Giới thiệu khái quát huyện Nghĩa Hành
Huyện Nghĩa Hành là huyện đồng bằng nhưng có địa hình trung du, có nhiều đồi núi, cao ở phía tây, thoải dần về phía đông tương đối bằng phẳng.
TT
|
Xã, thị trấn
|
Đơn vị tính
|
Đất nông nghiệp
|
Đất lâm nghiệp
|
Đất chuyên dùng
|
Đất khu dân cư
|
Đất chưa sử dụng
|
1
|
Chợ Chùa
|
ha
|
440,30
|
0
|
101,50
|
131,26
|
27,09
|
2
|
Hành Thuận
|
ha
|
604,22
|
0
|
101,48
|
45,58
|
22,32
|
3
|
Hành Dũng
|
ha
|
1.086,97
|
1.1440,0
|
135,09
|
58,18
|
200,98
|
4
|
Hành Minh
|
ha
|
533,96
|
169,4
|
88,58
|
40,46
|
36,94
|
5
|
Hành Đức
|
ha
|
671,96
|
325,0
|
128,68
|
380,42
|
60,88
|
6
|
Hành Phước
|
ha
|
856,23
|
238,6
|
152,67
|
62,88
|
146,12
|
7
|
Hành Thịnh
|
ha
|
827,55
|
764,2
|
105,55
|
47,25
|
79,33
|
8
|
Hành Thiện
|
ha
|
609,94
|
1.150,3
|
72,46
|
76,08
|
348,06
|
9
|
Hành Tín Tây
|
ha
|
573,02
|
2.928,2
|
41,72
|
35,24
|
84,52
|
10
|
Hành Tín Đông
|
ha
|
452,91
|
1.907,3
|
86,10
|
34,98
|
611,51
|
11
|
Hành Nhân
|
ha
|
992,53
|
364,8
|
192,62
|
65,75
|
75,09
|
12
|
Hành Trung
|
ha
|
617,08
|
0
|
84,94
|
51,20
|
11,88
|
|
Toàn huyện
|
ha
|
8.266,67
|
9.287,78
|
1.291,39
|
1.029,55
|
1.704,72
|
TT
|
Xã, thị trấn
|
Diện tích (km2)
|
Dân số (người)
|
Mật độ dân số (người/km2)
|
1
|
Chợ Chùa
|
7,55
|
8.838
|
1.170,6
|
2
|
Hành Thuận
|
8,26
|
7.273
|
880,4
|
3
|
Hành Dũng
|
30,39
|
6.656
|
219,0
|
4
|
Hành Minh
|
9,23
|
5.401
|
585,1
|
5
|
Hành Đức
|
16,30
|
9.771
|
599,4
|
6
|
Hành Phước
|
16,59
|
11.946
|
720,0
|
7
|
Hành Thịnh
|
21,12
|
8.649
|
429,9
|
8
|
Hành Thiện
|
25,15
|
6.786
|
269,8
|
9
|
Hành Tín Tây
|
39,25
|
4.499
|
114,6
|
10
|
Hành Tín Đông
|
34,67
|
3.848
|
111,0
|
11
|
Hành Nhân
|
18,73
|
7.855
|
419,4
|
12
|
Hành Trung
|
8,39
|
8.441
|
1.006,0
|
Về truyền thống yêu nước và cách mạng, Nghĩa Hành có nhiều nét đáng chú ý. Nhiều tư liệu cho thấy địa bàn huyện Nghĩa Hành xưa nằm trong vùng căn cứ địa của phong trào Tây Sơn. Nhiều thơ văn, chứng tích như gò Ông Súng, gò Ông Voi (xã Hành Phước), các địa danh như Trường Luyện, Ba Vực, Đình Cương chứng tỏ căn cứ Tây Giang (nằm trên đất Nghĩa Hành), một bộ phận của Tây Sơn tả đạo, có thể là có thật. Đến giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp tấn công chiếm thành Gia Định (1859), Hộ đốc Võ Duy Ninh (người làng Đại An, nay thuộc xã Hành Thuận) cùng những người lính quê ở Nghĩa Hành đã chiến đấu và hy sinh ngay từ những ngày đầu thực dân Pháp xâm lược nước ta. Sau khi kinh đô Huế thất thủ (1885), nhiều người đã tham gia phong trào Cần vương, gia nhập Hương binh do ông Lê Quán chỉ huy, hưởng ứng cuộc khởi nghĩa đánh chiếm thành Quảng Ngãi do chí sĩ Lê Trung Đình lãnh đạo; sau đó, trong phong trào Cần vương do Nguyễn Bá Loan lãnh đạo, Nghĩa Hành trở thành căn cứ của phong trào này (1885 – 1888). Trong phong trào Duy tân và chống sưu thuế (1906 – 1908) do các ông Lê Đình Cẩn (người làng Hòa Vinh, nay thuộc xã Hành Phước), Nguyễn Bá Loan (người huyện Mộ Đức, con đại thần Nguyễn Bá Nghi), Lê Tựu Khiết (người làng An Ba, nay thuộc xã Hành Thịnh) lãnh đạo, Nghĩa Hành là nơi họp kín của các nhà lãnh đạo tại nông trại Tình Phú (nay thuộc xã Hành Minh). Phong trào ở Nghĩa Hành dâng cao rầm rộ, quần chúng bắt viên Tri huyện đóng cũi khiêng về tỉnh thành Quảng Ngãi và ra yêu sách với bọn thực dân, phong kiến. Trong phong trào Việt Nam Quang phục Hội, người dân Nghĩa Hành đã tham gia cuộc vận động khởi nghĩa Duy tân 1916 do các ông Nguyễn Công Mậu, Nguyễn Công Phương(3), Lê Triết lãnh đạo ở địa phương.
Từ năm 1927, đã có nhiều người Nghĩa Hành tìm hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối giải phóng dân tộc do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vạch ra. Năm 1930, nhà yêu nước nổi tiếng Nguyễn Công Phương được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhờ sự tích cực vận động của ông, nhiều người khác đã giác ngộ cách mạng, được kết nạp vào Đảng. Chi bộ rồi Đảng bộ huyện Nghĩa Hành được thành lập, kịp thời lãnh đạo nhân dân trong huyện bắt nhịp với phong trào cách mạng trong tỉnh, từ phong trào 1930 – 1931 đến các cao trào cách mạng 1936 – 1939 và 1939 – 1945 đều được chắp nối liên tục. Vai trò của Nguyễn Công Phương đối với phong trào cách mạng ở Nghĩa Hành và cả tỉnh Quảng Ngãi ngày càng nổi bật. Là một chí sĩ trong phong trào yêu nước Duy tân, Việt Nam Quang phục Hội, Nguyễn Công Phương trở thành đảng viên cộng sản kiên trung. Năm 1930, tại Hội nghị Tỉnh ủy ở Nghĩa Lập (Mộ Đức), ông được cử làm Dự bị Bí thư Tỉnh ủy. Ông xây dựng lại cơ sở Đảng sau khi bị địch đàn áp, đánh phá và trở thành Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi thời kỳ 1935 – 1937. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, Nguyễn Công Phương cùng với nhiều người khác được Tỉnh ủy giao cho việc xây dựng kế hoạch tổng khởi nghĩa ở Quảng Ngãi. Từ kháng chiến chống Pháp về sau, ông là cán bộ cao cấp trong hệ thống chính trị nước ta.
Trong kháng chiến chống Pháp xâm lược, Nghĩa Hành đã dốc sức vào cuộc kháng chiến kiến quốc, trở thành thủ phủ của vùng tự do Liên khu V. Ở đây có trụ sở Ủy ban Kháng chiến Hành chính miền Nam Trung Bộ, nơi đồng chí Phạm Văn Đồng, đại diện của Đảng và Chính phủ ở làm việc. Cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng đã sống, làm việc và mất ở đây. Nghĩa Hành là nơi tập trung nhiều cơ quan của Liên khu V và của tỉnh, các đơn vị quân đội, các trường trung học nổi tiếng như trường Trung học Lê Khiết, trường Trung học Bình dân miền Nam Trung Bộ. Từ khi cuộc kháng chiến chuyển sang tổng phản công, Nghĩa Hành trở thành hậu phương chi viện nhiều sức người, sức của, góp phần đắc lực vào cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi với chiến dịch Bắc Tây Nguyên giải phóng toàn tỉnh Kon Tum đầu năm 1954.
Trong thế giằng co với địch suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng bào, chiến sĩ Nghĩa Hành đã chịu nhiều hy sinh mất mát. Quân địch gây ra nhiều vụ tàn sát dã man ở Nghĩa Hành, như các vụ tàn sát 40 người ở Đề An (Hành Phước), tàn sát 91 người ở địa đạo Hiệp Phổ Nam, tàn sát 63 người ở Khánh Giang – Trường Lệ giữa tháng 4.1969, rải chất độc hóa học khai quang và bắn phá bừa bãi, giết người ở nhiều nơi trong huyện.
Kinh tế Nghĩa Hành cơ bản là kinh tế nông nghiệp. Đến nay tính chất thuần nông còn rất đậm, dù đã có sự chuyển biến khá trên lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Tính ở thời điểm năm 2011, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp (phần lớn là nông nghiệp) là 203.955 triệu đồng (32,50%), công nghiệp – xây dựng là 218.143 triệu đồng (34,76%), thương mại – dịch vụ 105.500 triệu đồng (32,74%). Số dân sống bằng nghề nông là 74.801 người, số lao động nông, lâm, thuỷ sản là 39.087 lao động, chiếm phần lớn số dân và số lao động trong huyện (hơn 9/10).
Về nông nghiệp: Thuở xưa ở địa hạt Nghĩa Hành người dân trồng chủ yếu cây lúa (lúa nước và lúa gieo), ngô (bắp), khoai lang, các loại đậu, mía, dâu, trong vườn nhà thường trồng trầu, cau, ổi, mít, chuối… Ở dọc sông Vệ, sông Văn có những đồng lúa tươi tốt. Sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn viết từ thế kỷ XVIII chép: “Xã Phú Xuân thuộc huyện Bình Sơn và xã Phước Khương thuộc huyện Chương Nghĩa đều ở gần sông, thuỷ thổ tốt, ruộng đồng nhiều, cao và bằng phẳng. Mỗi xã có khoảng một nghìn mẫu ruộng, nên người ta gọi hai xã ấy là “tiểu Đồng Nai””(4). Địa danh Suối Bùn thường chỉ cho thung lũng thuộc các xã Hành Tín, Hành Thiện ngày nay, nổi tiếng về đất đai tươi tốt nhờ phù sa sông Vệ. Người dân ở đây cũng chú ý đến việc chăn nuôi, chủ yếu là trâu, bò, heo, gà, vịt.
Đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, ruộng các hạng ở Nghĩa Hành có 9.718,3 mẫu ta, thổ các hạng có 4.504,2 mẫu ta (gần bằng 1/3 tổng diện tích ruộng đất), trong đó chủ yếu là diện tích trồng lúa và trồng mía. Theo Quảng Ngãi tỉnh chí do Nguyễn Bá Trác và các tác giả biên soạn, ở thời điểm 1933 Nghĩa Hành có đất trồng lúa 9.020 mẫu ta (bằng 3.247ha) thu hoạch được 4.822 tấn, đất trồng mía 3.000 mẫu ta (xấp xỉ 1.000ha), cao chỉ sau huyện Tư Nghĩa (7.000 mẫu) và gấp nhiều lần so với các huyện khác. Ngoài ra, ở Nghĩa Hành có 750 mẫu ta trồng khoai, sắn, 400 mẫu trồng bắp, một số diện tích khác trồng đậu, mè, dâu, bo bo. Điều đáng chú ý là do chế độ chiếm hữu ruộng đất bất công và do kỹ thuật canh tác còn lạc hậu, năng suất thấp nên sản lượng chia bình quân đầu người chỉ đủ ăn trong 120 ngày, còn 245 ngày phải ăn khoai, sắn(5).
Trải qua thời kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nông nghiệp ở Nghĩa Hành có một số chuyển biến đáng kể về kỹ thuật canh tác lẫn cây trồng, vật nuôi. Các giống lúa, mía, heo mới du nhập, việc canh tác đã phần nào được cơ giới hóa. Sau năm 1975, trong điều kiện hòa bình, ruộng đất được chia đều cho nông dân và việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, khai hoang mở rộng diện tích và công tác thuỷ lợi được đẩy mạnh, sản xuất nông nghiệp đã có những bước tiến rất dài so với trước, hằng năm đều có sự tăng trưởng, đảm bảo đủ lương thực, thực phẩm dùng trong địa phương và bán ra thị trường. Các số liệu về các cây trồng, vật nuôi chính ở Nghĩa Hành trong các năm gần đây cho thấy rõ điều đó.
Năm
Cây trồng
|
|
2010
|
2011
|
Lúa
|
Diện tích
|
8.043ha
|
6.144ha
|
Năng suất
|
38,6 tạ/ha
|
58,6 tạ/ha
|
|
Sản lượng
|
31.036 tấn
|
35.983 tấn
|
|
Ngô
|
Diện tích
|
1.538ha
|
1.522ha
|
Năng suất
|
62,11 tạ/ha
|
63,23 tạ/ha
|
|
Sản lượng
|
9.553 tấn
|
9.624 tấn
|
|
Sắn
|
Diện tích
|
658ha
|
783ha
|
Năng suất
|
186,9 tạ/ha
|
192,8 tạ/ha
|
|
Sản lượng
|
12.298 tấn
|
15.099 tấn
|
|
Mía
|
Diện tích
|
522ha
|
590ha
|
Năng suất
|
538,8 tạ/ha
|
554,4 tạ/ha
|
|
Sản lượng
|
28.098 tấn
|
32.713 tấn
|
Vật nuôi
Năm
|
Trâu
|
Bò
|
Lợn
|
2010
|
2.435
|
24.658
|
61.522
|
2011
|
2.302
|
20.070
|
51.137
|
Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2011 là 46.190 tấn, trong đó ngô 63,23 tấn. Sản lượng, năng suất, diện tích ngô của Nghĩa Hành ở mức cao trong tỉnh Quảng Ngãi. Năm 2011, sản lượng lương thực nhiều nhất là xã Hành Phước với 7.114 tấn, xã Hành Thịnh 4.922 tấn, xã Hành Đức 4.812 tấn, xã Hành Dũng 4.352 tấn. Bình quân lương thực đầu người ở Nghĩa Hành năm 2010 là 514kg, năm 2011 là 511kg, thuộc hạng cao nhất trong tỉnh Quảng Ngãi (chỉ sau huyện Mộ Đức). Năm 2011, các xã có bình quân lương thực đầu người cao nhất là Hành Dũng với 643kg, Hành Tín Tây với 625kg, Hành Phước với 593kg; trừ thị trấn Chợ Chùa dựa nhiều vào công, thương nghiệp – dịch vụ có bình quân thấp nhất (262kg), các xã khác đều trên 400kg.
Nghề nông ở Nghĩa Hành có bước chuyển dịch dần sang hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao sản lượng lẫn giá trị sản phẩm.
Trong sản xuất nông nghiệp, ở địa hạt Nghĩa Hành nổi bật có việc làm thuỷ lợi để phục vụ tưới tiêu. Từ hàng trăm năm trước, ở Nghĩa Hành đã có các đập Đồng Thắt, Bến Thóc, Bầu Sấu, Gò Mả, Cây Gáo, Xã Dện, Hố Đá… tưới nước, kênh La Băng tiêu nước. Trên sông Vệ, người dân Nghĩa Hành dựng đặt xe nước để đưa nước lên đồng. Để đưa nước vào ruộng ở những nơi không có nguồn tự chảy, người nông dân dùng phổ biến gàu sòng, xe đạp nước. Đến những năm chiến tranh, ở Nghĩa Hành đã du nhập các loại máy bơm nước chạy bằng than, bằng xăng dầu. Tuy nhiên, với những công trình, phương tiện như kể trên, việc tưới tiêu nước phục vụ sản xuất xưa cũng còn nhiều hạn chế, vẫn còn một phần khá lớn diện tích canh tác không được tưới nước, chỉ trông chờ vào nước trời. Từ sau năm 1975, các công trình, phương tiện tưới tiêu cổ truyền tiếp tục được sử dụng, một số công trình thuỷ lợi nhỏ được xây dựng. Năm 1996, nước Thạch Nham được đưa về và đã tưới được hơn 5.500ha, chiếm khoảng 2/3 diện tích trồng trọt trong huyện. Cho đến nay, nước Thạch Nham và các công trình, phương tiện thuỷ lợi khác đã giải quyết tưới nước ở hầu hết các đồng ruộng trên địa hạt Nghĩa Hành.
Về lâm nghiệp: Xưa kia trên địa bàn Nghĩa Hành diện tích rừng tự nhiên tương đối lớn. Phía nam huyện có núi Lớn, với một phần thuộc địa hạt Nghĩa Hành. Núi Lớn có nhiều gỗ quý như lim, kiền kiền, giổi, gió, trắc, chò, sinh, sơn, trầm hương… Đặc biệt, rừng ở đây có nhiều cây dầu rái thường dùng để trét thúng, mủng. Người dân Nghĩa Hành xưa kia thường đi rừng lấy gỗ về làm nhà, đóng bàn ghế, giường, phản. Một số người lên rừng cắt tranh, lấy củi, đốt than. Riêng diện tích rừng của núi Lớn có khoảng 3.599ha, trong đó thuộc địa phận Nghĩa Hành có khoảng 800ha nằm ở phía tây các tổng Hành Cận, Hành Trung, theo Nghị định năm 1924 được đặt làm rừng cấm. Tuy nhiên, do mưu sinh, người dân quanh vùng vẫn thường khai thác, đốt than, đốn củi, lấy dầu rái. Người đi rừng còn vào rừng tìm nam sâm, phục linh, khoai mài, mật ong, ngà voi, gạc nai… để làm thuốc(8).
Trải qua 30 năm chiến tranh, lính Mỹ và quân đội Sài Gòn nhiều lần rải chất độc hóa học, bắn pháo, ném bom bừa bãi, cộng với sự khai thác thiếu kế hoạch của con người, rừng ở Nghĩa Hành đã dần dần cạn kiệt. Lâm nghiệp ngày nay ở Nghĩa Hành đặt nặng vào nhiệm vụ trồng và chăm sóc rừng, ngăn chặn lâm tặc tàn phá. Các rừng trồng đến độ tuổi được khai thác phục vụ cho sản xuất và đời sống. Theo thống kê ở thời điểm 2003, Nghĩa Hành chăm sóc và tái sinh 2.200ha rừng, năm 2004 là 1.950ha, năm 2005 là 1.761ha; sản lượng khai thác gỗ năm 2003 là 2.400m3, năm 2004 là 2.480m3, năm 2005 là 2.534m3. Rừng trồng tập trung ở Nghĩa Hành năm 2003 có 450ha, năm 2004 có 480ha, năm 2005 có 510ha, chủ yếu là các giống bạch đàn, điều, keo lai(9)... Các giống cây trồng vật nuôi mới được đưa về áp dụng vào sản xuất mô hình kinh tế trang trại hình thành và phát triển, năm 2005 có 47 trang trại, trong đó có 34 trang trại lâm nghiệp, 5 trang trại trồng cây lâu năm, 4 trạng trại chăn nuôi. Tổng giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản ở Nghĩa Hành năm 2011 là 932.054 triệu đồng (theo giá hiện hành), trong đó phần lớn là trồng trọt (863.445 triệu đồng), chăn nuôi (376.123 triệu đồng), các dịch vụ nông nghiệp (5.341 triệu đồng). Nghĩa Hành chủ yếu phát triển nông nghiệp, trong đó giá trị sản xuất trong chăn nuôi chiếm gần 1/2 so với trồng trọt.
TT
|
Sản phẩm
|
Số lượng
|
1
|
Đá xây dựng
|
9.000 m3
|
2
|
Xay xát
|
33.280 tấn
|
3
|
Quần áo
|
137.426 chiếc
|
4
|
Dày, dép da
|
9.570 đôi
|
5
|
Gạch nung
|
18.547.000 viên
|
6
|
Bánh tráng
|
750 tấn
|
7
|
Rượu trắng
|
230.000 lít
|
8
|
Giường gỗ
|
875 bộ
|
9
|
Ghế gỗ
|
2.680 chiếc
|
10
|
Bàn gỗ
|
710 chiếc
|
11
|
Salông
|
100 bộ
|
Tổng vốn đầu tư và xây dựng năm 2011 là 121.500 triệu đồng, trong đó có 83.605 triệu đồng nguồn vốn từ trung ương và của tỉnh(11).
Về thương mại và dịch vụ: Do vị trí địa lý, Nghĩa Hành xưa nay không phải là một trung tâm buôn bán trong tỉnh Quảng Ngãi. Thuở xưa, việc buôn bán nhỏ lẻ diễn ra phổ biến ở các chợ quê, chủ yếu để thoả mãn nhu cầu hằng ngày của người dân, mang đậm tính chất tự túc tự cấp của nền kinh tế. Tuy vậy, ở phía tây huyện có chợ phiên Tam Bảo, là nơi tập trung trao đổi, mua bán hàng hóa giữa người Kinh và người Thượng từ nhiều vùng trong và ngoài huyện. Cho đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, trên địa hạt Nghĩa Hành có 10 chợ, trong đó chợ Phú Vang (quen gọi là Chợ Chùa) và chợ Tam Bảo là lớn nhất. Thương mại – dịch vụ ở Nghĩa Hành ngày nay có chiều hướng phát triển đa dạng, năng động hơn trước rất nhiều. Thống kê cho thấy ở thời điểm năm 2011 có 3.176 cơ sở kinh doanh thương mại – dịch vụ cá thể với 3.833 lao động, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ là 205.500 triệu đồng(12).
Cũng như trong kinh tế, do vị trí địa lý mà cơ sở hạ tầng ở Nghĩa Hành vẫn yếu kém và thường phát triển chậm so với các huyện đồng bằng khác. Ngoài ra, do nhiều lần dịch chuyển huyện lỵ nên việc xây dựng cơ sở hạ tầng cũng chưa được tập trung, có phần chậm so với các huyện khác trong tỉnh.
Các cầu trên trục lộ 627: cầu Xóm Xiếc, cầu Bến Đá, cầu Ngắn, cầu Dài đều đã được xây dựng bêtông. Từ khi kênh chính Nam Thạch Nham hoàn thành (1996), xiphông sông Vệ được xây dựng và tận dụng nối hai bờ sông Vệ, việc đi lại giữa nam và bắc huyện trở nên thuận tiện hơn nhiều. Đặc biệt cầu Cộng Hòa bị sập trong chiến tranh đã được xây dựng lại và đưa vào sử dụng từ tháng 9.2004, dài 263m, rộng 9m, gồm 11 nhịp. Cầu này mở thông đường 627 với trục lộ nối liền với Quốc lộ 24. Các cầu qua các sông suối khác hầu hết đã được xây dựng bằng bêtông.
Điện: Điện chỉ thực sự xuất hiện ở Nghĩa Hành từ năm 1976, sau đó dần dần lan toả đến hầu hết các địa bàn trong huyện, phục vụ đắc lực cho sản xuất và sinh hoạt.
Thông tin liên lạc: Xưa kia, địa bàn Nghĩa Hành không nằm trên trục đường Thiên Lý và không có dã trạm vận chuyển công văn. Thời Pháp thuộc, dã trạm mở rộng đến huyện, chuyển công văn thư từ từ tỉnh đến huyện và đến châu Minh Long. Thời kháng chiến chống Pháp, điện thoại có sự kết nối từ tỉnh đến huyện. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ có ban giao bưu huyện. Từ 1975 đến 1978, lực lượng giao liên tiếp tục phục vụ thông tin liên lạc trong huyện. Năm 1978, bưu điện huyện được thiết lập. Đường dây điện thoại kéo về các xã. Đến nay có bưu cục trung tâm đóng ở thị trấn huyện lỵ, 11 xã khác trong huyện đều có bưu điện văn hóa xã. Thời điểm 2005, có 2 tổng đài điện thoại với dung lượng 6.000 số. Số máy điện thoại cố định trên mạng cuối 2005 có 4.732 máy và 161 máy điện thoại di động.
Các cơ sở hạ tầng khác như trường học, trạm y tế đã xây dựng khá tốt, có tác động sâu sắc đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Trải qua các cuộc kháng chiến, người dân Nghĩa Hành bảo lưu nếp sống và sinh hoạt cổ truyền tốt đẹp của dân tộc. Từ 1945, nhân dân đã dần dần loại trừ các hủ tục trong đời sống, xây dựng nếp sống mới văn minh, hiện đại. Từ năm 1975 đến nay, việc xây dựng nếp sống văn minh tiếp tục được chú trọng đẩy mạnh. Các di tích lịch sử – văn hóa được bảo tồn, tôn tạo và phát huy. Đình làng An Định được lập hồ sơ xếp hạng di tích. Trụ sở Ủy ban Kháng chiến Hành chính miền Nam Trung Bộ được phục dựng, tôn tạo. Di tích chiến thắng Đình Cương, khu chứng tích tội ác ở Khánh Giang – Trường Lệ đã được xây dựng tượng đài. Phong trào văn nghệ, thể thao quần chúng phát triển rộng rãi, đều khắp và khá nổi bật. Về thông tin tuyên truyền, ở huyện có đài truyền thanh huyện, ở các xã có đài truyền thanh xã. Ở huyện có thư viện huyện. Tuy vậy, nhìn chung các thiết chế văn hóa ở Nghĩa Hành vẫn còn thiếu và yếu. Huyện chưa có nhà văn hóa huyện, ở hầu hết các xã cũng chưa có nhà văn hóa, do chưa được đầu tư xây dựng.
TT
|
Cấp học
|
Số trường
|
Số lượng lớp
|
Số giáo viên
|
Số học sinh
|
1
|
Mẫu giáo
|
14
|
109
|
146
|
2.773
|
2
|
Tiểu học
|
17
|
236
|
308
|
6.139
|
3
|
Trung học cơ sở
|
12
|
174
|
372
|
5.611
|
4
|
Trung học phổ thông
|
3
|
84
|
167
|
3.705
|
Nhiều người Nghĩa Hành trở thành những trí thức đáng chú ý của đất nước như các Giáo sư Tô Duy Hợp, Cao Văn Sung, Nguyễn Tấn Cừ, các nhà giáo Trần Văn Thận, Nguyễn Văn Giai…
Về y tế và chăm sóc sức khoẻ,thời xưa ở Nghĩa Hành chủ yếu chữa bệnh theo các bài thuốc cổ truyền và kinh nghiệm dân gian, Đông y. Tây y mới manh nha đầu thế kỷ XX. Ngày nay, ở huyện có một trung tâm y tế huyện với 140 giường bệnh, 18 bác sĩ, y sĩ, có đội vệ sinh phòng dịch. Ở xã, thị trấn có trạm y tế. Tổng số cán bộ y tế trong huyện có 151 người, trong đó có 18 bác sĩ, 8 dược tá(15).
Về xã hội, vấn đề xã hội lớn nhất là tình trạng thiếu việc làm. Có hàng nghìn nam nữ thanh niên nông dân còn thiếu việc làm, phần lớn phải tìm việc làm ở các tỉnh phía nam. Người dân cũng thường thiếu việc làm trong lúc nông nhàn. Tình trạng nghèo đói về cơ bản đã giảm nhiều, tuy nhiên vẫn còn khoảng 9,80% hộ nghèo (năm 2010); năm 2011, số hộ nghèo theo chuẩn mới là 4.530 hộ, chiếm 20,32% tổng số hộ. Để giải quyết tình trạng này, nhiều biện pháp đã và sẽ được tiếp tục thực hiện như trợ giúp xây dựng nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết (đến năm 2011 đã xây dựng được 10 nhà tình nghĩa, 197 nhà đại đoàn kết), mở làng nghề, mở rộng sản xuất tiểu thủ công nghiệp, cho vay vốn, trợ cấp… Một số tệ nạn xã hội ở Nghĩa Hành có xảy ra, nhưng ở mức độ thấp.