 súng các loại( có 7 khẩu cối, 14 trung liên).

     Đảng bộ thị xã Quảng Trị đã khéo kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, kinh tế, binh- địch vận bằng tất cả những hình thức phong phú, thực hiện tốt khẩu hiệu “ toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến”. Do đó đã tạo nên sức mạnh tổng hợp trong thế trận chiến tranh nhân dân, đã giải tán 7 ban tề ngụy, vận động 82 lính ra hàng, đấu tranh chính trị với 3 cuộc biểu tình, thị uy trên 500 lượt người tham gia. Đã quyên góp ủng hộ cho kháng chiến 1,5 triệu đồng, 13 tấn lúa, 9000 lượt người đi dân công.

          – Đi vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, Quân và dân thị xã Quảng Trị trải qua nhiều gian khổ, hy sinh, kiên cường, bất khuất cùng cả nước chiến đấu anh dũng, giành nhiều thắng lợi vẽ vang, góp phần làm nên đại thắng mùa xuân lịch sử ( 30/4/1975):

      Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi, buộc thực dân Pháp phải ký hiệp định Giơnevơ và cùng các nước dự hội nghị Giơnevơ ký tuyên bố cuối cùng, trong đó thừa nhận về nguyên tắc sự độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Song, với dã tâm xâm lược, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, đế quốc Mỹ đã dựng lên ở miền Nam một chính quyền tay sai với bộ máy khổng lồ để hòng đàn áp cách mạng miền Nam và xây dựng hậu cứ để tấn công miền Bắc XHCN. Nhân dân miền Nam lại lên đường vào trận để tiếp tục cuộc trường chinh cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

     Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam trở thành cuộc đối đầu đầu lịch sử giữa 2 thế lực cách mạng và phản cách mạng. Tỉnh Quảng Trị trở thành địa bàn đặc biệt quan trọng, là chiến trường hết sức khốc liệt trong cuộc chiến tranh. Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai tập trung nơi đây một lực lượng quân sự khổng lồ với hàng chục sư đoàn Mỹ, ngụy và quân chư hầu, quân số có khi lên tới hàng chục vạn tên với trang bị phương tiện chiến tranh hiện đại, tối tân nhất, hòng ngăn chặn chi viện của Miền Bắc đối với chiến trường Miền Nam. Riêng ở thị xã Quảng Trị, từ năm 1954 đến năm 1975, là Trung tâm hành chính của Tỉnh Quảng Trị nên Mỹ, ngụy đã tập trung xây dựng một bộ máy chiến tranh cực kỳ phản động, bao gồm các cơ quan đầu não cấp tỉnh để kìm kẹp một tỉnh “địa đầu giới tuyến”. Lực lượng cảnh sát, biệt động, bảo an, dân vệ, sư đoàn 1 nguỵ, cố vấn Mỹ, 11 cơ quan tình báo đặc nhiệm. Mãnh đất Thị xã nhỏ bé chứa đựng bộ máy chiến tranh với tất cả các loại vũ khí, trang thiết bị hiện đại (trừ vũ khí hạt nhân) và là đầu não để bày mưu, tính kế nghiên cứu cách đánh phá phong trào cách mạng ở khu vực hai bờ giới tuyến và cả đối với miền Bắc XHCN.

     Thử thách đối với quân và dân Thị xã Quảng Trị là hết sức nặng nề. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ, quân và dân  Thị xã quyết không nề hà gian khổ hy sinh, cùng với cả nước bước vào cuộc chiến tranh lâu dài, khốc liệt, quả cảm chống lại kẻ thù vô cùng phản động và nguy hiểm để giải phóng Miền Nam thống nhất Tổ quốc.

     Từ những năm 1955 đến năm 1959 Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm đã điên cuồng mở các chiến dịch “Tố cộng”, diệt cộng, sử dụng luật 10-59 nhằm bóp chẹt phong trào cách mạng của nhân dân ta. Phong trào cách mạng của nhân dân thị xã Quảng Trị vô cùng khó khăn. Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, mặc dù trong muôn vàn khó khăn, dưới sự kìm kẹp của Mỹ Nguỵ, tháng 3/1955, tỉnh uỷ quyết định lập lại thị uỷ Quảng trị gồm 03 thị uỷ viên (thị uỷ đã giải thể vào giữa năm 1953). Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, Thị uỷ Quảng Trị, nhân dân nội thị cùng với nhân dân vùng ven tổ chức 9 cuộc đấu tranh với hơn 700 lượt người, đòi chúng phải thi hành các khoản về đình chiến, chống khủng bố, chống trả thù những người kháng chiến củ, đấu tranh để được tự do đi lại làm ăn đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước.

     Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã Quảng Trị, từ năm 1960- 1972, phong trào đấu tranh đô thị, đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, phá hậu phương của địch, tiến công và nổi dậy giải phóng quê hương  liên tiếp diễn ra. Tiêu biểu là các phong trào đấu tranh của nhân dân, học sinh, sinh viên, giáo chức, tiểu thương và đồng bào phật giáo ở Thị xã chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Nổi bật là cuộc hành lễ của trên 600 phật tử tập trung tại bãi cát Nhan Biều (trước mặt toà Công sứ củ) và hưởng ứng tuyên bố của Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam về việc kêu gọi nhân dân cả nước và thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh của đồng bào phật giáo. Sau đó, ngày 1/6/1963, hơn 9.000 đồng bào phật giáo các khuôn hội trong Tỉnh tập trung tại chùa Tỉnh Hội ở thị xã tổ chức lễ cầu siêu cho các tăng ni phật tử bị Mỹ Diệm giết hại. 12 giờ trưa cùng ngày, 3.000 nam nữ thanh niên phật tử và nhân dân biểu tình, trao kiến nghị trước dinh Tỉnh trưởng Ngụy, buộc tên Tỉnh trưởng phải giải quyết mọi yêu sách của đoàn biểu tình đưa ra. Ngày 25/8/1964, hơn 1 vạn nhân dân Thị xã và vùng ven kéo theo sự tham gia của một số binh lính ngụy, tổ chức tiến hành biểu tình chống Mỹ – Khánh, làm cho địch vô cùng hoang mang lo sợ. Ngày 04/1/1965, 1.000 học sinh trường Nguyễn Hoàng mít tin bãi khoá, tuyệt thực chống chế độ độc tài Khánh- Hương. Ngày 25/1/1965, 300 công chức ngụy quyền cấp tỉnh đình công 20 giờ làm việc làm tê liệt bộ máy ngụy quyền tỉnh Quảng Trị….Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh chính trị, để dẫn đường cho phong trào cách mạng, tháng 10/1964, thị uỷ Quảng trị được lập lại (Do giải thể năm 1957)

     Để hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị, Thị uỷ Quảng Trị đã thành lập một đơn vị LLVT khoảng 30 đồng chí cán bộ, chiến sỹ để đẩy mạnh hoạt động vũ trang nội thị. Sau khi được thành lập, đội công tác Thị xã phối hợp với lực lượng vũ trang tỉnh tổ chức trận pháo kích vào dinh tỉnh trưởng và sở chỉ huy tiểu khu quân sự làm bị thương nhiều tên địch; cuộc tiến công vào thị xã giải phóng nhà lao đêm mồng 5 rạng ngày 6-4-1967, giải phóng 260 đồng chí bị giặc bắt giam cầm tại nhà lao Quảng Trị. Chiến thắng này đã làm nức lòng cán bộ, chiến sỹ, củng cố thêm niềm tin vào thắng lợi cách mạng.

     Thực hiện chủ trương của cấp trên, ngày 01/7/1967, thị uỷ Quảng- Hà được thành lập bao gồm thị xã Quảng trị, thị trấn Đông hà và 5 xã vùng ven là Triệu Ái, Triệu Giang, Triệu Thượng, Triệu Lương, Triệu Lễ. Sự thành lập thị xã Quảng Hà tạo thế và lực mới cho Đảng bộ và nhân dân thị xã vững vàng thế trận, bước vào giai đoạn mới của cuộc kháng chiến đầy oanh liệt. Tuy nhiên, do tình hình thay đổi, cuối năm 1969, tỉnh uỷ lại tách thị xã Quảng Hà, lập lại thị uỷ Quảng trị gồm 11 đ/c.

     Trong 3 tháng đầu năm 1970, lực lượng biệt động vũ trang thị xã Quảng Trị phối hợp với bộ đội và du kích phát hiện các tổ chức phản động, ác ôn, kịp thời trừng trị 7 tên Mỹ, trong đó có 1 tên cố vấn Tiểu khu Quảng Trị và 27 tên ác ôn bình định, cũng trong thời gian này LLVT địa phương đã rãi 5.000 truyền đơn kêu gọi nguỵ quân trở về với cách mạng.

     Để chuẩn bị cho cuộc tấn công và nổi dậy, trước tình thế cách mạng mới, tỉnh uỷ đã đề nghị cấp trên cho thành lập lại thị xã Quảng Hà bao gồm thị xã Quảng trị, thị trấn Đông hà và 5 xã vùng ven là Triệu Ái, Triệu Giang, Triệu Thượng, Triệu lương, Triệu lễ.

     Đầu năm 1972, thực hiện chủ trương của trung ương, quân và dân thị xã cùng với cả tỉnh Quảng trị nhất tề đứng dậy, hợp cùng bộ đội chủ lực thực hiện cuộc tiến công chiến lược, giải phóng thị xã và toàn tỉnh Quảng trị vào ngày 1-5-1972.

     Cay cú vì bị mất Quảng trị, Mỹ Nguỵ quyết định mở cuộc hành quân tái chiếm Quảng trị lấy tên “Lam sơn 72”. Với kế hoạch này, chúng hy vọng sẽ lấy lại được tinh thần, xoá bỏ tâm lý thất bại trong nguỵ quân, đồng thời gây sức ép với ta tại bàn hội nghị Pa-ri. Để đánh chiếm được Thành cổ Quảng trị, Mỹ Nguỵ đã huy động một lực lượng quân sự hùng hậu và tinh nhuệ nhất gồm 04 sư đoàn thiện chiến, trong đó có 2 sư đoàn “Thiên thần mũ đỏ” (sư dù) và “Cọp biển” (lính thuỷ đánh bộ) với lực lượng tương đương 17 trung đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo binh, 5 thiết đoàn và nhiều đơn vị không quân pháo hạm Mỹ hổ trợ cho cuộc tái chiếm cùng với hàng ngàn tấn vũ khí các loại. Có thể nói trong lịch sử chiến tranh, chưa có một chiến trường nào mà với một địa bàn chưa đầy 3km2 mà quân địch đã sử dụng một lượng bom đạn khổng lồ như ở thị xã Quảng trị. Số lượng bom đạn mà Mỹ Nguỵ đã trút xuống địa bàn thị xã Quảng trị được tính bằng sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Hirôsima của Nhật bản trong thế chiến thứ II.

     Cùng với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích vùng ven, quân và dân Thị xã kiên cường bám trụ, chốt giữ Thành Cổ, phản công chặn đánh địch trên các hướng vào Thành Cổ, giáng trả cho địch những đòn đích đáng. Cuộc chiến đấu của quân và dân Quảng trị chốt giữ thị xã và Thành cổ diễn ra vô cùng gay go ác liệt. Trong 81 ngày đêm chiến đấu oanh liệt bảo về Thành cổ, dưới mưa bom bảo đạn, quân và dân thị xã đã cùng bộ đội, du kích, quân chủ lực đã đánh hàng trăm trận lớn nhỏ, quyết liệt và đẫm máu để bảo vệ Thành cổ, bẻ gãy nhiều cuộc tấn công của địch. Trải qua 81 ngày đêm (28/6/1972 đến 16/9/1972) liên tục chiến đấu, các chiến sỹ trên mặt trận Thành cổ đã vượt qua muôn và khó khăn gian khổ, hy sinh (mỗi ngày trung bình hy sinh một đại đội) cùng với quân và dân Quảng trị đã giữ vững thị xã và các vùng mới giải phóng, phá tan âm mưu “đánh chiếm thị xã Quảng trị trước mùa mưa” nhằm thực hiện ý đồ chính trị và ngoại giao của Mỹ Nguỵ

     Chiến công của 81 ngày đêm bảo vệ Thành Cổ đã ghi vào lịch sử chiến tranh cách mạng Việt Nam những chiến tích hào hùng đầy máu lửa. Chiến công đó là bản hùng ca về tinh thần quả cảm, về ý chí và sức mạnh, xã thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc của quân và dân cả nước cũng như quân và dân thị xã Quảng Trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, góp phần đánh bại Chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh“, chấm dứt cuộc chiến tranh phá hoại Miền Bắc lần thứ 2, buộc Mỹ ngụy phải hội đàm ký kết hiệp định Pa-ri, rút quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi Miềm Nam.

 Phát huy truyền thống Thành Cổ anh hùng, quân và dân Thị xã bền bĩ ngoan cường chiến đấu, bước tiếp cuộc hành trình kháng chiến cùng cả nước đi đến ngày toàn thắng vào mùa xuân năm 1975.

     Tổng kết 20 năm chống Mỹ, quân và dân thị xã Quảng Trị đã phối hợp với bộ đội chủ lực đánh 117 trận; chủ động đánh nhỏ 146 trận, diệt và làm bị thương gần 30 nghìn tên địch, trong đó có gần 400 tên Mỹ và chư hầu, bắn rơi 214 máy bay, bắn cháy 350 xe quân sự, hơn 250 đại bác. Vận động hơn 1.000 lính ra hàng, bắt sống 15 lính Mỹ. Nhân dân đóng góp 95 chiếc thuyền, 2.500 ngày công phục vụ cho chiến dịch 81 ngày đêm ở Thành Cổ, đào 1.650 hầm bí mật, hầm trú ẩn, nhường 1.742 ngôi nhà cho bộ đội và dân quân du kích ở.

     Sự hy sinh cao cả và những đóng góp quan trọng của đảng bộ, quân và dân của thị xã Quảng trị được Đảng và Nhà nước ghi nhận:  16 bà mẹ được phong tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, lực lượng an ninh thị xã Quảng Hà được tặng thưởng danh hiệu anh hùng LLVT nhân dân, 3 đồng chí được tuyên dương anh hùng LLVT. Nhà nước tặng thưởng cho quân và dân Thị xã nhiều huân chương, bằng khen các loại. Với thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ngày 23 tháng 5 năm 2005, Chủ tịch nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dâncho Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân thị xã Quảng Trị. Đó là nguồn cổ vũ động viên to lớn đồng thời cũng là trách nhiệm nặng nề đối với Đảng bộ, quân và dân thị xã Quảng Trị trong việc phát huy truyền thống anh hùng cách mạng, tiếp tục công cuộc đổi mới xây dựng quê hương.

III. THỊ XÃ QUẢNG TRỊ  20 NĂM ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN. 

       1. Nêu cao ý chí cách mạng kiên cường, Đảng bộ và nhân dân thị xã tập trung mọi nguồn lực, ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế xã hội,  bộ mặt đô thị từng bước đổi mới khởi sắc

      Sau ngày giải phóng, Thị xã Quảng Trị là mảnh đất bị san bằng, huỷ diệt, ruộng đồng hoang hoá, đầy rẫy hố bom và dày đặc bom mìn của địch nằm sâu trong lòng đất. Nhân dân từ các nơi sơ tán trở về với 2 bàn tay trắng, nhà cửa, phố phường tan hoang, chỉ còn sức dân quá mệt mỏi và đau thương do chiến tranh để lại. Được sự quan tâm của cả nước, của tỉnh, phát huy truyền thống anh hùng trong chiến đấu quân và dân thị xã Quảng Trị đã vượt lên mọi khó khăn tái tạo lại cuộc sống, bắt đầu chiến dịch rà phá bom mìn, Ban chỉ huy quân sự Thị xã đã thành lập 11 trung đội dân quân, tổ chức tập huấn 7 lớp kỹ thuật rà phá, tháo gỡ bom mìn. Chỉ trong 2 năm đã thu hồi được 6,5 triệu quả bom mìn, đạn các loại, giải phóng 23.000m2 đất. Trong khi làm nhiệm vụ tháo gỡ bom mìn và khai hoang phục hoá lao động sản xuất đã có 50 người hi sinh và hàng chục người bị thương tật. Dẫn đầu phong trào đó, Thị xã Quảng Trị là địa phương được Bộ Tư lệnh Quân khu IV tặng cờ “ Đơn vị xuất sắc rà phá bom mìn”.

Những năm đầu gian khổ hoà mình trong lòng Triệu-Hải, cán bộ và nhân dân thị xã đã đồng sức đồng lòng, đoàn kết nhất trí, phát huy truyền thống anh hùng chung tay góp sức hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng lại quê hương ngày thêm giàu đẹp.

       2. Trải qua 20 năm phấn dấu xây dựng và trưởng thành, Đảng bộ và nhân dân Thị xã Quảng Trị đạt được những thành tựu to lớn và đáng tự hào trên các lĩnh vực đời sống xã hội: 

      Sau 20 năm kể từ ngày thị xã thành lập lại, trong bối cảnh và tình hình phức tạp, khó khăn, nêu cao tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực tự cường, Đảng bộ thị xã đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp sát hợp với tình hình địa phương, tạo được bước chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội của thị xã, giành được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, VH-XH và ANQP:

       2.1. Nền kinh tế có bước phát triển mới quan trọng, các chỉ tiêu kề hoạch đề ra hàng năm đề tăng, nhiều công trình kinh tế – xã hội đã phát huy  hiệu quả cao.

      – Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển mạnh mẽ. Nhờ có những chủ trương đúng đắn trong phát triển CT-TTCN, các cơ sở công nghiệp quốc doanh đã có những chuyển động tích cực, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp tục phát triển; kinh tế tư nhân, cá thể, hộ gia đình phát triển khá mạnh góp phần đa dạng hóa sản phẩm và giải quyết việc làm cho người lao động. Từ chổ giá trị sản xuất CN-TTCN năm 1990 chỉ đạt 3,4 tỷ động, đến năm 2008 tăng lên 59 tỷ đồng. Các ngành phát triển khá và có sức cạnh tranh trên thị trường như: Cơ khí, cán thép, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông sản, may mặc…

     – Thương mại – dịch vụ góp phần lớn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Với vị trí là trung tâm văn hóa kinh tế khu vực phía Nam của tỉnh, do đó sau ngày thành lập lại thị xã, chợ thị xã Quảng Trị được đầu tư xây dựng, sắp xếp bố trí lại lô quầy, với 20 ngành hàng cho trên 1.000 hộ kinh doanh tạo việc làm thu nhập ổn định cho người lao động. Qua 20 năm xây dựng và phát triển, các hoạt động kinh doanh đã vươn dài theo các trục đường giao thông quan trọng, các địa bàn dân cư.

     Doanh số bán ra hàng năm đều tăng, hàng hóa phong phú, đa dạng đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân thị xã và các vùng lân cận.Tổng giá trị hàng hóa bán lẻ tăng từ 6 tỷ đồng năm 1990 lên 296,7 tỷ đồng năm 2008.

     – Sản xuất nông nghiệp đã có sự chuyển biến rõ rệt, nhất là sau khi thực hiện Nghị định 31 của chính phủ về việc mở rộng địa giới hành chính thị xã. Năng xuất lúa bình quân tăng từ 34,5 tạ/ha/vụ (năm 1990) lên 51,3 tạ/ha/vụ (năm 2008). Tổng sản lượng lương thực 1990 đạt 617 tấn đến năm 2008 đạt 1.707 tấn. Diện tích sản xuất lúa ổn định, đã có sự quan tâm hơn đến năng suất và chất lượng lúa. Diện tích trồng rau, đậu có xu hướng tăng, diện tích trồng cây thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày được mở rộng. Chăn nuôi phát triển đúng hướng và ngày càng chiếm tỷ trong cao trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp của thị xã. Sản lượng khai thác, nuôi trồng thủy sản cũng tăng khá, năm 1995 đạt 15 tấn đến năm 2008 đạt 174 tấn.

     – Công tác thu chi ngân sách có nhiều tiến bộ, kết quả thu năm sau cao hơn năm trước, tổng thu từ 495 triệu đồng năm 1990 lên 41.504 triệu đồng năm 2008. Chi ngân sách cơ bản đảm bảo cho các nhu cầu thiết yếu của nhiệm vụ kinh tế – xã hội, QPAN; tỷ trọng chi ngân sách đã ưu tiên cho phát triển kinh tế. Công tác quản lý tài chính chặt chẽ hơn, hoạt động ngân hàng, tài chính tín dụng lành mạnh và có hiệu quả. Ngân hàng đã chuyển đổi phương thức kinh doanh, huy động nguồn vốn tăng nhanh hàng năm, đáp ứng được nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.

     – Xây dựng cơ sở hạ tầng đạt được kết quả đáng kể, 20 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền các cấp, các cơ quan, đơn vị đã chủ động tích cực khai thác các nguồn vốn đầu tư của tỉnh, trung ương để xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị. Nhiều công trình quan trọng được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng góp phần thúc kinh tế – xã hội phát triển, làm thay đổi bộ mặt đô thị như cao tầng hóa trường học; cơ sở y tế, kè bờ sông Thạch hãn, giao thông đô thị…Công tác quản lý đô thị được chấn chỉnh, từng bước đi vào hoạt động có hiệu quả. Đã hoàn thành điều chỉnh quy hoạch tổng thể, chi tiết của một số khu vực đã được tiếp tục triển khai. Hệ thống giao thông được nâng cấp và mở rộng đảm bảo cho nhân dân đi lại thuận tiện. Điện lưới phát triển mạnh mẽ, 100% nhân dân trên địa bàn đều có điện sinh hoạt và sản xuất, một số trục đường chính đã có điện cao áp. Bưu chính viễn thông được đầu tư xây dựng phục vụ đời sống nhân dân đáp ứng nhu cầu phát triển. Từ những ngày đầu thành lập lại thị xã số lượng máy điện thoại rất ít, qua 20 năm số lượng máy điện thoại cố định trong nhân dân đạt trên 5000 thuê bao.

       2.2. Lĩnh vực văn hóa – xã hội đạt được những tiến bộ quan trọng, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá cơ sở được nhân dân tích cực hưởng hưởng ứng. 

     – Sự nghiệp giáo dục đào tạo được quan tâm chăm lo, chất lượng giáo dục ngày càng nâng cao: Phát huy truyền thống của một vùng đất hiếu học, sự nghiệp nâng cao dân trí, đào tạo nhận lực, bồi dưỡng nhân tài đến nay đã phát triển toàn diện. Quy mô học sinh tăng ở tất cả các ngành học, bậc học. Giáo dục phổ thông năm 1990-1991 có 3.435 học sinh đến năm 2008-2009 có 7374 học sinh.  Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục tăng về số lượng, trưởng thành về chất lượng. Chất lượng giáo dục đã có sự chuyển biến tích cực ở diện đại trà và mũi nhọn. Số lượng học sinh xếp loại khá, giỏi tăng lên hàng năm và đạt nhiều giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh và quốc gia. Thị xã Quảng Trị là địa phương được công nhận đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991, đạt chuẩn quốc gia phổ cập THCS năm 1998 và đến nay cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu của Bộ Giáo dục quy định về phổ cập bậc trung học, đang hoàn thành thủ tục đề nghị công nhận phổ cập bậc trung học. Công tác xã hội hóa giáo dục tiếp tục thực hiện có hiệu quả, các loại hình đào tạo được mở rộng, trường học tường bước được đầu tư xây dựng cơ bản đáp ứng cho việc dạy và học, đến nay có 100% trường học trên địa bàn được kiên cố hóa, cao tầng hóa. Mặt bằng dân trí được nâng lên, nếp sống văn minh đô thị dần được hình thành.

     – Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có những tiến bộ đáng kể. Đã tập trung xây dựng mạng lưới y tế từ thị đến phường. Đến nay đã có 25 cán bộ y tế phường, xã, 32 cán bộ y tế ở trung tâm y tế thị xã, 36 nhân viên sức khỏe cộng đồng. công tác tiêm chủng mở rộng đạt 100% năm. Tỷ lệ các cặp vợ chồng áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại năm 1990 đạt 31%, đến năm 2008 tăng 72,4%. Bệnh viện đa khoa khu vực Triệu Hải, Trung tâm y tế thị xã đã được xây dựng, nâng cấp, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật hiện đại đã đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Ngành y tế cung đã thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia, chương trình y tế chăm sóc sức khỏe ban đầu, huy động được sự tham gia của cộng đồng thực hiện tốt công tác phòng chống bệnh, khống chế được các bệnh nhiễm trùng và ý sinh trùng, kịp thời ngăn chặn, dập tắt dịch bệnh trên địa bàn.

     – Công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em được nâng cao một bước, đã tổ chức thực hiện tốt các quyền cho trẻ em và các chương trình y tế nâng cao sức khỏe dinh dưỡng của trẻ em, trong những năm qua đã chăm sóc cho nhiều em nhỏ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em năm 1994 là 41,2% năm 2008 còn 12,4%. Công tác dân số KHHGĐ đã có sự chuyển biến rõ rệt, năm 2008 tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 0,93%.

     – Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở”, xây dựng “thị xã điển hình văn hóa” đạt được những tiến bộ quan trọng. Đến nay đã có 80% gia đình đạt chuẩn gia đình văn hóa; có 72,9% cơ quan được công nhận đơn vị văn hóa, có 100% khu phố, thôn được công nhận khu phố, làng văn hóa (trừ các khu phố của phường An Đôn mới thành lập). Đến nay đã hoàn tất hồ sơ đề nghị tỉnh công nhận thị xã đạt danh hiệu Thị xã Điển hình văn hóa giai đoạn I. Hoạt động VH-VN – TDTT phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, phong trào rèn luyện TDTT theo gương Bác Hồ được nâng lên và đạt kết quả tốt, góp phần tạo ra những kết quả quan trọng trong đời sống xã hội nói chung, đời sống văn hóa nói riêng. Một số thiết chế văn hóa, cơ sở vất chất kỹ thuật và phương tiện thông tin đại chúng đã được đầu tư và phát triển đáng kể. Nhu cầu hưởng thụ văn hóa, thông tin của nhân dân cơ bản được đáp ứng. Những giá trị đạo đức cách mạng được nuôi dưỡng, tinh thần hiếu học, đạo lý uống nước nhớ nguồn, lối sống trung thực, thủy chung, trọng nghĩa tình luôn được coi trọng. Bản lĩnh kiên cường, dũng cảm, tính cần cù, tinh thần đoàn kết cộng đồng trong lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới được phát huy.

     – Lao động thương binh và xã hội được toàn xã hội quan tâm chăm lo với những hành động thiết thực: Bằng sự phối hợp và lồng ghép các chương trình, hàng năm đã giải quyết việc làm cho nhiều người. Công tác chính sách thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng được thực hiện tốt, phong trào đến ơn đáp nghĩa được nhân dân hưởng ững rộng rãi. Chương trình xóa đói giảm nghèo được triển khai mạnh mẽ, bằng chương trình hành động cụ thể cơ sở hạ tầng cho vùng nghèo đã được quan tâm đầu tư, số hộ giàu và tỷ lệ hộ giàu tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 6,5%.

       2.3.  Quốc phòng – an ninh được tăng cường, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố, chính trị được ổn định, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo,  góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.

      Các phương án phòng thủ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và TTATXH được tăng cường, xây dựng cơ sở và cụm tuyến an toàn làm chủ, nâng cao kỹ năng SSCĐ nên đã tạo được cụm tuyến về an ninh trật tự vững chắc, thực hiện tốt nhiệm vụ tuyển quân, huấn luyện lực lượng và chính sách hậu phương quân đội, phát động sâu rộng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, bảo đảm ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn XH.

       2.4. Vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu quả Quản lý của Nhà nước, hoạt động của Mặt trật và các đoàn thể nhân dân được đổi mới và  tăng cường:

  Công tác xây dựng Đảng: Từ ngày thành lập thị xã, trong bối cảnh quốc tế phức tạp, tình hình trong nước và trong tỉnh có nhiều khó khăn, công tác xây dựng Đảng luôn đượĩnhác định là nhiệm vụ then chốt. Đảng bộ thị xã vừa coi trọng công tác chính trị tư tưởng, bám sát tình hình thực tế của địa phương để đề ra Nghị quyết, chương trình hành động nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiến sản xuất và đời sống, vừa không ngừng nâng cao năng lược lãng đạo và sức chiến đấu của các TCCS Đảng; tăng cường công tác kiểm tra và chấp hành Điền lệ Đảng, ngăn chặn, hạn chế những sai phạm thiếu sót.

     – Công tác chính trị tư tưởng luôn được tăng cường để đảm bảo ổn định về chính trị, thống nhất về tư tưởng và hành động. Chú trọng công tác giáo dục lý luận chính trị, năng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên tạo nên sự đồng tâm nhất trí trong đảng bộ, sự đồng thuận cao trong xã hội.

     – Công tác xây dựng tổ chức đảng được quan tâm. Từ 22 TCCS đảng năm 1990, đến nay đã có 44 TCCS đảng, nhiều TCCS Đảng đạt TSVM nhiều năm liền, vai trò hiệu quả của công tác lãnh, chỉ đạo quản lý điều hành của tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ được nâng lên. Đảng bộ luôn coi trọng công tác phát triển Đảng, số lượng đảng viên kết nạp năm sau cao hơn năm trước, chất lượng đảng viên luôn bảo đảm theo yêu cầu.

     – Công tác kiểm tra được tăng cường, luôn đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, đã kịp thời phát hiện sử lý, uốn nắn ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất những sai phạm của các TCCS Đảng và đảng viên. Giải quyết đúng đắn và kịp thời những vụ việc xảy ra trên địa bàn, đảm bảo sự thống nhất, đoàn kết nội bộ và nâng cao sức lãnh đạo của Đảng.

     Công tác xây dựng chính quyền có nhiều tiến bộ; bộ máy các phòng ban tham mưu giúp việc được củng cố. Công tác cải cách hành chính tiến hành; bộ máy quản lý nhà nước được chú trọng tăng cường. Đã xây dựng được nhiều quy định, quy chế trên nhiều lĩnh vực hoạt động, loại bỏ dần những thủ tục rườm rà.

     Công tác dân vận, Mặt trận và các đoàn thể: đã xây dựng, củng cố tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động nên đã tạo được những chuyển biến mới. Nội dung và nhận thức công tác dân vận đã được đổi mới; Nhiều Cuộc vận động xã hội được triển khai mạnh mẽ, đi vào chiều sâu và có hiệu quả cao như: Phòng trào “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế”, “Nông dân sản xuất giỏi”, “Thanh niên lập nghiệp”, Phong trào “Đến ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” cùng nhiều cuộc vận động lớn như: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở sơ sở”, xoá nhà tạm bợ, dột nát… đã góp phần tích cực vào việc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, động viên mọi lực lượng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước.

     Nhìn bức tranh tổng quát 20 năm xây dựng và phát triển của thị xã, có thể khẳng định rằng nền kinh tế tăng trưởng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được nâng lên, chính trị ổn định, ANQP và TTATXH được giữ vững, tạo đà và thế cho sự phát triển đi lên của thị xã Quảng trị.

     20 năm chưa phải là một chặng đường dài so với lịch sử, những thành tựu mà thị xã Quảng trị đã đạt được trong 20 năm xây dựng và phát triển so với bước tiến chung của cả tỉnh và cả nước chưa phải là lớn, nhưng đối với thị xã Quảng Trị, những gì đã làm được lại có ý nghĩa sâu sắc và toàn diện. Điều đó nói lên sự trưởng thành cuả Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể nhân dân và của mỗi người dân thị xã. Đó là thắng lợi của những định hướng sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của địa phương, là thắng lợi của lòng kiên định trước những thử thách do sự biến đổi nhanh chóng và diến biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, là thắng lợi của sự kiên trì, bền bỉ khắc phục những yếu kém, lạc hậu về cơ sở vật chất, kỹ thuật và nền kinh tế ở trình độ thấp. Đó còn là sự vật lộn đầy cam go để chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu của Đảng bộ, quân và dân thị xã với mục tiêu: xây dựng thị xã Quảng Trị ngày càng văn minh, giàu đẹp, xứng đáng là trung tâm kinh tế- văn hoá phía Nam của tỉnh.

     Từ ngày thị xã Quảng Trị được trở lại với tên gọi của mình, các tầng lớp nhân dân thị xã Quảng Trị càng tự hào với quá khứ bao đời nay gắn bó bên nhau trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, viết nên những thiên anh hùng ca bất hủ. Từ thủa “khai sơn phá thạch” cho đến khi hình thành làng, xã, phố, phường, suốt chiều dài lịch sử đó, con người thị xã luôn trau đức, rèn tài: “trai trọng đức dũng cảm tài lương”, “gái quý nét đoan trang cần kiệm”, đã bền bỉ, kiên cường vật lộn với những thử thách cay nghiệt của thiên tai, địch hoạ, anh hùng bất khuất đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, giành và giữ quyền độc lập tự do, cơm no áo ấm cho dân tộc để hun đúc nên những tính cách tuyệt vời. Đó là những đức tính cần cù, chịu thương, chịu khó trong lao động sản xuất, chất phác, lạc quan trong cuộc sống, tự tin và dũng cảm trước kẻ thù, quyết tâm xây dựng thị xã Quảng trị văn minh, giàu đẹp./.

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây