Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng

Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng - Tỉnh Long An

Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng

Huyện Vĩnh Hưng nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Long An, có diện tích tự nhiên 38.452 ha trong đó đất nông nghiệp 33.780,82 ha. Địa hình thấp dần theo hướng từ Tây sang Đông và từ Bắc xuống Nam với các cấp địa hình: Cao độ bình quân hơn 2mét gồm các xã Khánh Hưng, Hưng Điền A, Thái Bình Trung; cao độ bình quân từ 1,5- 2mét gồm các xã Thái Trị, Vĩnh Trị; cao độ bình quân từ 1-1,5mét gồm Thị Trấn Vĩnh Hưng, Vĩnh Thuận, Vĩnh Bình, Tuyên Bình Tây. Tiếp giáp với 2 huyện của tỉnh Svây Riêng (vương quốc Campuchia) có đường biên giới dài 45,62 km.

 – Cụ thể như sau:

– Phía Đông Bắc giáp huyện Công Pông Rồ và phía Bắc giáp huyện Xoài Chụm thuộc tỉnh  Svây Riêng của Campuchia.

– Phía Đông Nam giáp trước đây là huyện Mộc Hóa nay là Thị xã Kiến Tường tỉnh Long An.

– Phía Tây và Tây Nam giáp huyện Tân Hưng tỉnh Long An.

SƠ LƯỢC VĂN HOÁ VÀ NGÀNH NGHỀ TRUYỀN THỐNG CỦA VĨNH HƯNG

Vĩnh Hưng là một huyện ra đời muộn, được hình thành từ một “vùng trắng” của Đồng Tháp Mười. Do đó văn hoá Vĩnh Hưng hầu như mang những đặc điểm chung của văn hoá Đồng Tháp Mười.

Một số đặc điểm của Văn hoá Vĩnh Hưng:

1. Văn hoá:

Bước phát triển của văn hoá ở Vĩnh Hưng gắn liền với cuộc định cư khai phá của những lớp cư dân trong các thế kỷ qua. Cuộc hành trình của họ không chỉ có những phương tiện sinh hoạt, công cụ sản xuất, giống để gieo trồng… mà còn có cả một vốn liếng tinh thần đa dạng, phong phú được hun đúc nên từ bao thế hệ ở miền đất cũ. Đó là những phong tục tập quán, đạo đức truyền thống, nếp sống, vốn văn hoá, tinh thần yêu nước, yêu đồng bào, những kinh nghiệm sống và chiến đấu…

A. Văn hoá vật chất:

a. Cách ăn, mặc, ở

Nhìn chung cách ăn, mặc, ở của người Vĩnh Hưng cũng mang những đặc điểm của người dân Nam bộ: đơn giản, thể hiện khá rõ quan niệm “ăn chắc, mặc bền”.

* Cách ăn và những món ăn thông thường phổ biến ở Vĩnh Hưng:

Ở đây ta nói đến cách ăn và những món ăn thông thường phổ biến của đại đa số người dân, mà chủ yếu là người nông dân. Những cư dân khi đặt chân lên vùng đất này, trong quá trình khai phá và định cư trên vùng đất mới họ đã biết vận dụng những kiến thức về y học, dinh dưỡng cùng những kinh nghiệm nấu nướng để dùng những sản vật của địa phương chế biến thành những món ăn đảm bảo được sự cân bằng âm dương trong cơ thể con người.

Nói đến thực phẩm trước tiên phải kể đến gạo thóc. Nếu người Cần Đước tự hào về sản vật gạo Nàng Thơm Chợ Đào thì người Vĩnh Hưng cũng không khỏi ca ngợi bữa cơm gạo huyết rồng (một thứ gạo hạt dài, màu đỏ, nấu dẽo, thơm và bùi – một đặc sản của Đồng Tháp Mười, ăn với cá rô hoặc cá trê vàng kho tiêu thì không gì ngon bằng…)

gao%20huyet%20rong - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưngclip image002 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng 

​Bên cạnh các loại lúa nước một vụ, với những tên gọi: Nàng rừng, Nàng tri,  Nàng Minh,… thì phải kể đến lúa trời (lúa ma), mọc tự nhiên trên những cánh đồng ngập nước. Gạo lúa trời khi nấu phải cho sôi lâu thì cơm mới dẽo. Lúa còn mới cơm có mùi thơm khá hấp dẫn. Cây lúa trời cũng đã một thời đi vào lịch sử “má nuôi em bằng bông súng lúa trời”. Bên cạnh những giống lúa còn có những loại rau mọc tự nhiên có thể nuôi sống con người: bông súng, điên điển, hẹ nước, rau dừa, kèo nèo, đọt nghể, ngó sen, đọt vừng…

Nếu như người dân miền ngoài “thịt cá là hương hoa, tương cà là gia bản” thì trong mâm cơm của người dân ở miệt Đồng Tháp Mười nói chung và Vĩnh Hưng nói riêng thì mắm được xem là món ăn “chủ lực”:

“Muốn ăn bông súng mắm kho

Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm”

Ngoài ra các loại cá: cá trèn, cá lóc, cá trê, cá chạch… cũng được người dân tận dụng cai nắng nhiệt đới để phơi khô dùng làm thức ăn để dành.

Ngày nay, bửa ăn của người Vĩnh Hưng đã được nâng lên cả về số lượng lẫn chất lượng. Nó tuỳ thuộc vào sự trao đổi, mua bán ở các chợ nông thôn hoặc các vụ mùa…

* Món ăn theo phong tục cổ truyền trong các ngày lễ tết:

Mâm cổ ngày tết của người Vĩnh Hưng cũng không có gì khác biệt so với những huyện trong tỉnh. Thông thường nhà nào cũng có bánh tét, bánh mứt, thịt kho…thịt thì chủ yếu là thịt heo, gà vịt…Ngày nay, nhờ ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, gieo trồng, ngày tết ở đây cũng phong phú thêm với dưa hấu và hạt dưa…

* Cổ khao, cổ cưới:

Người Vĩnh Hưng nhất là người nông dân thường có khuynh hướng nghiêng về sự thoải mái, vừa phải đầm ấm, vui vẻ hơn là phô trương.

Khi điều kiện kinh tế xã hội thay đổi thì con người cũng có những thay đổi. Tuy nhiên những nét cốt lõi của tinh thần hiếu khách, của quan niệm lấy tình nghĩa làm trọng của ngày xưa vẫn được người Vĩnh Hưng bảo lưu khá đậm nét đến ngày nay.

* Những món ăn đặc sản của Vĩnh Hưng:

Đó là những món ăn được chế biến từ những sản vật đặc biệt của địa phương. Thiên nhiên và đất đai bạt ngàn của cả Vùng Đồng Tháp Mười trong đó có Vĩnh Hưng, đã cung cấp cho vùng này nhiều đặc sản có giá trị: có những đặc sản về gạo nếp (huyết rồng), cá tôm (cá trê vàng, cá lóc, cá chạch…) và các loại chim trời, rùa, rắn, lươn, chuột…từ những “nguyên liệu đặc sản” đó có thể chế biến thành nhiều món ăn đậm đà khó quên như: cháo le le, cúm núm, cháo dơi quạ đậu xanh, cá lóc nướng lá sen, chuột đồng rô ti, cháo lươn, lươn kho mắm, chuột xào xã ớt, canh chua cá linh bông điên điển… những món ăn rất bình dân nhưng giá trị dinh dưỡng cao.

* Cách mặc:

Cũng giống như những vùng khác, ngày xưa chiếc áo bà ba được mặc phổ biến, màu được ưa chuộng thường là màu đen và nâu. Ngày nay, kinh tế xã hội ngày càng phát triển, xuất phát từ những nhu cầu tiện lợi, đẹp, lịch sự một số xu hướng mặc theo kiểu Âu được chuộng phổ biến đủ kiểu, vải đa chất liệu.

* Cư trú:

Vĩnh Hưng nói riêng và Đồng Tháp Mười nói chung là nơi khai phá khá muộn so với các vùng khác trong tỉnh. Đây là vùng trũng, đất nhiễm phèn nặng, thường bị ngập lụt ba đến bốn tháng, mùa nắng thì thiếu nước. Mức chênh lệch về mật độ dân số ở đây so với các huyện khác là rất lớn. Họ thường tập trung ở dọc theo các bờ sông, bờ kênh hoặc các gò cao: Gò Măng Đa, Gò Ông Lẹt, Gò Châu Mai…

Nếu như ở các huyện phía Nam của Tỉnh là những ngôi nhà được xây kiên cố, rộng rải và đa dạng thì ở Vĩnh Hưng phần lớn các ngôi nhà được xây cất đơn sơ, tạm bợ: vách đất trộn rơm, mái lá hoặc tranh. Một phần do điều kiện kinh tế và thiên nhiên quyết định (xây cất tạm bợ để dễ di dời hoặc kê kích trong mùa lũ), một phần do tập quán của người dân nơi đây. Sau ngày đất nước được giải phóng  người nông dân xây dựng nhà cửa khang trang, có nền cao vượt lũ, bền vững hơn.

Những năm gần đây, việc phát hiện ra những mỏ đất sét lớn để làm gạch, ngói ngay trên vùng đất này đã góp phần “ngói hoá” các thôn xóm. Ngày nay khi đến Vĩnh Hưng, ta thấy những trường học, nhà trẻ, bệnh xá, cơ quan, nhà văn hoá và nhà cửa của dân đều được xây dựng khang trang bằng một phần gạch ngói sản xuất tại địa phương, đang góp phần thay đổi bộ mặt làng xã của một vùng nước ngập đồng chua.

di%20lai - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưngclip image004 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng 

Phương tiện đi lại:  

Ngày xưa do đặc điểm của vùng là vùng ngập lũ nên phương tiện đi lại chủ yếu bằng ghe, xuồng. Thông dụng là xuồng ba lá, loại xuồng nhỏ, có thể vừa dùng làm phương tiện đi lại vừa là phương tiện cho nghề đánh bắt cá. Đa số dùng sào chống hoặc dùng dầm bơi, những gia đình khá giã thì sử dụng xuồng máy (cô -le 4 hoặc cô -le 7). Loại ghe lớn hơn thường được trưng dụng làm ghe rổi (chở cá) hoặc ghe hàng (chở bán nhiều loại hàng hoá và thực phẩm tươi sống bán cho người dân ở cặp bờ sông, bờ kênh. Ghe hàng còn đuợc xem là “chợ di động” của thời đó và cho đến bây giờ”).

Ngày nay, đất nước ngày càng phát triển, giao thông thuỷ, bộ được quan tâm đầu tư. Đường giao thông liên ấp, liên xã được mở rộng, phương tiện đi lại của người dân cũng theo đó mà đổi mới, phần lớn những chiếc xuồng ba lá bơi bằng dầm hoặc chống bằng sào,… dần dần được thay thế bằng tắc ráng, xuồng ba lá lớn máy dầu, trên bộ thì có xe đạp, xe máy, ô tô, xe khách…làm cho việc đi lại càng thuận tiện với nhiều phương tiện phong phú hơn.

B. Văn hoá tinh thần:

a. Văn học dân gian:

Trong những điều kiện và môi trường sống có nhiều thay đổi. Thơ văn của Vĩnh Hưng bao gồm nhiều thể loại: chuyện kể từ đời này sang đời khác, chuyện cổ tích, chuyện tiếu lâm, hò, vè, ca dao trữ tình và cả câu đố.

Trước hết phải kể đến những chuyện kể mang tính chất truyền khẩu, thường phản ánh về thiên nhiên, thú dữ và sức mạnh của người nông dân khắc phục nó. Ngoài những chuyện kể về những anh hùng khởi nghĩa, còn có những chuyện tiếu lâm hết sức phong phú. Nhưng những câu chuyện này thường là : “tài sản” chung của cả vùng Đồng Tháp Mười chứ không riêng của địa phương nào. Ví dụ như ” chuyện cá lóc”, “sự tích rau răm”.

Những câu đố ở đây thường mang hơi hướng cuộc sống lao động hàng ngày của người nông dân:

Ba đầu, bốn lưỡi, mười chân

Hai quân ở trần, một quân mặc áo

(người cày và đôi trâu đang kéo cày)

hoặc: Mình tròn trùng trục

Như cục kỳ lân

Há miệng mà táp sóng thần

Có bốn sợi râu dài

Hai người nhổ hoài không đứt

( hai người đang tác nước bằng gàu dai)

Hình ảnh con trâu chiếc gàu dai rất gần gũi với những người nông dân ở mọi địa phương của Việt Nam, nhưng riêng chiếc gàu dai đối với nơi có nhiều đìa bàu như Đồng Tháp Mười nói chung và Vĩnh Hưng nói riêng thì vô cùng quen thụôc.

Trong mảng thơ dân gian, có thể nói thơ ca còn lưu lại số lượng lớn nhất, bao gồm cả ca dao, hò vè, câu đố. Nội dung những bài vè này thường nói về thiên nhiên, con người, sản vật.

 Một số bài vè, truyện kể và ca dao của Đồng Tháp Mười

Vè về chim:

Nghe vẻ nghe ve

Nghe vè cầm thú

Ác là, tu hú

Láu liến ba hoa

Lên tiếng canh ba

Chích choè, bìm bịp

Giống hay ăn hiếp

Chim quạ, chim mèo

Lót ổ cheo leo

Dòng dọc, áo già…

Cứ điệu ấy bài vè kể ra hàng trăm giống chim ở Đồng Tháp Mười.

Cái tệ uống rượu cũng bị lên án trong những bài vè của Đồng Tháp Mười:

Nghe vẻ nghe ve

Nghe vè uống rượu

Dốt như thằng cuội

Dữ tợ thần trùng

Chữ nghĩa như rồng

Tữu nhập ngôn xuất

Đa ngôn đa thất

Chẳng chút đắng đo

Rượu thời đong cho

Tiền không chịu trả

Say rồi bậy bạ

Nói nghịch nói ngang

Nằm sá nằm đàng

Té lên té xuống

Bao nhiêu cũng uống

Quá mẹ hủ chìm

Như dây bìm bìm

Sống trên lưng vợ…

Vè nói ngược:

Ngồi buồn nói ngược mà xuôi

Cua đinh nó liệng giữa trời không hay

Trời tối đánh chó ra cày

Trâu kia giận sủa, chuột giày ông voi

Thầy bói rũ nhau đi coi

Giữa trưa đốt đuốt đi soi ếch bà

Lại có vè nói láo, vừa mang tính phóng đại vừa pha chút hài hước cho thấy người nông dân dù có gian nan cơ cực tới đâu, cuộc sống của họ vẫn đầy lạc quan:

Ngồi buồn nói chuyện láo thiên

Hồi tui còn nhỏ có khiêng ông trời

Ra đồng thấy muỗi bắt dơi

Bọ hung làm giỗ đi mời ông voi

Nhà tui có một củ khoai

Xắt ra năm thúng hẳn hòi còn dư

Nhà tui có bụi khoai từ

Bới lên một củ làm hư nữa vườn

Tui về câu được con lươn

Cái thịt quết chả, cái xương đẽo chày…

Vè rau cỏ: không chỉ tả riêng mà còn nói về tính nết của từng thứ rau:

Nghe vẻ nghe ve

Nghe vè cái rau

Ăn ở hỗn hào

Là rau ngành ngạch

Trong lòng không chánh

Vốn thiệt rau lang

Đất ruộng bò ngang

Là rau muống biển

Quan thầy đòi kiện

Bình bát nấu canh

Ăn hơi tanh tanh

Là rau dấp cá…

Phần thơ trữ tình trong mảng dân gian là một mảng rộng lớn. Nó chất chứa tình cảm với đất nước, ruộng đồng quê hương. ba trăm năm đặt chân về một vùng đất mới, đổ biết bao máu và mồ hôi để khai khẩn nên mảnh đất này, người Đồng Tháp Mười có biết bao tâm tình phơi trải trong câu ca tiếng hát. Đó là những bức tranh thiên nhiên của vùng đất mới và công cuộc khai phá của những thế hệ người Việt trong quá trình định cư; là sự nghiệp đấu tranh bảo vệ những thành quả lao động tạo nên đất mới:

Muỗi kêu như sáo thổi

Đĩa lội tựa bánh canh

Cỏ mọc thành tinh

Rắn đồng biết gáy

Đó là những vùng đất “nữa mùa nắng cháy, nữa mùa nước dâng”.

Đã không ít người chùn bước trước những khắc nghiệt của nó. Nhưng nếu ai bền gan bền chí thì cũng được thiên nhiên ưu đãi:

Cám ơn bông súng củ co

Nợ nần trả hết, lại no trong lòng.

Vùng đất Vĩnh Hưng đã gắn bó với con người bằng một tình yêu mặn nồng tha thiết. Riêng ca dao bộc lộ tình người với đất, kể có hàng trăm, hàng ngàn câu. ( Xem tại đây)

Một số câu ca dao nói về tình người, tình đất của người Đồng Tháp Mười:

“Ai về tới miệt Tháp Mười

Cá tôm sẳn bắt lúa trời sẳn ăn”.

“Ai về Đồng Tháp mà xem

Bông sen, bông súng nở chen lúa vàng”.

Anh đi anh nhớ Tháp Mười

Nhớ cây bông súng, nhớ người Mỹ An

Bao giờ hết cỏ Tháp Mười

Thì dân Nam mới hết người đánh Tây

Cảm ơn bông súng củ co

Nợ nần trả hết lại no ấm lòng

Chèo ghe sợ sấu cắn chưn

Xuống bưng sợ đỉa lên rừng sợ ma

Đất Tháp Mười cò bay thẳng cánh

Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm

Đất Tháp Mười  người qua dễ nhớ

gái Tháp Mười ăn nói dễ thương

Đất Tháp Mười tràm thơm ngào ngạt

Lúa Tháp Mười trĩu nặng oằn bông

Em là con gái Tháp Mười

Dáng đi cũng đẹp nụ cười cũng duyên

Kinh dài, đất rộng, tràm xanh

Tháp Mười cảnh đẹp mời anh ghé vào

Muốn ăn bông súng mắm kho

Thì về Đồng Tháp ăn cho đã thèm

Tháp Mười lắm rạch nhiều kinh

Lắm tôm, nhiều cá, tràm xanh, lúa vàng

Tháp Mười nước mặn đồng chua

Nữa chừng mùa nắng cháy nữa mùa nước dâng

Tiền Giang nước chảy bềnh bồng

Đổ về Đồng Tháp mặn nồng phù sa

Tháp Mười đồng ruộng bao la

Dân thì hiền hậu đất hoà tình thương

Thấy dừa thì nhớ Bến Tre

Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười

Bông sen như nết con người

Đẹp như là gái Tháp Mười quê ta.

Hoặc những câu ca dao nói về tình yêu đôi lứa:

Anh đau tương tư trận này chắc chết

Em có thuốc gì cứu hết cho anh

Anh đau tương tư bệnh nặng

Thuốc chi cứu đặng, bớ điệu chung tình!

Cá sầu ai cá chẳng quặt đuôi

Như lan sầu huệ như tôi sầu mình!

Tình yêu lứa đôi cũng được thể hiện trong những câu ca dao hết sức ngọt ngào thi vị, nhưng lại mang những dáng vẻ riêng.

“Anh đau tương tư cha mẹ bỏ liều

Em tính sao thì tính kẻo bốn giờ chiều anh tắt hơi”.

Còn lòng quyết tâm giữ lấy tình yêu thì ca dao Tháp Mười có những hình ảnh lạ thường:

“Dù cho trời đất phân chia

Đôi lứa mình như khoá với chìa đừng rơi”

Những lời tỏ tình nhiều khi được phát ra bởi những câu mộc mạc nhưng vẫn thanh nhã:

“Nước trong ai chẳng rửa chân

Cái má trắng ngần ai chẳng muốn hun.”

Mảng thơ ca dân gian này mà chủ yếu là ca dao đã cùng với thơ ca bác học cận và hiện đại làm sáng lên truyền thống yêu nước bất khuất của nhiều thế hệ ở đây.

b. Phong tục tập quán:

* Nếp sống gia đình và xã hội:

Trong gia đình của người Vĩnh Hưng, vợ chồng thường xưng hô với nhau là tía hoặc má sấp nhỏ. Cũng giống như những địa phương khác trong vùng, người Vĩnh Hưng coi trọng sự hoà thuận, đầm ấm trong gia đình trên kính dưới nhường, nhất là những nề nếp về cư xử giửa những người trong gia đình và ngoài xã hội.

Việc dạy dỗ con cái ngày xưa phần lớn thiên về mệnh lệnh, đôi khi dùng cả roi vọt. Con cái trong gia đình phải tuyệt đối vâng theo lời cha mẹ. Ngày nay, chế độ gia trưởng phong kiến trong gia đình đã bị lên án, nên trong nếp cư xử cũng có nhiều thay đổi cơ bản. Quan hệ giữa người và người được xây dựng trên một nhân sinh quan cách mạng. Tuy nhiên yếu tố cơ bản của gia đình như tình yêu thương, tinh thần đùm bọc lẫn nhau, những nét đẹp truyền thống như tính hiếu khách, tình bạn thuỷ chung sống có tình có nghĩa mang tính nhân văn trong xã hội cũ vẫn được bảo lưu, kế thừa và không ngừng cách tân nhằm xây dựng mối quan hệ mới giữa người và người ngày một văn minh, hoàn mỹ hơn.

* Phong tục:

Không có điểm khác lớn so với phong tục chung của vùng. Nhưng trong việc tang chế, có một điểm đáng chú ý là ở miệt này trước đây nếu người chết đúng vào mùa nước ngập mênh mông, không có đất để chôn thì sau khi làm những nghi lễ theo tập tục cổ truyền, quan tài được đưa bằng ghe vào sâu trong rừng tràm hoặc những lùm cây giữa cánh đồng xa vắng. Người ta đóng cọc chéo, đặt quan tài lên cành cây cao, chờ đến khi nước cạn mới làm lễ an táng chính thức.

Ngày nay nhờ công tác tuyên truyền vận động qua các phong trào xây dựng nếp sống văn hoá mới. Việc tang lễ ở Vĩnh Hưng có những bước tiến mới, lành mạnh. Việc hình thành các nghĩa địa nhân dân đã góp phần giải quyết được tình trạng “người chết leo cây” .

* Tôn giáo:

Ngày nay, Vĩnh Hưng có 5 tôn giáo lớn đã thâm nhập ở mức độ tương đối sâu trong đời sống xã hội và có quá trình lịch sử phát triển đáng lưu ý, đó là: đạo phật, thiên chúa giáo chính thống, tin lành, cao đài, hoà hảo. Trong đó số người theo đạo phật chiếm tỷ lệ tương đối cao.

Đạo Phật có mặt ở Vĩnh Hưng tương đối sớm so với các tôn giáo khác. Tư tưởng nhân đạo của đạo phật đã gặp tư tưởng yêu nước của quần chúng nhân dân. Chính điều này đã giải thích vì sao ở Vĩnh Hưng ngôi Cổ Sơn Tự (Chùa Nổi) đã trở thành một căn cứ cách mạng và đi vào lịch sử với những đóng góp tích cực trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc

2. Ngành nghề truyền thống

Bên cạnh những di sản vật thể và phi vật thể, ở Vĩnh Hưng còn có nhiều nghề thủ công truyền thống: đan đệm bàng, làm mắm, ủ nước mắm, đan các dụng cụ nghề cá và nghề cá nói chung… tồn tại trong thời gian dài, nhưng với quy mô nhỏ lẻ, rải rác trong một số hộ dân. Nghề thủ công truyền thống mang tính chất làng nghề thì không còn.

* Nghề đan đệm:

Xét về mặt lịch sử, nghề này đã có ít nhất trên 2 thế kỷ. Từ khi những lưu dân người Việt đến khai phá vùng đất này, họ thấy được những đặc tính tiện ích của cây bàng và sử dụng nó để làm đồ gia dụng rồi dần dần biến thành nghề thủ công. Đây là nghề thủ công phổ biến ở Vĩnh Hưng, thu hút nhiều lao động từ người già đến trẻ em nhất là những lúc nông nhàn.

Nghề đan đệm bàng

          “Anh đi ghe cá mũi son

Để em đan đệm cho mòn ngón tay”

Câu ca dao trên đã phản ánh sinh hoạt của vùng nông thôn ở Đồng Tháp Mười ngày xưa: Chồng đi “ghe rỗi”, vợ ở nhà sau những ngày đồng áng, thường làm thêm nghề phụ ” đan đệm” ( tiếng địa phương còn gọi là đươn đệm)- Cách gọi chung nghề dùng cọng bàng phơi khô để đan các đồ dùng như đệm nằm thay chiếu, đệm phơi lúa, làm buồm ghe, cà ròn đựng nông sản, bao đựng muối…hoặc các loại đồ dùng khác như nón, túi xách, cặp học sinh, nóp….

Lịch sử của nghề đan đệm:

Xét về mặt lịch sử, nghề này đã có ít nhất trên 2 thế kỷ. Từ khi những lưu dân người Việt đến khai phá vùng đất này, họ thấy được những đặc tính tiện ích của cây bàng và sử dụng nó để làm đồ gia dụng rồi dần dần biến thành nghề thủ công. Đây là nghề thủ công phổ biến ở Vĩnh Hưng, thu hút nhiều lao động từ người già đến trẻ em nhất là những lúc nông nhàn.

Làm bàng:

Nguyên liệu chính của nghề đan đệm, là cây bàng (có tên khoa học là: lepiromia articulata, họ cyperaceac cỏ gấu), cùng với cây tràm, cây bàng mọc ở vùng đất trũng phèn, từ gốc đến ngọn không có đốt, rổng ruột, khi phơi khô dẽo và bền, ít ngấm nước. Tuy được xếp vào loại cây công nghiệp của ngành nông nghiệp nhưng trong thực tế, từ bao đời nay và cho đến bây giờ, bàng vẫn được thu hoạch theo lối tự nhiên là chính.

Hàng năm cứ đến mùa khô là cây bàng tàn lụi, chỉ còn gốc nằm trong đất, đến mùa mưa lại bắt đầu chu kỳ sinh trưởng mới. Khi bàng lên cao đến độ thu hoạch, người ta dùng tay lần sát gốc nhổ từng cọng chứ không cắt như lác, rồi bó thành “neo”, mỗi  “neo” là một bó nhỏ có vòng tròn quy ước 2 gang tay đâu lại (khoảng 30cm) đem phơi khô.

Ngày xưa trước khi đan người ta dùng chày giã từng bó đặt trên tấm ván để làm dẹp cọng bàng- gọi là “giã bàng”. Công việc này cũng khá vất vã nên dân làm bàng có câu hát cửa miệng “Làm dâu Tân Nhựt vẫn nhàn. Lấy chồng Rạch Rít đâm bàng rã tay”. Ngày nay, với tiến bộ của khoa học kỹ thuật, việc đâm bàng đã được những động cơ máy móc hoặc những trục quay thủ công thay thế.

Đan đệm

Khác với dệt chiếu, đan đệm không dùng khung mà công cụ chủ yếu của nghề hoàn toàn làm bằng tay. Đôi bàn tay khéo léo của người đan quyết định sự thành bại của chiếc đệm. Mỗi chiếc đệm được đan theo nhóm từ một đến bốn người, hoặc có khi chỉ một người tuỳ theo khổ đệm và sự phân công lao động trong gia đình.

Khi bắt đầu đan một chiếc đệm, người đan sẽ gầy từng cọng bàng, cách đan cũng tương tự như người ta đan vĩ tre để phơi cá. Cứ như thế cho đến khi cần kết thúc. Công đoạn cuối cùng là bẻ và gim bìa. Những cọng bàng nhỏ sẽ được sử dụng để làm công việc này, vì theo người đan thì những cọng bàng nhỏ tuy đan rất lâu nhưng rất chắc. Những chiếc đệm làm bằng những cọng bàng nhỏ cũng được người tiêu dùng chọn nhiều hơn vì nó vừa đẹp vừa bền.     

          Chiếc đệm được cấu tạo bởi các phần mà người địa phương còn gọi là  “vung”, số lượng vung nhiều hay ít là tuỳ theo khổ  của chiếc đệm. Khổ đệm thông dụng là 1,2m; 1,4m; 1,6m. Tuỳ chất lượng và độ cao của cọng bàng mà người ta sẽ phân loại đệm. Ngoài những chiếc đệm đã được đan sẳn như thế, người ta còn đan theo đơn đặt hàng, kích thước và giá cả tuỳ theo loại đệm và người đặt.

          Đệm Vĩnh Hưng có nhiều loại: đệm phơi, đệm nằm, đệm manh.. và căn cứ theo chất lượng cọng bàng to, nhiễn, đệm thô hay không thô…mà người ta phân ra đệm xô hoặc đệm trung, đệm đặc biệt.

          Ngày xưa ngoài những phiên chợ ở địa phương, người ta còn mang đệm bán sang các vùng lân cận và còn xuất khẩu sang Campuchia. Ngoài việc đan đệm nằm thay chiếu, từ lâu người nông dân còn dùng cọng bàng để đan những túi xách, nón, cặp học sinh, bao đựng muối, và dùng để lợp nhà. Trong những năm đất nước ta bị giặc pháp đô hộ, đời sống khó khăn, một số nông dân nghèo ờ Đồng Tháp Mười không tiền để mua vải đã dùng cọng bàng để đan đệm làm quần áo che thân. Hình ảnh cọng bàng đã đi vào lịch sử với những chiếc nóp thay mùng chống mũi của người vệ quốc đoàn năm xưa, và trở thành một biểu tượng hào hùng “nóp với giáo mang trên vai, nhưng thân trai nào kém oai hùng…”

Điều đặc biệt trong nghề đan đệm ở Vĩnh Hưng là không nghe người nhắc đến những ông tổ nghề cũng như việc giữ gìn các tập tục, kiêng cử chung quanh nghề này.

          Nhận định về nghề đan đệm

Có thể khẳng định rằng bên cạnh những yếu tố cần cù, tỉ mĩ của nghề truyền thống và sự tiếp thu kỹ thuật mới trong công nghệ, nghề đan đệm, bao bì bằng bàng đã mang lại cho những người dân sống bằng nghề này một khoảng thu nhập tương đối ổn định (tuy nhiên vẫn còn phụ thuộc khá nhiều vào sức hút thị trường).

Nghề đan đệm dễ học, nhưng hầu như việc truyền nghề và học nghề cũng chỉ diễn ra theo kiểu cha truyền con nối, phạm vi gia đình chứ không có theo trường lớp. Tuy dễ học nhưng đòi hỏi người đan đệm cũng phải tỉ mỉ, phải có sáng tạo và mỹ thuật để tạo ra nhiều mẫu mã mới phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.

Trong thời gian gần đây, với tốc độ đô thị hoá nhanh, nghề đan đệm cũng như một số dụng cụ bằng bàng khác đã bị thu hẹp sản xuất. Nguyên liệu ngày càng khan hiếm, có khi phải mua từ nơi khác. Nghề đan đệm ở Vĩnh Hưng đã bị mai một.

* Nghề cá:

Khi nói đến nghề cá ở Vĩnh Hưng thì ta thường nghe câu nói cửa miệng của người dân làm nghề cá ở miệt này:

” khôn giăng  mồi chạy

dại giãy mồi trùn.

khùng thì đặt trúm”.

Giải thích:

          Giăng câu mồi chạy thì người giăng câu không phải vạch luồng, mà do luồng của người giăng câu mồi trùn vạch sẳn, mồi thì móc vào lúc chiều, trời chưa tối.

          Giăng câu mồi trùn thì mỗi ngày người giăng câu phải vạch luồng mới, mồi phải móc vào lúc trời tối không thấy đường.

          Đặt trúm thì phải lội hoặc chống xuồng vào trong cỏ, mồi thì rất hôi thối.

Do nguồn lợi cá ở đây rất phong phú nên nghề đánh bắt cá cũng có nhiều hình thức:

 Nghề lọp:

Lọp là ngư cụ quan trọng và dùng đặt cá phổ biến trên đồng, với nguyên tắc đặt ngược nước. Có 2 cách đặt: hoặc đặt lọp lủi, tức vén cỏ đặt lọp xuống để lú đáy lọp lên cho cá vào không bị chết ngộp, hoặc đặt lọp ven tức đặt lọp có đăng, người ta thường cấm một hàng đăng dài cứ cách khoảng 4m đặt một lọp.

Lọp thường đặt bắt cá lóc, cá bống, rùa, tôm, rắn. Những người đặt nhiều, mỗi ngày giở chừng 100 lọp và cứ thế liên tiếp những ngày sau cho đến khi nào hết những lọp đã đặt, sau đó lộn ngược lại.

 Nghề lờ:

 Sau lọp, một nghề góp phần không nhỏ trong thu nhập của ngư dân vùng này phải kể đến là nghề đặt lờ.

Lờ thường đặt ở khe nước chảy, nhưng khi nước cao lên thì phải tìm hoặc tạo luồng cá đi mà đặt. Lờ bánh ú thường bắt cá sặc, cá rô…lờ ống thường để bắt cua, cá sặc…

Một người thường đặt vài trăm lờ, tuy chỉ bắt cá nhỏ nhưng với số lượng nhiều cũng thu nhập khá cao.

 Xà Di:

Xà di là ngư cụ chuyên dùng để bắt cá rô. Khi đặt xà di người ta móc một lỗ hoặc lấy gót chân ấn lỗ dưới đất, bỏ lúa vào lỗ, rồi đặt xà di dựng đứng trên lỗ. Khi cá rô vào ăn lúa xong lên ngóp sẽ chui vào xà di.

Do xà di được bện bằng dây kẽm nên việc di chuyển rất thuận lợi. Khi chở trên xuồng, nông dân lấy hom ra đè bẹp xà di xuống để chở được nhiều, không cồng kềnh, đến lúc đặt sẽ mở tròn gắn hom vào.

* Câu: Câu ở đây có nhiều dạng: câu rê, câu nhấp, câu giăng. Câu rê có cần bằng trúc dài chừng 6m, có dây dài gấp ba lần cần, lưỡi câu móc mồi nhái hoặc thằng lằn. Câu nhấp có cần cũng giống câu rê nhưng dây ngắn hơn. Câu nhấp thường câu ở bàu, đìa…

Câu giăng thường có đường giăng dài chừng một cây số. Tuỳ theo nước và cá mà móc mồi khác nhau, lưỡi câu cũng phải thay đổi.

Người giăng câu phải có kinh nghiệm, không chỉ biết lúc nào câu lưỡi câu gì, mồi gì mà còn phải biết luồng cá đi, nghe tiếng cá trê chép miệng…

 * Đặt ống Trúm:

Ống trúm là dụng cụ chuyên dùng để đặt lươn. Trúm chỉ đặt vào đầu mùa nước nổi hoặc mùa tát đìa. Vào đầu mùa nước nổi lươn theo nước ăn trùn, dế, lươn chỉ ăn ở độ sâu khoảng 2-3 tấc. Người đặt trúm phải theo nước, nước lên đến đâu đặt trúm đến đó. Đặt trúm có mồi nấu cá, nhồi với bùn đất, vo thành cục tròn, sao cho dẽo, thấm nước, tan dần. Họ phải chở ống trúm bằng xuồng hoặc bằng cộ. Một người đặt hàng trăm ống trúm, phải đặt hết trước lúc tối để sáng hôm sau giở trúm.

* Nghề ủ mắm và nấu nước mắm

 Ngày xưa hầu như nhà nào ở Vĩnh Hưng cũng có một hoặc vài khạp mắm và nước mắm cá ủ. Nhất là mắm và nước mắm cá linh.

Vào mùa lũ, cá bắt nhiều ăn tươi không hết, một phần thì phơi khô, phần thì đem rửa sạch ướp muối dùng làm mắm và nấu nước mắm cá ủ ăn dần.

Ngày nay, nghề này vẫn còn tồn tại nhưng không nhiều như trước, chỉ cá biệt trong vài hộ dân.

Tóm lại:

Ngày nay, bửa ăn của người Vĩnh Hưng đã được nâng lên cả về số lượng lẫn chất lượng. Nó tuỳ thuộc vào sự trao đổi, mua bán ở các chợ nông thôn hoặc các vụ mùa…

Trước đây, người dân Vĩnh Hưng thường sống tập trung ở dọc theo các bờ sông, bờ kênh hoặc các gò cao: Gò Măng Đa, Gò Ông Lẹt, Gò Châu Mai…nhà cửa được xây cất đơn sơ, tạm bợ.

Ngày nay, khi đến Vĩnh Hưng, các bạn sẽ thấy Vĩnh Hưng đang từng giờ thay da đổi thịt, những trường học, nhà trẻ, bệnh xá, cơ quan, nhà văn hoá và nhà cửa của dân đều được xây dựng khang trang trên nền cao hoặc cụm tuyến dân cư vượt lũ, góp phần thay đổi bộ mặt làng xã của một vùng nước ngập đồng chua.

Ngày xưa do đặc điểm của vùng là vùng ngập lũ nên phương tiện đi lại chủ yếu bằng ghe, xuồng.

Ngày nay, Vĩnh Hưng đang trên đà phát triển, đường giao thông liên ấp, liên xã được mở rộng, các tuyến đường nhựa thẳng tấp nối liền trung tâm huyện với các xã làm cho việc đi lại càng thuận tiện với nhiều phương tiện phong phú hơn.

Ở một chừng mực nào đó văn hoá Vĩnh Hưng lại là sự kế thừa của văn hoá Đồng Tháp Mười. Tuy nhiên văn hoá Vĩnh Hưng cũng mang những đặc điểm riêng, góp phần làm phong phú thêm cho nền văn hoá của  vùng. Hiện nay cùng với tiến trình tiếp nhận dân cư từ khắp mọi miền đất nước, văn hoá của Vĩnh Hưng cũng có sự đan xen của văn hoá các vùng miền chứ không “nguyên bản” như trước đây. Do đó, ngoài vịêc tiếp nhận, phát huy những đặc trưng văn hoá từ nơi khác đến, thì việc bảo tồn những nét văn hoá truyền thống của Vĩnh Hưng cũng cần được chú trọng cho cả thế hệ hôm nay và thế hệ tương lai. Để cho mỗi người con của Vĩnh Hưng dù có đi đâu về đâu hay làm gì cũng cảm thấy tự hào khi nhớ về quê hương của mình.

Vĩnh Hưng là vùng kinh tế có xu hướng ngày càng mở rộng hơn trong lưu thông hàng hoá trong toàn vùng. Các nghề thủ công đã được hình thành ngay từ những ngày đầu mở đất đai và phát triển đến nay cũng không nằm ngoài xu hướng ấy. Sự đa dạng về đặc điểm tự nhiên và môi trường sinh thái – nhân văn của Vĩnh Hưng đã sản sinh ra một số nghề tuy không hình thành nên làng nghề nhưng mang tính chất truyền thống lâu đời: ủ mắm, nước mắm, đan các dụng cụ của nghề cá, nghề đánh bắt cá…, góp phần kiến tạo một diện mạo văn hoá của huyện, trong đó có diện mạo của nghề thủ công truyền thống cần được bảo tồn và phát huy, góp phần vào việc hình thành và phát triển du lịch của địa phương, làm cho du lịch từng bước trở thảnh một trong những ngành nghề quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế của huyện nhà đế năm 2020./.​

Văn hóa ẩm thực:

ẨM THỰC

Đồng Tháp Mười của tỉnh Long An nói chung và huyện Vĩnh Hưng nói riêng được thiên nhiên ưu đãi vùng đất bạt ngàn cùng với phù sa do những con nước mang về bồi đắp vào những mùa lũ lụt hàng năm với nhiều loài thủy sản nước ngọt, động vật như các loại cá, rắn, lươn, chuột, ếch…. Từ các loại thủy sản trên, nhân dân đã chế biến ra rất nhiều món ăn mang đậm tính sáng tạo trong văn hóa ẩm thực của người dân vùng sông nước.

1. Món cá lóc nướng trui

Thịt cá lóc có thể chế biến ra nhiều món: canh chua, cá lóc kho tộ, làm món khô để biếu trong những ngày lễ, tết …nhưng ngon hơn vẫn là món cá lóc nướng trui. Đây là món ăn đặc trưng gắn liền với tính dân dã của những người dân miền sông nước. Để thực hiện món cá Lóc nướng trui cũng không cần phải qua các bước phức tạp, sau khi cá được rửa sạch rồi xuyên cá vào một cái cây được vuốt nhọn phần đầu sau đó cấm cá từ miệng tới đuôi .Tiếp theo, cá sẽ được vùi vào những đống rơm khô, hoặc được cắm xuống đất, phủ rơm lên, đốt lửa, cho đến khi tro tàn. Sau khi cá chín, người chế biến sẽ rút cá ra khỏi cây, cạo sạch những phần bị cháy, cạo cả lớp vảy trên thân cá còn lại sẽ là phần thịt cá trắng tinh, thịt cá ăn rất thơm và ngọt. Bạn nên ăn kèm cá Lóc nướng trui với muối ớt, để cảm nhận được những mùi vị khác nhau: vị cay của ớt, vị mặn của muối và vị ngọt của cá Lóc tươi ngon, cộng với  mùi thơm của cá vừa được nướng rơm xong. Bạn có thể dùng cá để cuốn rau sống, báng tráng, hoặc gói cá bằng lá sen non chấm nước mắm me, ăn nghe chát chát, nhưng rất ngon và đậm đà hương vị đặc trưng vùng Đồng Tháp Mười, mỗi cách sẽ đem lại cho bạn những cảm nhận khác nhau.

2. Các món ngon từ thịt chuột

Huyện Vĩnh Hưng có hệ sinh thái rừng tràm rậm rạp và những cánh đồng lúa bát ngát đã tạo điều kiện thuận lợi cho các loài động vật bò sát trú ngụ: rắn, lươn, ếch, chuột,…chính những loài động vật tự nhiên đó đã tạo ra những món ngon đặc trưng vùng Vĩnh Hưng.

Chuột có ở nhiều nơi nhưng ngon nhất vẫn là chuột Đồng Tháp Mười vì mỗi khi mùa nước nổi đến nguồn thức ăn phong phú nên thịt chuột rất mập và mềm. Thịt chuột có thể chế biến thành rất nhiều món: muối sả chiên, xào lá cách, nhân bánh xèo kết hợp với măng, khìa nước dừa, xào rau răm, kho, rô ti, xào lăn, nướng, quay lu, làm khô … Đặc tính của thịt chuột là nhão như các loại thịt thỏ, thịt mèo, thịt dê. Vì vậy để chế biến thịt chuột được ngon là sau khi làm và rửa sạch phải để cho thịt thật ráo, rỏ hết nước, thịt săn rồi mới ướp gia vị và chiên hoặc nấu liền, nếu để lâu quá thịt có thể bị bủng, không dai, không ngon bằng thịt săn, mới làm. 

3. Các món ăn được chế biến từ cá linh

Mùa nước nổi, mùa bông điên điển nở vàng khắp cánh đồng, đó cũng là mùa cá linh về. Thiên nhiên chỉ ban tặng riêng cho vùng ĐBSCL loài cá đặc sản này, mỗi năm chỉ có một mùa duy nhất.

Cá linh ngon không chỉ mùi vị độc đáo, thịt ngọt, mềm thơm mà còn do nguồn gốc xuất xứ đặc biệt của nó. Cá linh sống ở vùng châu thổ sông Mekong, đến mùa nước nổi lại về với vùng Đồng Tháp Mười. Con cá linh đã in sâu trong ký ức của mỗi người dân vùng sông nước Đồng Tháp Mười là nguồn dinh dưỡng gắn liền với nhiều bữa cơm trong gia đình người dân Vĩnh Hưng mỗi khi mùa nước nổi về. Cá linh đầu mùa còn gọi là cá linh non, con nhỏ nhưng rất mềm và ngọt, nhai luôn cả xương. Cá linh được chế biến thành nhiều món ăn ngon đậm đà hương vị quê hương: lẩu mắm cá linh, canh chua cá linh nấu với bông điển điển, cá linh nhúng giấm, cá linh kho lạt kèm với me non, cá linh chiên bột, …với món cá linh hấp, cá linh chiên giòn cuốn bánh tráng là món ăn được chế biến thật đơn giản nhưng mang lại cho thực khách khẩu vị khó quên: cá linh được mổ lấy ruột bỏ, không cần đánh vẩy, không bỏ đầu và chỉ cần ngâm nước muối cho sạch nhớt. Sau đó, ướp cá với gia vị phù hợp rồi đặt cá vào nồi hấp cách thủy, lửa liu riu đến khi nước vừa cạn, cá chín, đem cá ra dĩa, cuốn bánh tráng, rau sống, chấm với nước mắm tỏi ớt hoặc mắm nêm. Cá linh chiên cuốn với bánh tráng hay lá sen non, chấm mắm me ăn kèm với các loại rau như bông súng, hẹ, các loại rau thiên nhiên khác… Ăn cá linh sau khi chiên sẽ rất dòn có vị rất riêng khiến người ăn thật khó quên. Ngoài ra, món cá linh non nấu me non chấm bông điên điển cũng là món ăn đặc trưng mang đậm sắc thái của người dân Nam bộ.

4. Chế biến món ngon từ rắn

          Vào mùa nước nổi ngoài các loài động vật: cá, ếch, chuột,… rắn cũng xuất hiện ở huyện Vĩnh Hưng rất nhiều với chủng loại đa dạng: rắn nước, rắn hổ hành, rắn bông súng, rắn trun, rắn ri voi, rắn di cá. Rắn có thể chế biến thành nhiều món ngon: rắn nấu cháo, rắn nướng, rắn xào lăn, dồi rắn,…Người ta thường nấu cháo rắn với đậu xanh ăn có tác dụng bổ, mát.

          * Rắn nấu cháo đậu xanh:

Đầu tiên làm sạch thịt rắn sau đó để cho ráo sau đó chặt thành tứng khúc hoặc để nguyên con, khi thịt chín rồi mới chặt nhỏ ra hay xé thịt.

Nấu một nồi nước, bỏ đậu xanh nấu cho mềm. Sau đó cho rắn vào nấu, nêm gia vị cho vừa ăn. 

 Khi thịt rắn chín, vớt ra, xé nhỏ rồi thả thịt vào lại nồi cháo. Để lửa riu riu để giữ cho nồi cháo có độ nóng vừa phải, khi ăn thì múc ra chén, thêm tiêu, hành, gừng.

Món cháo rắn nấu đậu xanh có mùi thơm của thịt rắn và đậu xanh, cộng thêm vị béo từ mỡ và vị ngọt từ thịt rắn thật tuyệt vời.

DI TÍCH – DANH THẮNG – DANH NHÂN

LỄ GIỖ ĐỒN LO​NG KHỐT

Như đã thành thông lệ, vào dịp sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh 19/5 hàng năm Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Long An và chính quyền, nhân dân xã Thái Bình Trung, huyện Vĩnh Hưng tỉnh Long An lại có dịp đoàn viên, sum họp, thắp nén nhang tưởng niệm đến anh linh các anh hùng liệt sĩ đã anh dũng hy sinh trên mặt trận Long Khốt (tỉnh Long An) trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam.

Những trận chiến ác liệt không cân sức với kẻ thù, nhưng với tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường, đoàn kết hiệp đồng, sát cánh cùng với dân quân, du kích và nhân dân địa phương đã anh dũng bám trận địa, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, xương máu của các anh hùng liệt sĩ hy sinh tô thắm trang sử hào hùng dân tộc, địa danh Long Khốt đã trở thành vùng đất lịch sử anh hùng. Đã có gần 1.000 cán bộ, chiến sĩ hy sinh trên địa bàn.

“Thân ngã xuống thành đất đai Tổ quốc

Hồn bay lên hóa linh khí Quốc gia”

Để tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống, từ năm 2007, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Vĩnh Hưng cùng với Bộ đội Biên phòng tỉnh Long An đã chọn ngày sinh nhật Bác 19-5 hàng năm để tổ chức lễ tưởng niệm. Đông đảo người dân tại các xã thuộc huyện Vĩnh Hưng, Tân Hưng, Mộc Hóa, TP.HCM và một số tỉnh khu vực miền Bắc đã về dự lễ tưởng niệm và thành kính dâng hương, dâng cúng lễ vật của gia đình, quê hương tưởng nhớ đến hương linh của các anh hùng, liệt sĩ.

           Ngày 19/5 hàng năm trở thành ngày hội lớn của nhân dân xã Thái Bình Trung nói riệng và huyện Vĩnh Hưng nói chung. Đây cũng là dịp để giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, đồng thời điểm tô thêm nét đẹp truyền thồng của lực lượng Biên phòng góp phần mang lại hạnh phúc cho người dân nơi biên cương và xây dựng thế trận Biên phòng toàn dân vững chắc.

LỄ GIỖ TỔ CỔ NHẠC

Trong các lễ  hội dân gian ở Vĩnh Hưng hiện nay còn có một số lễ hội rất đặc biệt, nhưng vẫn chưa được sự để ý của nhiều người, trong đó có Lễ giỗ Tổ cổ nhạc được tổ chức hàng năm tại CLB đờn ca tài tử huyện vào ngày 12 tháng 8 âm lịch.

Hàng năm cứ đến tháng 8 âm lịch, các anh chị em trong CLB đờn ca tài tử huyện chuẩn bị sẵn sàng cho ngày giỗ Tổ. Địa điểm hành lễ đặt tại nhà tài tử đờn Trần Văn Trung chủ nhiệm CLB ở khu phố Măng Đa. thị trấn Vĩnh Hưng

Lễ giỗ Tổ ngày nay được tổ chức đơn giản hơn nhiều so với những thập niên giữa thế kỷ XX trở về trước.

Trước ngày 11 tháng 8 BCN CLB tổ chức cuộc họp thống nhất về chương trình hành lễ, các bản nhạc tế lễ, hương đăng trà quả, đồ ăn thức uống; quy định về số tiền đóng góp của các thành viên; cử ra thư ký, thủ quỹ và thành lập các ban: tế lễ, tiếp tân, hậu cần…Trong ngày 11/8 người thủ quỹ sau khi nhận niên phí hoặc các lễ vật của các thành viên đóng góp giao lại cho ban hậu cần, sáng ngày 11 ban này cử người đi chợ để mua sắm các thứ cần dùng, đêm hôm đó họ bắt đầu nấu nướng, ban tế lễ cũng có mặt để chỉ đạo trang trí bàn thờ Tổ, sắp xếp nơi hành lễ, chuẩn bị nơi tiếp khách…

Sáng ngày 12 tháng 8 ban tiếp tân đã có mặt thật sớm, chuẩn bị trà nước sắp đặt bàn ghế, phụ giúp ban tế lễ để dâng cúng hoa quả rượu trà do khách mang tới. Ban tiếp tân còn phụ trách cả việc bưng mâm để tế lễ.

Trên bàn thờ Tổ không có ảnh tượng mà chỉ có một bài vị ghi bốn chữ Cổ Nhạc Tổ Sư bằng chữ Hán. Phía trước là một bát hương to, hai bên có bày chân đèn với cặp nến thắp sáng, trên bàn thờ bày ngũ quả và hương hoa, hai bên bàn thờ treo các loại nhạc khí như: đàn kìm, đàn sến, đàn gáo, đàn cò, đàn tranh, đàn độc huyền, đàn lục huyền… phía trước bàn thờ là một cái bàn thấp để dọn cúng thức ăn, phía trước là một khoảng trống lớn có trải đệm hoặc chiếu để tế lễ.

Khoảng 10 giờ bắt đầu hành lễ. Người dự lễ đa số là các nghệ nhân, nghệ sĩ, tài tử địa phương và một số ít những người hâm mộ. Mọi người đứng trước bàn thờ bắt đầu thực hiện các nghi thức như: dâng hương, dâng hoa, dâng ngũ quả, dâng bánh, dâng giấy tiền, dâng rượu…  và cầu cho quốc thái dân an. Sau khi tế lễ, mọi người lui về vị trí của mình và cùng ngồi xuống. Tiếng đàn cò hòa cùng các loại đàn sáo mở đầu một bản nhạc lớn; một người được chọn trước bước ra quỳ trước bàn thờ Tổ lạy ba lạy, xong lại cất tiếng ca để hòa với điệu đàn; bản mở đầu này thường là Lưu thủy trường – bản thứ nhất của 20 bản Tổ; buổi lễ tiếp tục bằng sự hòa tấu một số bản trong 19 bản Tổ còn lại là: Phú lục, Bình bán, Xuân tình, Tây thi, Cổ bản, Xàng xê, Ngũ đối thượng, Ngũ đối hạ, Long đăng, Long ngâm, Vạn giá, Tiểu khúc, Nam xuân, Nam ai, Đảo ngũ cung, Tứ đại oán, Phụng hoàng, Giang nam, Phụng cầu. Chấm dứt phần lễ hiến Tổ mọi người đứng dậy nghiêm trang bái Tổ.

Sau khi cúng tế, các món ăn lại được dọn ra, những người tham dự vừa ăn vừa uống vừa hòa tấu tiếp tục. Giai đoạn này những người tấu nhạc thực hiện các nhạc bản canh tân, các bài vọng cổ…

Khoảng 2 giờ chiều, buổi lễ chấm dứt, mọi người hướng về linh vị Tổ bái ba bái, sau đó cùng nhau dọn dẹp và tuần tự ra về vui vẻ.

Nói tóm lại Lễ giỗ Tổ cổ nhạc ngày 12 tháng 8 âm lịch được tổ chức hàng năm tại thị trấn Vĩnh Hưng là một lễ hội nhỏ còn mang đậm tính địa phương nhưng đã thu hút đông đảo nghệ nhân, tài tử khắp nơi (Tân Hưng, Mộc Hóa, Kiến Tường, Tân Thạnh, Đồng Tháp)..về hội tụ và là nơi cung cấp những tài liệu quý báu, khó tìm về cổ nhạc cho những người làm công tác văn hóa.

 

LỄ CÚNG RẰM THÁNG GIÊNG

Theo âm lịch, ngày 15 tháng Giêng, ngày rằm trăng tròn đầu tiên của một năm mới. Ngày này còn được gọi là ngày tết Thượng Nguyên

Theo truyền thống văn hóa của cư dân nông nghiệp lúa nước vụ mùa gieo trồng thường được bắt đầu vào khoảng 15 tháng giêng, sau một thời gian dài nghỉ tết Nguyên Đán. Người nông dân bắt đầu công việc đồng áng và bắt đầu một vụ mùa, cho nên họ đốt rạ, khai hoang, và hạ điền. Trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam nét văn hóa này thể hiện rất rõ với ba vụ mùa trong năm “Rằm tháng giêng ai siêng thì quảy, rằm tháng bảy kẻ quảy người không, rằm tháng mười, mười người mười quảy”; hay câu: “Tháng Giêng là tháng ăn chơi, tháng Hai trồng đậu, tháng Ba trồng cà…”. Ngày Rằm tháng Giêng từ lâu đã trở thành một trong những ngày lễ quan trọng của các gia đình Việt Nam nói chung, người dân Vĩnh Hưng nói riêng, có thể nói những ngày lễ này đã hòa quyện giữa văn hóa truyền thống và Phật giáo.

Với quan niệm “Lễ quanh năm không bằng ngày Rằm tháng giêng”, phần lớn các gia đình đều sắm sửa tươm tất mâm cơm để dâng cúng gia tiên trong ngày này, với ước vọng khởi đầu một năm mới ấm no, hạnh phúc. Ngoài mâm cơm cúng gia tiên, xu hướng chọn đến chùa lễ phật để cầu mong một năm mới bình an và hạnh phúc cũng được nhiều người, trong đó có không ít các bạn trẻ lựa chọn. 

Lễ rằm tháng Giêng còn mang ý nghĩa cầu quốc thái dân an, cầu  an lành, khỏe mạnh, no đủ, thịnh vượng và phát triển cho nhân dân và đất nước. Đây cũng là tín hiệu tốt, thể hiện rõ nét tinh thần Đạo pháp và Dân tộc. Cũng xuất phát bởi ý nghĩa thiêng liêng đó, mà trong và trước ngày này  hàng ngàn tín đồ, phật tử cùng đông đảo khách thập phương từ khắp nơi về dâng lễ đầu năm tại Chùa Nổi (Cổ Sơn Tự)  nhằm cầu phúc cho bá tánh nhân dịp đầu năm với sự mong mõi thịnh vượng quanh năm. Tại ngôi chùa này , không khí rằm tháng Giêng diễn ra hết sức sôi nổi nhưng cũng đầy trang nghiêm, việc đi lễ đầu năm của các phật tử đã trở thành nét truyền thống, khi đến dâng hương chỉ được sắm các lễ chay: Hương, hoa tươi, quả chín, oản phẩm, xôi, chè… Không được sắm sửa lễ mặn như cỗ tam sinh (trâu, dê, lợn), thịt gà, giò, chả… Không sắm sửa vàng mã, tiền âm phủ để dâng cúng Phật tại chùa. 

Lễ Tết Thượng Nguyên – ngày rằm tháng Giêng là một phong tục mang nhiều ý nghĩa và là nét sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc được duy trì từ nhiều đời nay. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, phong tục này vẫn được các thế hệ người dân Vĩnh Hưng gìn giữ và phát huy.         

LỄ VU LAN (CÚNG RẰM THÁNG 7)

Một trong những ngày lễ lớn của Phật giáo đã sớm chuyển mình thành ngày lễ có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói chung, người dân Vĩnh Hưng nói riêng, đó là ngày lễ Vu Lan. Vào ngày này, hàng ngàn tín đồ phật tử và chư khách thập phương từ khắp nơi hội tụ về ngôi Cổ Sơn Tự (Chùa Nổi) – Vĩnh Hưng để dâng hoa cúng Phật và cũng chính là thể hiện lòng tri ân, báo ân của những người con đối với hai đấng sinh thành và tiếp nối truyền thống quý báu “Uống nước nhớ nguồn” từ ngàn đời nay của dân tộc, làm sôi động cả một vùng quê sông nước.

Vu lan hay còn gọi là Tết Trung nguyên còn được gọi là lễ xá tội vong nhân. Vào ngày này, mọi tù nhân ở địa ngục đều được xá tội, được lên dương gian. Theo tín ngưỡng dân gian, là ngày mở cửa ngục, các vong nhân được xá tội nên có lễ cúng cô hồn (vào buổi chiều) cho các vong linh không nhà cửa, không nơi nương tựa, không có thân nhân trên dương thế thờ cúng.

Vu lan báo hiếu là lễ hội văn hóa tâm linh có mặt lâu đời trong truyền thống của dân tộc ta. Ý niệm Vu lan trở thành tâm thức của mỗi người và trở thành lễ hội của tình mẫu tử, phụ tử thiêng liêng. Lễ hội Vu lan còn là lễ hội của lòng tri ân, báo ân của hai đấng sinh thành và cũng là truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc.

Cũng trong lễ này, mỗi người đều được cài một đóa hồng lên ngực”: nếu ai đó còn mẹ sẽ được cài một bông hoa màu hồng lên áo. Ai đã mất mẹ thì cài hoa trắng. Người cài hoa trắng sẽ thấy như một sự nhắc nhở, sẻ chia, không bao giờ quên ơn cha mẹ. Người được hoa hồng sẽ sung sướng vì biết rằng mình còn có mẹ

Đây cũng là dịp để mỗi người gửi lời “tạ ơn cha đã cho con thấy núi rất cao và biển rất tuyệt vời, tạ ơn mẹ đã cho con hơi thở và trái tim nhân ái để làm người”.

“Tháng 7 về, mang theo lời nhắc nhở mỗi người chúng ta nhớ về mùa báo hiếu báo ân, ai sinh ra cũng có cội nguồn, cha mẹ, có tấm thân hình hài bé nhỏ và được xã hội nuôi dưỡng nên người, ai ai cũng muốn là một điều gì đó tốt lành, nhiều điều phúc thiện với tất cả tâm thành cầu nguyện cho cha mẹ hiện đời được bình an, hạnh phúc, cha mẹ đã mất được nhẹ nhàng, an vui nơi cõi Phật. Cùng với nghĩa tri ân, gửi đến sự hi sinh ngang trời biển của cha mẹ, hãy dành tặng lời tri ân đến các mẹ Việt Nam anh hùng hòa với trọn cùng ân giang sơn gấm vóc, ân Tổ quốc.

Hàng ngàn năm qua, lễ Vu lan báo hiếu là một trong những ngày lễ có sức sống văn hóa và mãnh liệt nhất trong đời sống tinh thần của người Việt.

Ngày lễ Vu lan báo hiếu của Phật giáo đã trở thành một ngày lễ mang đậm nét nhân văn, ngày càng được tô bồi đẹp đẽ, càng ngày làm sáng hơn đạo lí đền ơn đáp nghĩa của dân tộc và con người Vĩnh Hưng.​

DI TÍCH CẤP QUỐC GIA GÒ Ô CHÙA

Di tích khảo cổ học Gò Ô Chùa, tọa lạc tại ấp 2, xã Hưng Điền A, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An, cách biên giới Việt Nam- Campuchia khoảng 2 km là một gò đất gồm 3 đỉnh (Gò giữa (gò lớn nhất): 28.246 m2; Gò nhỏ 1: 6000 m2, nằm về hướng Đông Bắc so với Gò giữa nối liền với Gò giữa, trông xa Gò giữa và Gò nhỏ này giống như một Gò có 2 đỉnh; Gò nhỏ 2: 2000 m2 (nằm về hướng Tây Nam so với Gò giữa và rời với gò này) , nổi cao hơn so với mặt ruộng xung quanh khoảng 3m. Dấu tích khảo cổ học chủ yếu là gốm, xuất lộ khắp mặt gò với diện tích gần 6 ha. Gò Ô Chùa được cán bộ bảo tàng Long An phát hiện và năm 1986.

Tháng 5/1997, Bảo tàng Long An phối hợp với Bảo tàng lịch sử Việt Nam tổ chức cuộc khai quật Di tích khảo cổ học Gò Ô Chùa. Qua khai quật thu thập được những hiện vật như: xương, răng động vật, các mộ còn dấu tích di cốt người, các mộ vò có di cốt trẻ em; dọi xe chỉ; nhiều đồ gốm và mãnh gốm chạc ba với kích thước và hình dáng trang trí; nhiều công cụ sắt; hạt chuỗi đá quý, lục lạc và vòng đồng; mãnh khuôn đúc và nồi rót kim loại; nhiều vỏ trấu và hạt lúa.

go%20o%20chua - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưngclip image002 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng 

Hố khai quật di tích Gò Ô Chùa, xã Hưng Điền A, huyện Vĩnh Hưng, Long An.

go%20o%20chua%201 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưngclip image004 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng 

Di vật tìm thấy ở di tích Gò Ô Chùa, xã Hưng Điền A, huyễn Vĩnh Hưng tỉnh Long An.

Năm 2004, tiếp tục khai quật và tìm thấy một tượng người, không còn thân, chỉ còn lại phần đầu, tuy tượng không còn nguyên vẹn nhưng dưới góc độ mỹ thuật, đây là một pho tượng đẹp (ảnh 1 và 2). Về kích thước, đầu tượng này có chiều cao 6,6 cm, chiều rộng tại thái dương là 4,4 cm, chiều rộng của vương miện là 5,3 cm, chất liệu đồng thau, bề dày lớp áo đồng là 1,4 mm, cốt tượng gồm có cát mịn và than vữa, tượng được chế tác theo kỹ thuật: cốt, tượng cốt mẫu, khuôn áo. Qua quan sát, tượng cốt được thể hiện rất chuẩn, phần làm nguội công phu, chi tiết chứng tỏ trình độ mỹ thuật và kỹ thuật chế tác đồng đạt ở trình độ cao. Về chi tiết tạo hình, đây là đầu một tượng nam giới, có sọ nở với khuôn mặt hình trái xoan, đầu đội vương miện (nơi đỉnh đầu có vết vỡ của phần chóp của vương miện), tượng có đôi mắt khép hờ, cung chân mày nhô cao và giao nhau ở phần trên sống mũi, tượng có mũi hơi rộng, sống mũi thẳng, miệng mĩm cười với đôi môi hơi dày, đôi tai dài nhưng đã bị gãy mất phần cuối của thùy tai. Qua nghiên cứu và đối sánh tư liệu, có thể đoán định đây là đầu một tượng Phật bằng đồng thau, tạo dáng theo phong cách Thái Lan (Siamoise). Có thể so sánh đầu tượng Phật Gò Ô Chùa với hai tác phẩm tượng Phật cổ của Thái Lan: thứ nhất là đầu tượng Phật đội vương miện (ảnh 3), bằng đồng thau mạ vàng, cao 34,5 cm, thuộc thời kỳ Ayuthia (thế kỷ 15-16), đang được trưng bày tại Bảo tàng Volkerkunde – Munich (CHLB Đức); thứ hai là pho tượng Đức Phật đứng với trang sức hoàng tộc (ảnh 4), bằng đồng thau với lớp pa-tin màu rỉ đồng, cao 39 cm, thuộc phong cách Ayuthia (thế kỷ 15-16), thuộc Sưu tập Stoker – Amsterdam (Hà Lan).

Việc phát hiện hiện vật đầu tượng Phật ở Gò Ô Chùa đã góp phần cho việc tìm hiểu lịch sử phát triển và giao lưu của cư dân cổ ở đây trong quá khứ, mà vào thuở ấy, tượng bằng đồng thau rất hiếm hoi ở vùng đất này.

go%20o%20chua%202 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng                        Đầu tượng Phật Gò Ô Chùa, đồng thau cao 6,6 cm

go%20o%20chua%203 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng

Đầu tượng Phật đội vương miện, đồng thau mạ vàng, cao 34,5 cm  Pho tượng Phật đứng với trang sức hoàng tộc, đồng thau với lớp Patin màu rỉ đồng, cao 39 cm

Qua khai quật phát hiện và thu thập những hiện vật, có thể xác định Di tích khảo cổ học Gò Ô Chùa thuộc văn hóa Óc Eo ở vùng Đồng Tháp Mười. Gò Ô Chùa  thuộc nhóm những di tích tiền sử ở vùng trũng Đồng Tháp Mười “Văn hóa tiền sử ở đây không tĩnh lặng và không biến mất đột ngột và theo dòng thời gian nó đã tiến hóa những loại hình mới trong giai đoạn chuyển tiếp mà thật sự là giai đoạn hình thành văn hóa Óc Eo từ vài thế kỉ trước công nguyên đến vài thế kỉ sau công nguyên”.

Di tích khảo cổ học Gò Ô Chùa đã được xếp hạng di tích lịch sử- văn hóa cấp quốc gia tại Quyết định số 02/2004/QĐ-BVHTT ngày 19/01/2004 của Bộ Văn hóa và Thông tin .

DI TÍCH KHẢO CỔ HỌC LÒ GẠCH

 

Di tích khảo cổ học Lò Gạch: tại ấp Lò Gạch, xã Vĩnh Trị. huyện Vĩnh Hưng, có niên đại  lần lượt từ 2.800 năm đến 2.750 năm cách ngày nay.

Trong quá trình khai quật, các nhà khoa học đã phát hiện nhiều nền nhà cổ với nhiều lỗ cột, trong từng lớp nền nhà phát hiện vỏ trấu, than và các lớp lá dừa in rõ trên nền đất. Điều đó chứng tỏ người cổ có thể đã biết trồng lúa nước và sử dụng lá dừa nước cho việc dựng nhà ở. Ngoài ra, còn tìm thấy nhiều bi gốm, mảnh gốm vụn,”chạc gốm” các lớp của nền nhà cổ, mảnh vòng tay bằng xương và đá, công cụ bằng xương… Đặc biệt, trong tầng văn hóa phát hiện một mộ đất với biên và thành mộ rõ ràng, chắc trong nền đất cứng, di cốt còn nguyên vẹn, chiều cao trung bình khoảng 1,5m, dưới cánh tay phải phát hiện một “nút áo” bằng kim loại, theo các nhà chuyên môn di cốt được phát hiện có thể là một phụ nữ.

    Ngoài ra còn phát hiện các lớp đất cháy, than tro, xương động vật, gốm và nhiều đống rác bếp trong tầng văn hóa. Hiện vật thu được gồm: rìu đá, đục đá, bi gốm, công cụ xương, gốm ghè tròn, gốm có lỗ, vòng tay bằng đá, …

Di tích khảo cổ học Lò Gạch được UBND tỉnh Long An công nhận là di tích khảo cổ học tại Quyết định 1101/QĐ-UBND, được công nhận 02/4/2013.

clip image002 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưnglo%20gach - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng
 Toàn cảnh di tích Lò Gạch, xã Vĩnh Trị, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An
clip image004 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưnglogach - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng clip image006 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưnglogach%201 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng 
Cảnh khai quật tại di tích Lò Gạch   Xử lý mộ đất
clip image008 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưnglogach%202 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng  clip image010 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưnglogach%203 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng
 Di cốt người trong mộ đất  “Nút áo” được tìm thấy 
dưới cánh tay phải di cốt người
clip image012 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưnglogach%204 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng clip image014 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưnglogach%205 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng
 Rất nhiều hạt trấu
 được tìm thấy trong tầng văn hóa
 Lá dừa nước in rõ 
trên các lớp của nền nhà cổ
clip image016 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưnglogach%206 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng  logach%207 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng
 Nền nhà cổ 
được tìm thấy trong tầng văn hóa
 Chất thải động vật được tìm thấy ở hố H2
logach%208 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưngclip image020 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng logach%209 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưngclip image022 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng
 Đồ trang sức bằng đá  Mảnh vòng tay bằng đá
clip image024 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưnglogach%2010 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng clip image026 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưnglogach%2011 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng
 Mảnh vòng tay bằng đá và kim loại  Rìu đá
clip image028 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưnglogach%2012 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng clip image030 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưnglogach%2013 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng
 Công cụ bằng xương  Mảnh gốm có lổ

DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỒN LONG KHỐT

 Sừng sững trên tuyến đầu biên giới Tây Nam Tổ quốc, đồn Long Khốt tọa lạc tại ấp Trung Chánh, xã Thái Bình Trung, Đông Bắc huyện Vĩnh Hưng, được thành lập ngày 10-08-1975, phiên hiệu là 773 thuộc Công an vũ trang, sau đổi thành 885, thuộc Bộ Tư lệnh biên phòng Long An, nay là Đồn biên phòng Long Khốt, nằm cách đường biên giới khoảng 700m, phụ trách đoạn biên giới dài 18,2 km, sâu 10 km thuộc 3 xã Thái Trị, Thái Bình Trung và Tuyên Bình.

        Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Long Khốt là một trong những địa danh lịch sử. Nơi đây địch từng đặt chi khu quân sự của quận Tuyên Bình (huyện Vĩnh Hưng và Tân Hưng ngày nay), là nơi diễn ra nhiều trận đánh ác liệt của Sư đoàn 5 anh hùng, trong đó có trận đánh giải phóng chi khu ngày 28-4-1975 lịch sử.

            Cách nay 36 năm, cán bộ, chiến sĩ đồn Long Khốt đã ghi vào lịch sử Bộ đội biên phòng Long An một chiến công oanh liệt: Suốt 43 ngày đêm (14-01-1978 đến 27-02-1978) kiên cường dũng cảm bảo vệ chốt tiền tiêu này của Tổ quốc trong cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Thành tích ấy đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận bằng danh hiệu ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN; được UBND tỉnh Long An xếp hạng di tích lịch sử ngày 27-2-1997 tại Quyết định Số 500/QĐ.UB.

          Di tích lịch sử Long Khốt hiện đang được lập hồ sơ đề nghị nâng cấp di tích lịch sử cấp quốc gia.

long%20khot - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng 

 Sau năm 1975, trước tình hình tập đoàn Pôn Pốt-Iêng Xary gây chiến ở biên giới Tây Nam, toàn tuyến biên giới Long An-Sây-riêng được tăng cường chỉ đạo, chỉ huy, bổ sung lực lượng, bố phòng, xây dựng kế hoạch và phương án sẵn sàng chiến đấu. Ngày 31-12-1977, Thường vụ Tỉnh ủy họp hạ quyết tâm giữ đồn Long Khốt vì đây là vị trí xung yếu, nếu mất, thị trấn Mộc Hóa và gò Măng Đa (thị trấn Vĩnh Hưng ngày nay) sẽ bị cô lập. Với địch, đây là vị trí bàn đạp để gây áp lực trên toàn tuyến biên giới. Chính vì thế, Ban chỉ huy Quân sự tỉnh Long An đã điều động 45% quân số tập trung cho mặt trận Long Khốt. Đồn được hỗ trợ bởi đại đội I,III Công an nhân dân vũ trang, một trung đội trinh sát vũ trang, tiểu đoàn 504, tiểu đoàn 2 trung đoàn Vàm Cỏ và quân dân hai xã Thái Bình Trung,Thái Trị. Chỉ huy phó Bộ Chỉ huy tiền phương Nguyễn Văn Quang trực tiếp chỉ huy mặt trận này. Riêng lực lượng tại chỗ của đồn là 60 cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân vũ trang, do các đồng chí Hoàng Văn Ky (sau đó là Nguyễn Hữu Nòi) làm đồn trưởng và Hoàng Văn Thi làm chính trị viên. Đồn được bố phòng với lũy đất xung quanh cao 1,5m, dày 2,5m. Ngoài lũy đất là rào chống đạn B40 cao 2,5m. Ngoài lớp rào này còn có các lớp rào chống bộ binh, chống đột nhập. Ngoài cùng là giao thông hào chống xe tăng.Tại trung tâm đồn có một công sự chỉ huy, hai công sự cối 82mm, một công sự cứu thương, bốn công sự chiến đấu ở bốn góc đồn và nhiều công sự chiến đấu rải rác trên lũy đất.

        Sau khi tập trung lực lượng áp sát biên giới và tiến hành các đợt đột nhập vào đồn thăm dò, 22 giờ 15 phút đêm 14-01-1978, địch nổ súng ở hướng Tây Bắc, mở đầu cho cuộc chiến đấu gian khổ và ác liệt của các chiến sĩ đồn Long Khốt. Suốt 43 ngày đêm (14-01-1978 đến 27-02-1978), bọn phản động Pôn Pốt-Iêng Xary đã huy động lực lượng lớn (có lúc lên đến cấp trung đoàn) bao vây đồn Long Khốt, tập trung hỏa lực (cối 82mm,105mm,DKZ) mở nhiều đợt tấn công, đột kích, hòng tiêu diệt vị trí tiền tiêu quan trọng này, âm mưu lấn sâu vào nội địa làm bàn đạp cô lập khu vực Mộc Hóa và gò Măng Đa.Trong tương quan lực lượng địch hơn ta gấp nhiều lần, đồn phải chịu hàng ngàn quả đạn pháo, hàng chục đợt tập kích của địch, bị bao vây, cô lập, thiếu lương thực, nước uống, thuốc men, phải chôn cất tử sĩ trong đồn, điều trị thương binh tại chỗ…, nhưng cán bộ, chiến sĩ đồn Long Khốt vẫn kiên cường, vững chắc trên từng vị trí của mình, chiến đấu dũng cảm, quyết bảo vệ từng tấc đất thân yêu của Tổ quốc.Qua 43 ngày đêm chiến đấu, các chiến sĩ đồn Long Khốt đã bẽ gảy 21 đợt tấn công của địch, tổ chức chiến đấu 28 trận, tiêu diệt tại chỗ 55 tên, bắn bị thương nhiều tên khác, thu nhiều chiến lợi phẩm…, góp phần bảo vệ cuộc sống của hàng vạn đồng bào và thành quả của Đảng bộ và nhân dân các huyện biên giới.

        Chiến công trên của cán bộ, chiến sĩ đồn Long Khốt đã tô thắm truyền thống vẻ vang của Bộ đội biên phòng Long An, góp phần vào thắng lợi trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của tỉnh, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

        Ngày 22-12-1979 đồn Long Khốt được Nhà nước phong tặng danh hiệu ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN. Chủ tịch Nước Tôn Đức Thắng tặng lẳng hoa cho Đồn và 57 huân chương chiến công cho tập thể và cá nhân cùng nhiều bằng khen./.

DI TÍCH LỊCH SỬ GÒ ÔNG LẸT

Gò Ông Lẹt tại ấp Ông Lẹt, xã Vĩnh Thuận, đây là nơi có gò đất cao diện tích khoảng 110ha. Là di tích lịch sử ghi dấu chiến công chống xâm lược của quân đội ta trên chiến trường Long An nói chung và Kiến Tường nói riêng, thời kì 21 năm đánh Mỹ – diệt Ngụy.

go%20ong%20let - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưngclip image002 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng 

Tháng 9 năm 1965, Mỹ đã lập căn cứ biệt kích dã chiến cấp đại đội do 4 cố vấn Mỹ chỉ huy tại đây để chốt chặn con đường chiến lược của ta từ biên giới xuống chiến trường Khu 8.

Với quyết tâm đánh bại ý đồ thâm độc của địch, đêm 16 rạng 17 tháng 11 năm 1965, đại đội cơ động tỉnh Kiến Tường phối hợp với Phân đội đặc công thuộc đại đội 918, đơn vị 408 địa phương quân vùng 8 và du kích các xã: Vĩnh Thạnh, Vĩnh Lợi, Tuyên Bình tổ chức trận tập kích đơn vị nầy.Sau 45 phút chiến đấu,ta đã chiếm lĩnh trận địa, diệt và làm bị thương  80 tên biệt kích ( có 2 tên cố vấn Mỹ bị trọng thương ), bắt sống 10 tên, thu 51 súng (1 cối 81 ly, 2 cối 60 ly, 14 trung liên, 34 súng trường), 1 thuyền máy, 3 máy PRC 25 cùng chiều chiến lợi phẩm khác.

Chiến thắng này đánh dấu một bước phát triển của lực lượng vũ trang tỉnh Kiến Tường, là trận đầu tiên đánh bại một đại đội biệt kích do cố vấn Mỹ trực tiếp chỉ huy, bẻ gãy hoàn toàn chiến thuật đột kích, phục kích cùng kế hoạch ngăn chặn hành lang và phòng thủ từ xa của địch trong mùa nước nổi, giữ vững hành lang chiến lược, tạo khí thế và gây tiếng vang lớn để thúc đẩy phong trào cách mạng trên vùng Đồng Tháp Mười, tạo điều kiện cho nhân dân trong các ấp chiến lược đấu tranh trở về ruộng vườn cũ sinh sống, buộc địch phải co cụm, cố thủ trong đồn bốt, không còn hung hăng như trước. Chiến thắng Gò Ông Lẹt đã góp phần làm cho kế họach “bình định” của địch bị phá sản, chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ bị thất bại, đại bộ phận nông thôn đã được giải phóng.

          Để tuyên dương chiến công oanh liệt này, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam đã tặng huân chương chiến công giải phóng hạng nhất cho các đơn vị đã chiến đấu anh dũng trong trận này.

          Với ý nghĩa ấy, Gò Ông Lẹt được UBND tỉnh xếp hạng là di tích lịch sử – văn hoá cấp tỉnh tại Quyết định số 500/QĐ.UB ngày 27/2/1997./.

DI TÍCH VĂN HÓA GÒ CHÙA NỔI

Gò Chùa Nổi hay còn gọi là Cổ Sơn Tự được xây dựng đầu thế kỷ XX, cách thành phố Tân An khoảng 100km về phía Tây Nam. Ngôi chùa cổ này do thiền sư Thiện Nhiêu tạo dựng vào năm 1823, giữa vùng Đồng Tháp Mười bao la, rộng lớnNơi đây còn là di chỉ khảo cổ học bởi nhiều hiện vật thời tiền sử, thuộc văn hóa Óc Eo. các nhà khảo cổ đã đào thám sát và phát hiện được nhiều hiện vật có giá trị như: gốm, công cụ bằng xương, di cốt động vật…Cổ Sơn Tự được Ủy ban nhân dân tỉnh Long An công nhận là di tích lịch sử – văn hóa ngày 28/12/2004 tại Quyết định số 5146/QĐ-UB.

chua%20noi - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưngclip image002 - Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Hưng 

Di tích Cổ Sơn Tự (tên dân gian là chùa Nổi) thuộc ấp Cả Bản, xã Tuyên Bình huyện Vĩnh Hưng, nằm sát hữu ngạn Sông Vàm Cỏ Tây, cách Thị Trấn vĩnh Hưng 9km về phía đông nam, toạ lạc trên gò đất cao 3,5m, có dạng tròn với đường kính khoảng 100m.

Di tích khảo cổ này là một di tích cư trú thời tiền sử được tiếp nối bởi một giai đoạn thuộc văn hoá Óc Eo với dấu tích của một kiến trúc văn hoá Óc Eo nằm bên trên.

Di tích này được phát hiện năm 1996, là một di chỉ cư trú lớn của người tiền sử, chứa đựng nhiều hiện vật có giá trị khảo cổ và niên đại cách ngày nay 2.500 đến 2800 năm.

Gò chùa Nổi là cơ sở cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, là trận địa pháo đài phục vụ cho chiến tranh biên giới Tây Nam 1978, góp phần viết nên thành tích anh hùng của xã Tuyên Bình, huyện Vĩnh Hưng trong công cuộc chống ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc của tỉnh Long An. Ngoài ra Gò Chùa Nổi còn chở che cho nhân dân quanh vùng trong những năm lũ lớn tràn về.

Vào mùa nước lũ, khắp nơi đều là nước, nhưng ngôi chùa cổ này được xây dựng trên một gò đất cao, nổi lên như một ngọn núi, chưa hề bị ngập nước nên nhân dân quanh vùng quen gọi là Gò Chùa Nổi, điều này đã thu hút sự hiếu kỳ của du khách. Ngoài ra theo dân gian quanh vùng thì tên “Chùa Nổi” còn xuất phát từ một truyền thuyết nước dâng đến đâu, chùa nổi đến đó. Gò này được dân gian xem như là một ngọn núi với những chòm cây cổ thụ uy nghiêm và ngôi chùa cổ kính. Chữ “cổ” (cổ thụ), “sơn” (núi) và “tự” (chùa) xuất hiện với ý nghĩa đó. Ngoài hai tên gọi trên, chùa còn có tên gọi là chùa Trôm bởi từ lúc lập dựng ngôi chùa đã có 3 cây trôm cổ thụ.

Tuy trải qua bao lần bị tàn phá, huỷ hoại bởi chiến tranh, chùa nổi đã được kiến tạo lại hoàn toàn theo kiểu dáng truyền thống, vẩn trang nghiêm, cổ kính bên con sông Vàm Cỏ Tây hiền hoà và giữa vùng Đồng Tháp Mười mênh mông tràm lúa. Đứng bên bờ Đông sông Vàm Cỏ Tây nhìn sang, mặc dù tháng 11 nước đã rút gần cạn Gò Chùa Nổi vẫn như nổi lên từ đồng nước, nước cao sát mép tam cấp của cổng tam quan chùa, ngôi chùa thấp thoáng dưới những chòm cây cổ thụ. Ngoài những cây cảnh, bồ đề còn có những cây cổ thụ trên 200 năm tuổi như trôm, sao, dầu… góp phần tạo thêm nét cổ kính cho ngôi chùa.

Chùa có kiến trúc theo lối cổ truyền chữ tam, mái ngói, mặt dựng nhưng được xây cất bằng các vật liệu hiện đại như bê tông, cốt sắt ở rường cột, rui mè… và các trang trí khác trong và ngoài chùa.

Cổng tam quan quay mặt ra hướng đông sông Vàm Cỏ Tây. Cổng có mái ngói tây, cột bê tông. Trên mái cổng chính trang trí đôi rồng chầu bánh xe luân hồi, trên bảng cổng chính có viết chữ bằng sơn ” cổ sơn tự” bằng chữ Hán và chữ Việt. Hai mặt chính diện của cột cổng chính có viết bằng sơn đôi câu đối chữ Hán, phần trên hai cổng tả hữu phần kề mái có trang trí theo lối chấn song.

Cũng như các ngôi chùa khác ở Nam bộ, cấu trúc của Chùa Nổi cũng gồm có  ba phần: chánh điện, hậu tổ, hậu đường.

Chùa Nổi thuộc phái Nam Tông nhưng hệ thống tượng thờ chính được đặt trong chùa Nổi không khắc khe theo giáo phái mà mà tượng thờ Phật ở đây phong phú và xen lẫn các tượng thờ theo tín ngưỡng(bà chúa Xứ, Thần, Ông Tà) đó cũng là phong cách bản địa hoá của một số ngôi chùa Phật ở Nam bộ.

Do chiến tranh huỷ hoại, chùa Nổi không còn lưu giữ được các pho tượng cổ nào, trừ pho tượng Phật bằng đá thuộc vào giai đoạn Óc Eo cao khoảng 35cm. Đây là pho tượng được thu thập từ gò Chùa Nổi và được lưu giữ đến ngày nay.

 Năm 2014 Chùa Nổi được phép trùng tu Đại hùng bảo điện. Sau 02 năm thi công, năm tháng 7/2016 Chùa Nổi đã làm lễ khánh thành trong vô vàn niềm vui sướng của đồng bào Phật tử. Cảnh quang nơi đây tuyệt đẹp, thu hút đông đảo du khách và đòng bào Phật tử đến lễ Phật và thưởng ngoạn./.​

DI TÍCH LỊCH SỬ:

“SÔNG VÀM CỎ TÂY ĐOẠN TUYÊN BÌNH” – ĐỊA ĐIỂM GHI DẤU CHIẾN CÔNG OANH LIỆT CỦA ĐẠI ĐỘI ĐẶC CÔNG KIẾN TƯỜNG TRONG TRẬN TIÊU DIỆT 25 TÀU CHIẾN CỦA ĐỊCH BẺ GÃY TUYẾN HẠM ĐỘI NỔI TRÊN SÔNG VÀM CỎ TÂY NGÀY 24-29/6/1970 (Tại xã Tuyên Bình Tây- huyện Vĩnh Hưng- Long An)

 

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ ngày 24 đến 29/6/1970 trên sông Vàm Cỏ Tây đoạn chảy qua xã Tuyên Bình Tây, trung đội I của đại đội đặc công 918 thuộc Tỉnh đội Kiến Tường đã làm nên một kỳ tích oanh liệt tiêu diệt 25 tàu chiến của địch góp phần lớn lao vào việc b gãy tuyến hạm đội trên sông Vàm Cỏ Tây khai thông tuyến hành lang chiến lược về quân khu 8.

Ngày nay chiến công ấy đã gắn liền với tên sông, nơi đây mãi mãi đi vào lịch sử.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968 đã làm cho chiến lược chiến cục bộ bị phá sản hoàn toàn. Giôn-xơn phải từng bước xuống thang chiến tranh, tuyên bố chấm dứt hoàn toàn việc ném bom đánh phá ở miền Bắc, ở miền Nam thì:”Phi Mỹ hoá” cuộc chiến. Từ bỏ chiến lược “tìm diệt” sang chiến lược “quét và giữ”, lấy bình định cấp tốc làm nội dung chủ yếu.

Di tích ” Sông Vàm Cỏ đoạn Tuyên Bình”  là Di tích lịch sử ghi dấu chiến công xâm lược khắc ghi chiến tích. Nơi đây là địa điểm đại đội đặc công Kiến Tường bẻ gãy tuyến hạm đội nổi trên sông Vàm Cỏ Tây của Mỹ-Ngụy góp phần lớn vào sự nghiệp thống nhất đất nước, được UBND tỉnh Long An ra Quyết định Số 500/QĐ.UB công nhận là di tích ngày 27-2-1997.

Trận đánh tàu trên sông Vàm Cỏ Tây diễn ra trong 6 ngày từ 24 đến 29/6/1970. Mỗi ngày là một trận trên mỗi địa điểm khác nhau: Rạch Bay, Rạch Cá Dừng, Doi khỉ ngủ, rạch Làng Đao, Bến Tràm và rach Bến Sấu. Đây là những địa danh nằm ở hai bên Vàm Cỏ Tây thuộc địa phận xã Tuyên Bình Tây-huyện Vĩnh Hưng. Toàn bộ khu vực này nếu tính từ thượng nguồn, thì rạch Đầu Sấu cho đến Cá Dừng dài khoảng 7 km tọa lạc trong 3 ấp: Cá Cóc, Bình Châu và ấp Đầu Sấu. Rạch Láng Đao và Rạch Bay thuộc ấp Cá Cóc; rạch Bến Tràm và rạch Cá Dừng thuộc ấp Bình Châu; Doi khỉ ngủ vàrạch Đầu Sấu thuộc ấp Đầu Sấu. Trong đó Rạch Làng Đao và rạch Cá Dừng nằm ở hữu ngạn, Doi khỉ ngủ vàrạch Đầu Sấu, Bến Tràm nằm ở tả ngạn sông Vàm Cỏ Tây.

Cũng như các xã Vĩnh Thạnh, Vĩnh Lợi… vào thời điểm 1970 khu vực này của xã Tuyên Bình là vành đai trắng, là mục tiêu đánh phá của địch nhằm ngăn cắt tuyến hành lang chiến lược, dồn dân ra ngoài Măng Đa nên không còn người dân nào ở đây được. Vì thế hai bên bờ Vàm Cỏ Tây thuộc khu vực này lúc ấy hoang vu, cỏ mọc um tùm. Các loại tràm, gáo, cà na, đừng, sen mọc như rừng. Đất đai hai bên bờ thì sình lầy rất khó cơ động. Nhưng rừng chồi hai bên sông là yếu tố thuận lợi cho bộ đội bố trí phục kích.

Hiện nay dân cư ở khu vực này có đông đúc hơn nhưng mật độ vẫn còn thấp, các hộ dân sống chủ yếu bằng nghề sông. Qua thời gian đất đai càng được khai phá nhiều nên cảnh quang thay đổi khác xưa. Chỉ có dòng Vàm Cỏ Tây ngày nào vùi thây giặc nay vẫn chảy hiền hoà bồi đắp phù sa.

Chiến thắng hạm đội nổi trên sông của đơn vị đặc công Kiến Tường đã khai thông hành lang chiến lược từ biên giới về các tỉnh quân khu 8, đưa ba thứ quân bám trụ địa bàn, đưa nhân dân về vườn cũ làm ăn. Chiến thắng này là một thắng lợi về mặt chiến lược, cho phép ta giữ vững hành lang làm bàn đạp tiến công liên tục cho đến ngày 30-4-1975 thống nhất đất nước.

Diễn biến trận đánh:

Tháng 11/1968 sau khi trúng cử tổng thống, Nich-xơn đã điều chỉnh chủ trương “Phi Mỹ hoá” thành chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” kéo dài chiến tranh ở Việt nam với âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt”. Mục tiêu của chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” vẫn là thôn tính và khống chế cho được miền Nam Việt Nam trong quỹ đạo thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ. Chúng xác định nhân tố cơ bản quyết định sự thành công của chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” là: xây dựng một đội quân ngụy hùng mạnh đủ sức làm nòng cốt cho quân đội các nước tay sai của Mỹ ở Đông Nam Á; bình định kiểm soát tuyệt đại bộ phận đất đai và dân số, ra sức củng cố ngụy quyền các cấp vững mạnh; thực hiện chiến tranh “bóp ngẹt” “chiến tranh giành dân”, và “chiến tranh hủy diệt” là 3 phương thức của chiến lược “Việt Nam hĩa chiến tranh”.

Trên chiến trường khu 8, địch tăng cường lực lượng cả Mỹ lẫn ngụy, liên tục mở các cuộc hành quân càn quét nhằm yểm trợ cho chương trình bình định và làm suy yếu lực lượng của ta.

Tại Kiến Tường quân số của địch tăng hơn rất nhiều so với trước. Quân Mỹ có 2 tiểu đoàn thuộc lữ đoàn 3, 2 tiểu đoàn thuộc lữ đoàn 2 (sư đoàn 9) và một tiểu đoàn công binh. Tất cả gồm khoảng 2.500 tên đến 3.000 tên. Đội hình của chúng được bố trí như sau: cụm thứ I có khoảng 1.500 tên đóng tại Nhơn Xuyên với 15 khẩu pháo khống chế từ thị trấn Tuyên Nhơn đến Long Ngãi Thuận. Cụm thứ II có khoảng 1500 tên và 2 chi đoàn thiết giáp đóng tại Tỉnh lỵ Kiến Tường. Quân ngụy có 5.775 tên gồm chủ lực 1.100tên, biệt kích 950 tên và 13 đại đội bảo an cơ động. Chúng tăng cường phòng thủ thị xã, khu yếu Măng Đa, đồng thời tiến hành cuộc hành quân bình định (mỗi tháng có từ 30-70 cuộc hành quân càn quét) lấn chiếm vùng giải phóng của ta và xây dựng một số ấp chiến lược ở các vùng 4-6-8.

Địch bố trí 4 tuyến ngăn chặn từ biên giới xuống: tuyến biên giới, tuyến kênh Dương Văn Dương và tuyến kênh Nguyễn Văn Tiếp-Vàm Cỏ. Trên tuyến biên giới chúng rải các loại bom, mìn nổ chậm dày đặc từ Bình Phong Thạnh, Bình Hoà tới Hưng Điền gây trở ngại cho ta trong việc cơ động lực lượng và đi lại tiếp tế. Địch còn rải chất độc hoá học nhằm tiêu diệt sự sống ven Vàm Cỏ Tây và các kênh rạch trong Đồng Tháp Mười. Bộ chỉ huy biệt khu 44 cho máy bay trực thăng bất thần đổ quân đánh sâu vào vùng biên giới nhằm tiêu diệt cơ quan chỉ đạo, chỉ huy của quân khu và tỉnh Kiến Tường. Tất cả nhằm mục đích tiêu diệt lực lượng võ trang của ta, ngăn cắt tuyến hành lang chiến lược không cho ta lưu thông vận chuyển lực lượng khí tài từ phía sau ra phía trước, của quân khu xuống các tỉnh Kiến Tường-Mỹ Tho-Bến Tre- Gò Công-Đồng Tháp đồng thời đàn áp phong trào đấu tranh chính trị, tăng cường đôn quân bắt lính ổn định hậu phương của chúng.

Để thực hiện mưu đồ trên, Mỹ ngụy đã triển khai chiến dịch hạm đội nổi trên sông gồm nhiều loại tàu nhỏ, tàu lớn có cả tiêm kích và bộ binh, số lượng trên 120 chiếc. Chúng triển khai từ Thủ Thừa theo sông Vàm Cỏ Tây lên đến xã Vĩnh Thạnh quận Tuyên Bình-nay là Vĩnh Hưng. Cụ thể chúng triển khai làm 2 hướng: hướng chủ yếu và thứ yếu.

-Cánh chủ yếu là đoạn sông Vàm Cỏ Tây thuộc tỉnh Kiến Tường tập trung nhất từ xã Tuyên Bình đến xã Vĩnh Thạnh, số lượng trên dưới 60 chiếc các loại cùng một tiểu đoàn bộ binh biệt kích của Mỹ. Trực thăng 047 đồng thời được hổ trợ của pháo binh từ thị xã Kiến Tường và Măng Đa.

– Cánh thứ yếu triển khai theo trục kênh Dương Văn Dương và kinh 12 đi Cai Lậy gồm trên dưới 60 chiếc được yểm trợ bởi các lực lượng: hải quân, các đồn bót, bảo an Tỉnh và các cụm pháo ở căn cứ Kinh Quận, Kiến Bình. Với lực lượng hùnghậu trên, đầu tháng 6/1970 địch triển khai đánh phá ác liệt nhất là cánh chủ yếu gây cho ta nhiều khó khăn. Bộ đội huyện phải phân tán, lực lượng các xã phải né tránh để bảo toàn lực lượng. Có nơi phải bỏ địa bàn không bám trụ được. Đường hành lang bị tắt nghẽn gây khó khăn cho chiến trường khu 8, quần chúng nhân dân không về ruộng vườn làm ăn. Mối quan hệ bên ngoài với bên trong nhiều nơi liên lạc được.

Trước tình hình trên, Thường vụ tỉnh ủy và tỉnh đội Kiến Tường họp nhận định đánh giá tình hình địch. Sau khi phân tích những thuận lợi và khó khăn đã hạ quyết tâm phải bẻ gãy chiến thuật hạm đội nổi trên sông để mở lại toàn bộ hành lang chiến lược thông suốt như cũ, phát động quần chúng về vườn ruộng làm ăn, tổ chức nối lại lực lượng bên trong và bên ngoài.

Để thực hiện được nhiệm vụ quan trọng trên, thường vụ và Tỉnh đội Kiến Tường thống nhất sử dụng lực lượng đặc công và công binh vì 2 đơn vị này có truyền thống và kinh nghiệm đánh tàu. Trong suốt mười năm chiến đấu(1960-1970) đơn vị luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao kỷ thuật chiến trường nghiêm minh. Hai lực lượng trên được phân công như sau:

– Lực lượng công binh sẽ đánh địch ở tuyến kinh Dương Văn Dương, kinh 12 và lộ Kiến Tường-Cai Lậy.

– Cánh chủ yếu ở tuyến Vàm Cỏ Tây-Tuyên Bình đến Vĩnh Thạnh sẽ do đặc công thủy chịu trách nhiệm.

– Sau khi ban cán sự và Tỉnh đội Kiến Tường họp có cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần bàn bạc cụ thể. Ngày 19-6-1970 Tỉnh đội giao nhiệm vụ cho đồng chí Huỳnh Văn Chất-phó chủ nhiệm công binh-đặc công Tỉnh các việc như sau:

– Làm cho cán bộ chiến sĩ hiểu sâu ý đồ của địch.

– Xây dựng quyết tâm cao, khắc phục khó khăn để chiến đấu.

– Chuẩn bị khí tài và vật chất đánh liên tục.

– Diệt thật nhiều tàu nhỏ tàu lớn, diệt cả bộ binh di chuyển trên tàu, đánh liên tục ngày đêm.

– Kết hợp chặt chẽ với cán bộ huyện, xã và các ban cán sự vùng.

Sau khi nhận nhiệm vụ, đồng chí Huỳnh Văn Chất tiến hành họp cấp ủy và chi bộ, quán triệt nhiệm vụ đồng thời bố trí lực lượng cụ thể cho từng cánh. Riêng cánh trọng yếu đoạn sông Vàm Cỏ Tây từ Tuyên Bình lên Vĩnh Thạnh sẽ cho đại đội 2 đặc công tỉnh Kiến Tường chịu trách nhiệm. Sử dụng lực lượng cụ thể như sau:

– Một trung đội đặc công (BI) thuộc đại đội đặc công tỉnh Kiến Tường gồm 16 đồng chí, do đ/c Nguyễn Văn Minh đại đội trưởng đại đội II đặc công chỉ huy, đ/c Huỳnh Văn Chất-phó chủ nhiệm công binh trực tiếp làm chính trị viên. Ban chỉ huy còn có Nguyễn Thành Hơn, toàn đơn vị có 14 Đảng viên, 2 Đoàn viên dùng vũ khí B41(2 khẩu), B40-5 khẩu-, còn lại là AK tự vệ.

Toàn đơn vị hạ quyết tâm dù phải hy sinh cũng phải hoàn thành nhiệm vụ vì tính chất quan trọng của trận đánh nhằm tháo gỡ khó khăn tỉnh nhà và toàn bộ chiến trường quân khu 8.

Ngày 22/6/1970 đơn vị kiểm tra lại toàn bộ vật chất cần thiết cho trận đánh quyết định. Ngày 23 đơn vị hành quân từ 5 đến 7 giờ gặp phục kích giữa đường đơn vị phải trở lại. Ngày 24 đơn vị hành quân tiếp tục, khi đi có 1 đ/c xã đội trưởng Tuyên Bình vừa phối hợp tác chiến vừa dẫn đường.

Đêm 24-6-1970 sau khi theo rạch Làng Đao xuyên qua kinh 7 Thước đơn vị hành quân đến rạch Đầu Sấu cách bờ sông 1.500m, chưa bám được địa hình, chưa kết hợp được với du kích địa phương. 9giờ 15 phút tàu địch từ Kiến Tường chạy lên, nghe tiếng tàu ban chỉ huy hạ lệnh chiến đấu, toàn bộ vật chất hậu cần để lại tại chổ phân công người giữ. Đơn vị nhanh chóng vận động đến đoạn sông Vàm Cỏ Tây đoạn rạch Đầu Sấu chưa kịp đào công sự, tàu đến ta lập tức dùng B40 và B41 bắn chìm tại chỗ 2 chiếc, ta rút lui quân an toàn.

Sau ngày 25/6 địch đối phó bằng bộ binh kết hợp với phi pháo, đơn vị phải chịu đói suốt ngày hôm đó. Ban chỉ huy tiến hành rút kinh nghiệm và làm công tác tư tưởng. Ban ngày ban chỉ huy đi liên hệ với ban cán sự vùng 8 ở xã Vĩnh Lợi và về đến đơn vị là 4 giờ chiều ngày 25/6. Sau khi liên lạc với cấp trên và các xã, đơn vị ở điểm cũng đã khắc phục xong việc lo cơm và chuẩn bị tác chiến. Chiều ngày 25/6 địch rút quân, đơn vị lại phải hành quân phục kích bên bờ Vàm Cỏ Tây đoạn Rạch Bay Ấp Cả Cóc. Ta bố trí làm 3 cụm, 20 giờ 30 tàu địch từ Kiến Tường chạy lên bắn phá ta nổ súng chìm 2 chiếc, cháy 1, ta lui quân an toàn.

Chiều ngàu 26/6/1970 ta chủ động bố trí lực lượng phục kích tại rạch Cá Dừng (nay thuộc ấp Bình Châu) tổ chức thành 4 cụm. Cụm khoá đầu 1 khẩu B40-1 B41. Cụm khoá đuôi 1 khẩu B40, 1 B41; hai cụm giữa mỗi cụm 1 B40. 7 giờ 35 địch từ Kiến Tường chạy lên 8 tàu, 6 chiếc đầu lọt vào ổ phục kích của ta nổ súng 4 chiếc chìm tại chổ, 2 chiếc cháy. Địch lập tức dùng trực thăng đổ xuống một tiểu đoàn biệt kích Măng Đa để hổ trợ cho bọn trục vớt tàu chìm và càn quét ven 2 bờ sông. Ta bung ra kết hợp với du kích xã Tuyên Bình đánh nhỏ lẻ, bằng vũ khí thô sơ, đến 9giờ 30 phút địch chủ quan có yểm trợ của bộ binh ở hai bên bờ dùng thuyền máy đi kiểm tra, ta phát hiện nổ súng chìm tại chổ.

Chiều ngày 29/6/1970 ta phục kích tại Bến Tràm 5giờ 20 phút tàu địch đến, ta nổ súng cháy chìm tại chổ. Trận này ta bị thương 1(đ/c Nguyễn Văn Minh) đại đội trưởng đại đội II).

Trận đánh ngày 29/6/1970 cũng là trận đánh cuối cùng trong suốt 6 ngày đêm trên mặt trận Tuyên Bình. Trong một tương quan lực lượng chênh lệch, địch trang bị vũ khí đến tận răng, mỗi tàu có khoảng một tiểu đội trang bị súng không giật ĐK95, 12ly7, đại liên lại được sự hổ trợ của không quân pháo binh, bộ binh. Nhưng địch đã phải khuất phục trước 14 tay súng ngoan cường, những chiến sĩ mà nơi đó sự trang bị là lòng dũng cảm, mưu trí, tinh thần yêu nước nồng nàn đã phải chiến đấu trong một hoàn cảnh cực kỳ gian khổ, thiếu vũ khí chiến đấu, địa bàn ăn ở sình lầy, di chuyển liên tục, nuôi thương binh tại chổ, có lúc chiến đấu với cái đói phải dùng môn rừng ăn thay gạo….

Kết quả 6 ngày đêm trên mặt trận Tuyên Bình ta tiêu diệt 25 tàu chiến, 1 thuyền máy, diệt 250 tên Mỹ ngụy. Song song cùng lúc du kích 3 xã Tuyên Bình, Vĩnh Lợi, Vĩnh Thạnh diệt trên dưới 70 tên lính bộ. Ta an toàn chỉ bị thương 2 đ/c: Nguyễn Văn Minh và đ/c Hiệp.

Sáu ngày đêm chiến đấu anh dũng của đơn vị đặc công Kiến Tường đã bẻ gãy hoàn toàn chiến thuật hạm đội nổi trên sông Vàm Cỏ Tây từ Kiến Tường đến Vĩnh Thạnh mà địch khoe khoang là pháo đài thép hữu hiệu nhất để đánh phá cách mạng. Chúng chỉ còn hoạt động khu vực Kiến Tường bảo vệ thị xã./.

Lịch sử hình thành:

Xưa kia nơi đây là vùng đất toàn đầm lầy và cỏ dại, xen lẫn với những khu rừng tràm bạt ngàn, là nơi trú ngụ của nhiều loài động vật quý hiếm như: cọp, voi, nai, khỉ, heo rừng, sấu, chim, cá, rùa, rắn… Trải qua các thời kỳ lịch sử vùng đất này đã có nhiều thay đổi về tổ chức và địa giới hành chính.

Ngược dòng thời gian cách đây khoảng 2.500 – 2.800 năm, Vĩnh Hưng là một vùng đất đã lưu dấu các dân tộc người cổ với nền văn hóa ốc eo phù Nam mà chứng cứ còn để lại nơi các di tích Gò Ô Chùa, Lò Gạch, Gò Chùa Nổi, Gò Dúi… Đến trước thế kỷ XVIII vùng đất bao la của Đồng Tháp Mười vẫn chưa có tên gọi. Năm 1838, vùng đất này thuộc phủ Tây Ninh gồm hai huyện: Tây Ninh và Quang Hoá với 7 tổng, 56 thôn. Trong các tên tổng ghi lại trong Đại Nam Nhất Thống Chí chưa có tên tổng Mộc Hoá. Mãi đến năm 1867, tên tổng Mộc Hoá mới xuất hiện trên công báo Nam Kỳ, cùng với tên 5 tổng khác thuộc khu tham biện Quang Hoá.

Ngày 7/6/1871, sau khi thống đốc Nam kỳ ra nghị định điều chỉnh các khu tham biện từ 25 xuống còn 18, lúc đó tổng Mộc Hoá thuộc khu tham biện Tân An, hạt Mỹ Tho.

Năm 1899, chế độ tham biện được thay bằng chế độ tỉnh trưởng thì khu tham biện Tân An trở thành tỉnh Tân An.

Năm 1914, chính quyền thuộc địa lập tổng lớn Mộc Hoá gồm 21 làng.

Năm 1916, quận Mộc Hoá được thành lập trực thuộc tỉnh Tân An. Năm 1951, Uỷ Ban Kháng Chiến Hành Chính Nam bộ ra quyết định cắt 3 xã phía Tây của Thủ Thừa và 7 xã của tỉnh Đồng Tháp nhập vào với quận Mộc Hoá thành lập tỉnh Đồng Tháp, tỉnh này tồn tại được 16 tháng thì giải thể, Mộc Hoá lại tách ra và trở thành một huyện của tỉnh Tân Mỹ Gò.

Sau hiệp định Giơnevơ (7/1954) ngụy quyền Sài Gòn phục hồi lại tỉnh Tân An, Mộc Hoá trở thành một quận của tỉnh Tân An.

Ngày 17/2/1956, Ngô Đình Diệm  ra sắc lệnh (SL số 21/NV) tách Mộc Hoá ra khỏi tỉnh Tân An, lập thành tỉnh Mộc Hoá.

Ngày 22/10/1956, Ngô Đình Diệm lại ban hành sắc lệnh  ( SL số 143/NV) đổi tỉnh Mộc Hoá thành tỉnh Kiến Tường, huyện Vĩnh Hưng bấy giờ là quận Tuyên Bình. Về phía cách mạng, tháng 7/1957, ta tách Mộc Hoá ra khỏi tỉnh Tân An, lập tỉnh Kiến Tường nhưng không chia thành nhiều quận như địch mà chia theo vùng.

Quận Tuyên Bình (theo địch) tương ứng với vùng 8 của cách mạng.

Ngày 3/3/1976, theo quyết định của Hội đồng nhà nước, nước CHXHCN VN, tỉnh Long An mới được thành lập bao gồm: tỉnh Long An cũ và một phần của tỉnh Hậu Nghĩa, và cả Kiến Tường. Từ đây Kiến Tường trở thành một huyện của Tỉnh Long An với tên cũ là huyện Mộc Hoá.

Ngày 30/3/1978, theo quyết định của nhà nước ta, phần đất phía Tây bắc của huyện Mộc Hoá được cắt ra thành lập huyện mới tên là Vĩnh Hưng, với diện tích tự nhiên 890,33 km2 có 11 xã, gồm: Thị trấn, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Lợi, Vĩnh Trị, Hưng Điền, Vĩnh Châu A, Vĩnh Châu B, Tuyên Bình, Thái Trị, Thái Bình Trung, Vĩnh Đại. Dân số sống tập trung theo sông Vàm Cỏ Tây các nhánh kênh rạch và các gò cao như Gò Bò, Gò Ông Lẹt, Gò Tà Nu, Gò Xoài, Gò Cát, gò Gòn, Gò Thuyền… . Dân số khoảng 24.500 người. Ban lãnh đạo huyện chuyển về làm việc ở ấp Gò Ông Lẹt xã Vĩnh Thạnh.

Do tình hình chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra năm 1978, nhân dân huyện Vĩnh Hưng lại đứng lên đấu tranh chống lại bọn diệt chủng Pôn Pốt. Ban lãnh đạo quyết định chuyển về ấp Gò Cát xã Vĩnh Lợi để làm việc. Đầu năm 1980 huyện chuyển về đóng tại Gò Măng Đa thuộc xã Vĩnh Trị và ngày nay là trung tâm Thị trấn của Vĩnh Hưng.

Năm 1988, theo tờ trình của huyện, được UBND Tỉnh cho phép thành lập thêm 2 xã là Vĩnh Bình và tách xã Tuyên Bình thành Tuyên Bình Tây và Tuyên Bình Đông. Đến năm 1994, chính phủ có nghị định số 27 ngày 24/03/1994 về việc điều chỉnh địa giới huyện xã thuộc tỉnh Long An. Trong nghị định nêu rõ: thành lập xã Tuyên Bình Tây trên cơ sở 1.125ha diện tích tự nhiên với 2.602 nhân khẩu của xã Tuyên Bình.

Năm 1989 huyện được Tỉnh cho phép thành lập 1 thị trấn và 2 xã mới là Khánh Hưng và Thạnh Hưng.

Năm 1990 huyện được Tỉnh cho phép thành lập 1 xã mới là xã Hưng Hà.

Năm 1994 huyện được chính phủ cho phép tách ra thành huyện Vĩnh Hưng và Tân Hưng. Huyện Vĩnh Hưng có 10 xã, thị trấn với 53 ấp/ khu phố, dân số lúc bấy giờ là 31.197 người, mật độ dân số là 82 người/km2. Hiện nay dân số của Vĩnh Hưng là 52.774 người.

Do đặc thù thiên nhiên, Vĩnh Hưng nằm ở vùng sâu của Đồng Tháp Mười, hàng năm chịu ảnh hưởng nặng nề của lũ lụt. Sự hình thành và phát triển kinh tế – xã hội của Vĩnh Hưng gắn liền với quá trình khai thác đất hoang hóa, di dân xây dựng vùng kinh tế mới. Quá trình khai thác tài nguyên phát triển kinh tế xã hội cho thấy lợi thế cơ bản của Vĩnh Hưng:

Về giao thông: Có tỉnh lộ 831 nối với quốc lộ 62 đi các tỉnh. Hệ thống giao thông từ huyện đến trung tâm các xã phát triển mạnh, hiện nay đã có 10/10 xã, thị trấn có đường ô tô đến trung tâm. Ngoài ra hệ thống kênh rạch chằng chịt gồm có sông Vàm Cỏ Tây, Sông Long Khốt, Sông Lò Gạch, Tuyến kênh 28, Kênh Tân Thành Lò Gạch, Kênh TW, Kênh Hưng Điền… thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hoá và giao lưu với các vùng, diện tích sản xuất đất nông nghiệp 33.780,82 ha, thuận lợi cho trồng lúa và tràm.

Vĩnh Hưng có đường biên giới giáp với Campuchia dài 45,62 km thuận lợi cho việc phát triển thương mại với 3 cửa khẩu: Long Khốt xã Thái Bình Trung, Vàm Đồn xã Hưng Điền A và Cả Trốt xã Khánh Hưng.

Do điều kiện thổ nhưỡng và địa hình, Vĩnh Hưng chia thành 2 vùng sản xuất lúa.

– Vùng cao biên giới gồm 5 xã: Tuyên Bình, Thái Bình Trung, Thái Trị, Hưng Điền A, Khánh Hưng. Từ những năm 1990 trở về trước, vùng này chủ yếu sản xuất lúa một vụ, trọng tâm là lúa huyết rồng, nàng Minh, nàng Tri, chăn nuôi trâu bò…Do làm lúa một vụ không hiệu quả, nhà nước chủ trương trồng lúa hai vụ  đem lại hiệu quả cao cho nhân dân. Hiện nay vùng này tập trung sản xuất lúa hai vụ và buôn bán với Campuchia. Trong 5 xã vùng cao thì ấp Gò Châu Mai (Khánh Hưng) và Bình Châu (Tuyên Bình) hoạt đông kinh tế mang nét nổi bật.

– Vùng sâu gồm 5 xã, thị trấn: Thị trấn Vĩnh Hưng, Vĩnh Trị, Vĩnh Bình, Vĩnh Thuận, Tuyên Bình Tây. Kinh tế chủ lực của vùng này là trồng các loại giống lúa có giá trị xuất khẩu cao. Trung tâm thương mại kinh tế, văn hóa của vùng là thị trấn Vĩnh Hưng. Mức luân chuyển hàng hóa lớn, dân cư đông đúc, nơi tập trung các ngành nghề kinh doanh của huyện. Trong đó Thị trấn Vĩnh Hưng nổi bật với thương mại dịch vụ phát triển, tốc độ đô thị hoá đang đẩy nhanh và có đê bao chống lũ an toàn với cao độ 5,2m, diện tích vượt lũ là 38,8ha, đón lũ ổn định cho phát triển xây dựng cơ sở hạ tầng và an toàn cho nhân dân trong mùa mưa lũ.

Vĩnh Hưng là huyện đầu nguồn được hưởng lợi nguồn nước ngọt từ sông Tiền, sông Cái Cỏ, sông Vàm Cỏ Tây phục vụ cho phát triển sản xuất và đời sống, hàng năm lũ đã bồi đắp một lượng phù sa đáng kể làm màu mỡ đất đai.

Có hai vùng đất đặc trưng là phù sa cổ và đất phèn, trong điều kiện đủ nước ngọt quanh năm có thể gia tăng trồng lúa trên đất phèn, ngoài ra có thể cải tạo đất xám tiến hành đa dạng hóa cây trồng một cách hợp lý, giảm thế độc canh cây lúa.

Vĩnh Hưng là huyện thuộc Đồng Tháp Mười đã và đang được chính phủ tập trung đầu tư nên cơ sở hạ tầng ngày càng được cải thiện, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao một bước. Đặc biệt tuyến QL-N1 (TL 831) được đầu tư nâng cấp là trục giao thông chính trong giao lưu hàng hóa, tạo động lực cho kinh tế Vĩnh Hưng phát triển.

Từ những thực trạng trên, để nền kinh tế của huyện ngày càng phát triển, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng lên, huyện đã tập trung khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực (nguồn nhân lực, tài nguyên đất, nguồn nước), mở rộng sản xuất, lấy hiệu quả kinh tế và chất lượng cuộc sống làm tiêu chuẩn phát triển. Phát triển sản xuất gắn với thị trường tiêu thụ. Thực hiện tốt chiến lược tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.

Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa các ngành sản xuất, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng ổn định và bền vững, từng bước hội nhập kinh tế Quốc tế và khu vực . Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực và hiệu quả, nhất là trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, thương mại và dịch vụ, phát triển công nghiệp, trước hết là công nghiệp chế biến nông sản.

Phát triển nguồn nhân lực, nâng cao mặt bằng dân trí, đảm bảo quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo tinh thần Nghị quyết 18 của Tỉnh ủy Long An. Mở rộng sản xuất đi đôi với bảo vệ và gìn giữ môi trường sinh thái, ngăn chặn  mọi nguy cơ gây ô nhiễm.

– Phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với an ninh quốc phòng, giữ vững và củng cố tuyến phòng thủ biên giới, xứng đáng với vị trí tiền tiêu an ninh quốc phòng của tỉnh Long An và cả nước.

Mục tiêu chung là xây dựng Vĩnh Hưng trở thành huyện có kinh tế phát triển, xã hội dân chủ công bằng, văn minh, đảm bảo vững chắc về an ninh quốc phòng, gia tăng phát triển kinh tế – xã hội trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, từng bước công nghiệp hóa – hiện đại hóa.

Nhanh chóng thoát khỏi nền kinh tế thuần nông, độc canh; sớm tạo nên sự phát triển cân đối, toàn diện, phát huy các thế mạnh về nông – lâm nghiệp và dịch vụ – thương mại, đưa Vĩnh Hưng trở thành huyện vững mạnh ở vị trí tiền tiêu trên tuyến biên giới phía Tây Nam tổ quốc.

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây