8 định hướng và nhiệm vụ trọng tâm phát triển kinh tế – xã hội năm 2023

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, bước sang năm 2023, Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức trong việc thực hiện thành công mục tiêu phát triển.

Phát biểu tại phiên toàn thể Diễn đàn Kinh tế Việt Nam lần thứ 5 diễn ra chiều 17/12, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, bước sang năm 2023, Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức trong việc thực hiện thành công mục tiêu phát triển.

Điều này đòi hỏi không chỉ sự nỗ lực, quyết tâm của Việt Nam trong thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đề ra, mà còn cần sự hỗ trợ, giúp đỡ từ cộng đồng quốc tế, các Chính phủ, tổ chức quốc tế, các nhà khoa học, chuyên gia trong và ngoài nước với những ý kiến trao đổi, thảo luận, đóng góp để góp phần giúp Chính phủ thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế-xã hội năm 2023, từng bước hiện thực hóa khát vọng vì một Việt Nam thịnh vượng, phát triển nhanh và bền vững trong thời gian tới.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, để hóa giải, khắc phục những khó khăn, thách thức, giải quyết những điểm nghẽn phát triển của nền kinh tế, tận dụng cơ hội phát triển, huy động tối đa nguồn lực đầu tư toàn xã hội, sự tham gia của người dân, doanh nghiệp đạt mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội năm 2023 và 5 năm (2021-2025) mà Trung ương Đảng, Quốc hội đã đề ra, việc triển khai thực hiện những mô hình kinh tế, xu thế mới cần quyết liệt, tập trung đẩy mạnh và triển khai nhanh hơn các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trong năm 2023 và định hướng lớn trong thời gian tiếp theo.

Thứ nhất, kiên định, nhất quán và bám sát quan điểm, mục tiêu, định hướng chỉ đạo, điều hành của Đảng, Nhà nước; ưu tiên giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; điều hành đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác phù hợp với tốc độ phục hồi nền kinh tế; ổn định nền tảng kinh tế vĩ mô; bảo đảm an sinh xã hội và tạo việc làm cho người lao động; thúc đẩy các động lực tăng trưởng (đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu).

Thứ hai, lấy đổi mới, cải cách, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước. Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực sản xuất…

Thứ ba, tập trung hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, nhất là hạ tầng giao thông; đẩy nhanh tiến độ một số công trình hạ tầng giao thông trọng điểm, quan trọng quốc gia, có tính liên vùng và hạ tầng đô thị lớn, nhất là dự án cao tốc Bắc-Nam phía đông, vành đai 4 Tp. Hà Nội, vành đai 3 Tp. Hồ Chí Minh, các dự án quan trọng, động lực về sân bay, đường sắt, đường thủy…

Thứ tư, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển; chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phong trào khởi nghiệp.

Thứ năm, phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, trong đó đẩy nhanh việc thành lập các trung tâm khởi nghiệp sáng tạo quốc gia; tăng cường liên kết các mạng lưới đổi mới sáng tạo trong và ngoài nước.

Thứ sáu, triển khai thực hiện tốt 6 Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển vùng; ban hành quy chế phối hợp, thể chế liên kết vùng giai đoạn 2021-2030 nhằm phát triển đồng bộ, tạo sự liên kết giữa các vùng, gắn với liên kết các khu vực kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh; xây dựng bộ máy vùng có đủ thẩm quyền, năng lực và nguồn lực để thực hiện hiệu quả vai trò chỉ đạo, điều phối liên kết vùng sớm tạo ra các vùng động lực mới, cực tăng trưởng mới.

Thứ bảy, thực hiện hiệu quả Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội trong năm 2023 để tiếp tục tiết giảm chi phí, hỗ trợ dòng tiền cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy các động lực tăng trưởng; bảo đảm an sinh xã hội và đời sống của người dân, nhất là người lao động, người nghèo, người yếu thế…

Thứ tám, chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường; giữ vững an ninh chính trị; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.

Thu tuong Pham Minh Chinh phat bieu tai Dien dan Kinh te Viet Nam min - 8 định hướng và nhiệm vụ trọng tâm phát triển kinh tế - xã hội năm 2023Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam. Ảnh: Dương Giang-TTXVN

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng khẳng định, bên cạnh việc thực hiện các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trong năm 2023 thì cần tiếp tục thực hiện các định hướng lớn về phát triển bền vững như tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn… để hướng tới nền kinh tế carbon thấp, làm giàu vốn tự nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, xanh hóa sản xuất, xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Đây cũng chính là mục tiêu chiến lược góp phần đẩy lùi những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, hướng tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, cùng với những thay đổi tác động bởi đại dịch COVID-19, tình hình kinh tế thế giới năm 2022 tiếp tục xảy ra những biến động chưa từng có, tác động nhanh, phức tạp, khó lường. Nhiều tổ chức quốc tế đã liên tiếp đưa ra cảnh báo về những rủi ro, thách thức, bất ổn kinh tế toàn cầu; điều chỉnh dự báo hạ thấp tăng trưởng kinh tế thế giới cũng như của nhiều nền kinh tế lớn trong năm 2022 so với những dự báo trước đấy.

Sang năm 2023, dự báo tình hình kinh tế thế giới tiếp tục biến động rất phức tạp, khó lường, thậm chí khó khăn hơn năm 2022. Lạm phát duy trì mức cao trên toàn cầu. Chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất kéo dài đi kèm suy giảm giá trị đồng tiền tại nhiều khu vực và quốc gia làm suy giảm sản xuất của nhiều ngành, lĩnh vực.

Cùng với đó là nguy cơ mất thanh khoản, rủi ro, bất ổn về tài chính, tiền tệ, nợ công, an ninh năng lượng, an ninh lương thực trên toàn cầu gia tăng… sẽ tác động mạnh, kéo dài, trên phạm vi lớn tới hầu hết các quốc gia, nền kinh tế, ngay cả các dự báo lạc quan gần đây nhất cũng thận trọng hơn.

Tư lệnh ngành Kế hoạch và Đầu tư cũng chỉ rõ, nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do hậu quả rất nặng nề của đại dịch COVID-19; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; xung đột quân sự kéo dài; giá dầu thô, lương thực và các hàng hóa cơ bản biến động mạnh và giữ ở mức cao; quan điểm điều hành chính sách của nhiều quốc gia thay đổi, đảo chiều nhanh; thiên tai, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, gây thiệt hại lớn ở nhiều quốc gia.

“Mặc dù, gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng với nền tảng và quá trình phát triển tích cực thời gian qua, năm 2022 Việt Nam tiếp tục đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực; quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên, tính tự chủ được cải thiện; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn; cơ cấu kinh tế tiếp tục dịch chuyển sang chiều sâu, tăng độ mở nền kinh tế, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn”, Bộ trưởng cho biết.

Cùng với đó, khu vực tư nhân đóng góp ngày càng lớn và trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Chính trị-xã hội ổn định, các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại chuyển biến tích cực, niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội tăng lên…, góp phần cải thiện không ngừng đời sống của người dân./.

Thúy Hiền

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây