Một truyền thuyết về Lý Bí – Truyện lịch sử Phùng Văn Khai

Hương Cổ Pháp, mùa đông năm 508 luôn mấy ngày mưa phùn gió bấc liên miên không dứt.

Đám tang của Lý gia, các họ Đinh, Cù, Triệu, Bạch, Ma, Vững, Giàng, Khái tới rất đông để chia buồn. Theo phong tục hương Cổ Pháp, ba người con Lý Thiện, Lý Bí, Lý Hùng đều mình quấn vải trắng, đầu chít khăn trắng bên trên vấn nùn rơm, chân trần chống gậy tre đi lùi trước linh cữu. Theo di nguyện của người quá cố, thi hài Cù Nương được quấn chặt để trong chiếc quan tài gỗ mít đóng kín đặt trên chiếc xe bánh gỗ cọt kẹt kéo về chân núi Ông Hùm nơi bìa rừng Hắc Lâm. Núi Ông Hùm là một quả đồi đất lớn chạy thông lên dãy núi đá Tam Ngai phía tây nam nơi có rừng rậm núi cao nhiều hổ báo được người dân truyền nhau gọi là đèo Tam Vương rất thiêng. Ba năm trước, thi hài trang chủ Lý Cạnh cũng được chôn ở ngôi đất chân núi Ông Hùm. Hôm trước, đám tráng đinh đi đào huyệt mà phong tục gọi là làm nhà mới cho Cù Nương tìm mãi không thấy ngôi mộ của Lý Cạnh đâu. Phải rất lâu người họ Lý mới xác định được chiếc gò không biết đã được mối đùn cao như một quả đồi từ bao giờ chính là mộ của Lý Cạnh. Mọi người ai cũng cố sức đào huyệt đất mà đến tận sẩm chiều mới chỉ được một chiếc hố nhỏ nép bên cạnh mộ Lý Cạnh giờ đã như ngọn đồi hình như ngày càng âm thầm cao lên.

Khi trời tối hẳn, đoàn người đào huyệt mệt mỏi quay về.

Nha van Phung Van Khai tai chua Co Phap Tien Phong Pho Yen Thai Nguyen noi cau be Ly Bi di tu tu nam 6 tuoi - Một truyền thuyết về Lý Bí - Truyện lịch sử Phùng Văn KhaiNhà văn Phùng Văn Khai (áo xanh thứ 5 từ trái sang) tại chùa Cổ Pháp, Tiên Phong, Phổ Yên, Thái Nguyên – nơi cậu bé Lý Bí đi tu từ năm 6 tuổi.

*

Người đi đưa đám ma đông chật ních con đường ngoằn ngoèo. Trời lâm thâm mưa phùn. Gió càng thổi càng lạnh. Đám cờ phướn đi đầu người nào người nấy câm lặng trong mưa lạnh. Những rải cờ thấm mưa rủ thõng xuống ẽo ợt dưới bầu trời xám. Tiếp đến đội kèn bát âm. Tiếng kèn, tiếng nhị, tiếng chiêng, tiếng trống ảo não thê lương. Đi trước chiếc xe gỗ ậm ạch chở quan tài, ba cậu nhỏ toàn thân quấn vải trắng trên đầu đội mũ rơm chống chiếc gậy tre non thập thững bước lùi thi thoảng vấp ngã lăn dúi xuống rệ đường. Trưởng tử Lý Thiện đôi mắt như vô hồn đi giật lùi trước linh cữu mẹ dường như đã cạn nước mắt cố đứng vững. Thứ tử Lý Bí bặm chặt cánh môi nước mắt cứ thế giàn giụa trên gò má lạnh như đồng. Đôi chân Lý Bí đã tướp máu nhưng những bước giật lùi của cậu bé lại tỏ ra khá vững trãi. Cứ từng bước từng bước giật lùi mặc máu thấm trên con đường đất sỏi lồi lõm. Phía trước, người chú Lý Khang vừa rìu vừa thi thoảng nhấc bổng cậu bé Lý Hùng mới hơn ba tuổi. Cứ dăm bảy bước cậu lại ngã lăn xuống vệ đường khiến mọi người ai cũng xót thương. Phía sau chiếc xe tang lọc cọc, đoàn người đi sát vào nhau dưới trời mưa lạnh. Tiếng khóc hờ thi thoảng rộ lên át tiếng kèn nhị não nề. Khi đoàn người tiến sát đến bên huyệt đất đào hôm trước tất cả không khỏi kinh động khi chỉ sau một đêm không biết bằng cách gì chiếc hố bỗng sâu rộng gấp ba bốn lần hôm trước. Mọi người càng lấm lét khi thấy nhiều dấu chân hổ to như chiếc đấu hằn rõ trên nền đất mới.

Khi nấm mộ được vun đầy cũng là lúc trời chợt hửng lên. Gió bấc thổi nhẹ hơn. Mưa phùn đã ngừng rơi từ lúc chiếc quan tài được tráng đinh dùng thừng ròng hạ xuống đáy huyệt sâu tút hút. Những vật dụng được người các họ Đinh, Cù, Triệu, Bạch, Ma, Vững, Giàng, Khái thi nhau ném xuống dưới huyệt. Ba cậu tang chủ nhỏ đứng sát vào nhau cắm ba chiếc gậy tre non xuống nền đất lạnh. Có ai đó đã quấn những tấm vải vào bàn chân tứa máu của ba cậu nhỏ. Cậu út Lý Hùng dường như chưa nhận ra điều gì hệ trọng đứng co ro bên cạnh hai người anh. Lý Bí đứng giữa, đôi chân quấn vải trắng đã rịn máu chuyển sang màu hồng choãi ra như cắm hẳn xuống lòng đất trước huyệt mộ đang lấp đất rào rào. Cậu nhìn vào lòng ngôi mộ rồi nhìn xuyên ra rừng cây cối rậm rạp ánh mắt rực lên rất lạ.

Đêm khuya trong căn nhà gỗ lớn Lý gia trang.

Trước án thờ, hai cành tre non héo rũ rủ xuống. Tấm bài vị gỗ còn thơm mùi mực. Từ chiều, sau khi chôn cất xong, Từ sư phụ đích thân khắc chữ vào bài vị đặt ngay ngắn trên án thờ. Ba năm trước, tại căn phòng này, đích thân Từ sư phụ khắc những dòng chữ lên bài vị cho trang chủ Lý Cạnh. Mới thế mà Cù Nương đã đột ngột theo chồng xuống suối vàng.

Từ sư phụ ngồi lên tấm chiếu trước bài vị Cù Nương thong thả vừa gõ mõ vừa nhẩm đọc câu kinh đã thuộc từ lâu. Lời kinh đan trong tiếng mõ đều đều siêu sinh tịnh độ vong hồn người đã khuất.

Nha van Phung Van Khai cung doan cong tac tro chuyen voi cu Thu tai chua Co Phap 2 - Một truyền thuyết về Lý Bí - Truyện lịch sử Phùng Văn KhaiNhà văn Phùng Văn Khai (áo xanh thứ 2 từ phải sang) cùng đoàn công tác trò chuyện với cụ Thủ tại chùa Cổ Pháp.

Không muốn làm kinh động sư phụ, trang chủ khẽ vươn vai đi vòng xuống căn nhà gỗ bên dưới, nơi các tiểu điệt Lý Thiện, Lý Bí, Lý Hùng và đứa con nhỏ năm tuổi của ngài được gia nhân đưa về đó nghỉ ngơi sau một ngày tang gia mệt mỏi. Ông khẽ đẩy cánh cửa gỗ, bên trong, thấp thoáng qua ngọn đèn vặn nhỏ, Lý trang chủ giật mình khi thấy trên chiếc giường gỗ có rải chăn ấm chỉ có ba đứa trẻ. Ông dụi mắt nhìn thật kỹ đếm lại chỉ có ba người. Lý Khang xoay người vặn to ngọn đèn điểm mặt từng đứa bỗng thất kinh không thấy Lý Bí đâu. Cứ để nguyên ngọn đèn cháy sáng, Lý trang chủ vội khép lại cánh cửa lật đật trở về gian nhà lớn.

Trong căn phòng đặt nhang án, Từ sư phụ vẫn đều đều tiếng mõ như không hay biết Lý trang chủ đã quỳ sát bên cạnh giọng thảng thốt:

– Bạch sư phụ! Lý Bí không biết đã đi đâu mất rồi?

Từ sư phụ chợt dừng tay mõ.

– Lý trang chủ! Ngài vừa nói gì?

Lý trang chủ giọng càng thảng thốt hơn:

– Lý Bí không biết đã đi đâu mất? Ta đã kiểm tra kỹ mà không thấy!

Từ sư phụ vội đứng lên, ôm gọn chiếc mõ tre vào lòng ra hiệu cho trang chủ đi về phía chiếc kỷ gỗ rồi đăm chiêu nói:

– Có lẽ nào? Có lẽ nào tên tiểu tử này lại ra chỗ đó chăng?

Lý trang chủ bồn chồn lao lung mãi mới lắp bắp:

– Không thể nào?… Không thể nào…

Từ sư phụ nhìn sâu vào hương án chỉ thấy hương khói vẽ lên trần nhà những vệt khói trắng ngoằn ngoèo vô định. Tấm bài vị nước sơn còn mới. Những dòng chữ như mũi dao cứa vào tâm can hai người đàn ông trong đêm lạnh. Ngoài trời sương rơi lộp bộp. Thi thoảng gió bấc thổi vào cánh cửa rung lên cọt kẹt.

Từ sư phụ nhìn vào màn đêm nói quả quyết:

– Chắc chắn tên tiểu tử chỉ có thể đến đó mà thôi!

Nói đoạn, sư phụ vấn chặt chiếc khăn nơi cổ quấn thêm hai vòng trùm kín đầu, đặt chiếc mõ vào bị cói tùy thân, thắt đôi giày vải đứng lên nói:

– Chỉ cần mình lão tăng ra đó là đủ. Trang chủ hãy ở nhà bảo toàn đám trẻ tránh cái sảy nảy cái ung. Lý gia đang trong lúc biến động ngài hãy nghe lời lão tăng mới được.

Lý trang chủ bần thần đáp:

– Mọi việc xin theo sự sắp đặt của sư phụ.

Chân núi Ông Hùm đêm đông tịch mịch.

Một khung cảnh dị thường bày ra phía trước ngôi mộ đất. Mấy gộc củi khô bắt lửa cháy liu riu phả ra từng đụn khói. Lửa nhập nhoạng lúc tỏ lúc mờ. Ngay sát đống lửa kề ngôi mộ đất, một thiếu niên chạc bảy tám tuổi cặp mắt mở to nhìn sâu vào lòng mộ không chớp. Toàn thân cậu bé được quấn trong một lớp vải trắng dày lấm láp đôi chỗ dính vài vệt máu đã xỉn. Cậu bé ngồi im, mắt nhìn sững vào lòng đất như oán hận điều gì chất chứa. Ánh lửa nhập nhoạng khi cơn gió bấc thổi bùng lên hắt cái bóng của cậu bé trùm lên ngôi mộ đất. Giữa canh khuya, từng vạt sương lòa xòa đậu ướt khắp các cành cây ngọn cỏ thi thoảng rỏ xuống lộp bộp, có giọt sương bị gió thổi táp vào tàn lửa cháy xèo xèo. Mặc kệ tất cả, cậu bé vẫn ngồi im như tượng trước ngôi mộ đất.

Đã khuya lắm, chừng như quá mệt mỏi, cậu gục quỳ sát xuống ngôi mộ thiếp ngất đi. Bỗng đâu, lẫn trong tiếng gió lào xào, trong chờn vờn ánh lửa, một ông hổ vàng dài thườn thượt đến ngót một trượng uốn lượn tấm thân như sóng nhẹ nhàng từ trong rừng Hắc Lâm tiến tới ngôi mộ đất.

Cậu bé vẫn thiếp ngất chẳng hay biết điều gì đang sắp sửa xảy đến với mình. Ở vùng rừng Hắc Lâm khi ấy, không tuần trăng nào, dân chúng trong vùng không phải nộp mạng cho các ông hùm.

Thật khác thường, trong ánh lửa giờ chỉ còn leo lét yếu ớt nơi chân mộ đất, ông hổ vàng khổng lồ to hơn con trâu mộng bỗng trườn thấp xuống rồi quỳ hẳn sát ngôi mộ. Hai sải chân móng vuốt được thu giấu ẩn tàng trong đám lông mịn như nhung xoãi về phía trước. Ông hổ khẽ lúc lắc chiếc bờm khoang trắng rũ rũ hạt sương đêm bám trên đó rồi đặt chiếc đầu khổng lồ lên hai sải chân chỉ cách cậu bé ba bốn thước. Trong ánh lửa xập xòe lúc mờ lúc lịm hẳn đi, hai giọt nước mắt hổ vàng – vị chúa sơn lâm từng gieo rắc bao kinh hoàng cho dân chúng khắp vùng se sẽ rịn ra, chảy qua hàng râu cọp trắng xóa rơi xuống đất.

Bên cạnh cậu bé đã thiếp ngủ từ lâu.

Nha van Phung Van Khai cung doan cong tac tro chuyen voi cu Thu tai chua Co Phap - Một truyền thuyết về Lý Bí - Truyện lịch sử Phùng Văn KhaiNhà văn Phùng Văn Khai (áo xanh bìa phải) cùng đoàn công tác trò chuyện với cụ Thủ (bìa trái) tại chùa Cổ Pháp.

Ngược con đường đất dẫn tới chân núi Ông Hùm, vừa rảo bước dưới trời khuya lạnh, Từ sư phụ vừa ngẫm ngợi về phỏng đoán của mình. Khi lấp huyệt mộ Cù Nương, ánh mắt của tiểu tử Lý Bí đã rực lên rất lạ. Chắc chắn với cá tính khác thường ấy, tên tiểu tử đã tự một mình đến mộ mẹ cũng nên? Như thế quả là quá khác thường. Từ bé, lão tăng đã linh cảm một điều gì đó rất đặc biệt của Lý Bí. Người cha Lý Cạnh mất khi cậu mới năm tuổi cậu chỉ bặm môi không khóc. Năm tuổi đầu đã tự mình chống cây gậy tre đi lùi trước linh cữu người cha suốt chặng đường dài không hề vấp ngã cũng là một sự lạ. Buổi sáng, khi chôn người đã khuất nơi huyệt mộ, lão tăng đã linh cảm điều gì ghê gớm sẽ xảy ra. Đến khi thấy mộ huyệt đám tráng đinh đào bới chẳng bao lăm hôm trước chỉ qua một đêm đã được đào sâu hoắm một cách khác thường. Xung quanh đầy vết chân cọp càng khiến mọi người lo lắng. Duy chỉ Lý Bí không tỏ vẻ gì sợ hãi, cậu còn nhìn thẳng vào đám vết chân cọp in hằn trên nền đất mới với vẻ mặt đanh lại. Có lẽ nào cơ duyên run rủi cho Lý gia có bước khởi phát phi thường chăng? Hôm trước, khi sư huynh xem tuổi cho Lý Bí ngài đã phán bảo sau này chắc chắn có sự khác thường.

Cứ thế, vừa miên man suy nghĩ, đôi bàn chân Từ sư phụ vừa thoăn thoắt ngược sương gió đêm đông về phía núi Ông Hùm.

Còn cách vài chục bước chân, Lý sư phụ giật mình kinh động mấy lần dụi mắt nhìn cảnh tượng phía trước. Trong ánh lửa leo lét yếu ớt thi thoảng gặp gió khẽ bùng lên, một hình ảnh phi phàm như không có thực đập vào mắt vị sư trụ trì hương Cổ Pháp. Dưới chân ngôi mộ đất, Lý Bí đã ngất thiếp gục hẳn xuống ngôi mộ. Ngay sát bên cạnh, một ông hùm bằng xương bằng thịt to lớn dị thường nằm phủ phục như đang canh giữ cậu chủ nhỏ. Không chút sợ hãi, Từ sư phụ khẽ khàng tiến đến sát đống lửa lặng lẽ quỳ xuống giở bị cói lấy chiếc mõ thân thuộc luôn theo sát bên mình đều đều gõ lên đó miệng lẩm nhẩm đọc kinh. Càng kỳ lạ hơn, ông hổ vàng vẫn nằm im không động cựa, chỉ cặp mắt bắt lửa xanh lét chập chờn hình như có giọt nước lăn ra khỏi hốc mắt? Phải rất lâu sau, trong tiếng mõ đều đều lốc cốc, ông hổ vàng từ từ ngấc đầu lên, thu hai sải chân đứng dậy, vặn tấm thân cuồn cuộn như sóng chậm rãi bước ngược vào rừng Hắc Lâm tối thẫm.

Ông hổ vàng đi được một lúc, cậu bé gục xuống bên nấm mộ đất mới chợt giật mình thức giấc. Cảm giác được tiếng mõ cốc… cốc… cốc… đều đều quen thuộc, cậu bé mở mắt quay sang nhìn đống lửa chỉ thấy Từ sư phụ vừa gõ mõ vừa lầm rầm chậm rãi đọc kinh.

*

*     *

Gần bốn mươi năm sau…

Luôn nửa tháng liền, đức vua trong động Khuất Lão ốm sốt triền miên, mỗi ngày hoàng thượng chỉ dùng nửa bát cháo trắng. Có khi ngài ngồi im cả ngày không nói một câu. Khi biết tin quân sư Tinh Thiều, Thái phó Triệu Túc, lão tướng Phạm Tu đều đã bỏ mình vì nước, quốc chủ Vạn Xuân Lý Bí khóc rống lên thảm thiết rồi cứ thế ngất đi. Từ hai hốc mắt đã lòa luôn rịn ra máu đỏ khiến các tướng sụt sùi thương cảm. Điền Công, Điền Thái theo hầu vua từ ngày còn ở Cửu Đức tới buổi lập nước Vạn Xuân rồi bôn ba chạy giặc ròng rã gần hai năm không lúc nào dời. Vốn xuất thân cửa phật chán ghét binh đao mà cuối cùng đức vua luôn phải chứng kiến cảnh đầu rơi máu chảy. Thật quá sức chịu đựng với một con người bản tính ôn hòa nhu thuận như đức vua.

Tới ngày thứ mười sáu, đột nhiên đức vua cho gọi Điền Công vào bảo:

– Ngươi cho mời Tả, Hữu tướng quân tới gặp trẫm!

Điền Công thấy giọng đức vua đã yếu chỉ chực khóc vâng dạ cho người gấp đi mời hai vị Triệu Quang Phục, Phùng Thanh Hòa.

Khi hai vị tướng quân đến, Điền Công, Điền Thái đỡ đức vua từ từ ngồi dậy.

Tả, Hữu tướng quân quỳ xuống xúc động nói:

– Chúng thần xin thỉnh an hoàng thượng!

Hai vị tướng trẻ sớm được gần vua từ ngày đầu giương cờ nghĩa rất hiểu tính nết sơ khoáng, giản phác của hoàng thượng. Lại trong tình thế ngặt nghèo, sức khỏe của vua không được tốt nên hai tướng nói chỉ vừa đủ nghe.

Quốc chủ Vạn Xuân chậm rãi nói:

– Triệu tướng quân! Phùng tướng quân! Các ngươi theo trẫm đánh giặc lập quốc vào sinh ra tử đến hôm nay khiến trẫm thật cảm động. Các bậc huynh trưởng, tướng sĩ con dân Vạn Xuân không ít người đã bỏ mình vì nước khiến lòng trẫm thật đớn đau. Nay binh tướng ta đại thế đã mất, song quốc thống Vạn Xuân không thể nào mất được. Ta biết mình cũng chẳng được bao lâu nữa có mấy lời nói với hai vị tướng quân.

Nói đến đó đức vua chợt dừng lời. Hai hốc mắt ri rỉ máu. Đều là chiến tướng trên chiến trường mà Tả, Hữu tướng quân khuôn mặt đã đẫm lệ từ lúc nào.

Đức vua lại nói:

– Các ngươi vũ dũng quả đoán, chinh chiến sa trường là trụ cột của Vạn Xuân. Nay theo ta đến bước đường này cũng là trung nghĩa lắm rồi. Trẫm đã suy nghĩ kỹ, binh giặc đang cường, chủ tướng của chúng là bậc gian hùng, quân ta nếu không có kế sách lâu dài sẽ chỉ chuốc thêm thất bại. Xương máu sĩ tốt bách tính không thể phung phí bừa bãi được. Nay trẫm lệnh hai tướng hãy đem quân bản bộ về đất của mình chiêu tập hiền sĩ bốn phương kiên trì mưu đại nghiệp. Các ngươi còn trẻ, là chỗ trông cậy của bách tính. Nay trẫm ủy thác việc lớn cho hai ngươi, chớ phụ lòng trẫm.

Đức vua vừa nói đến đó, Tả, Hữu tướng quân vội dập đầu nói:

– Chúng thần ngàn lần không dám! Thần nguyện chết theo hoàng thượng!

Hai hốc mắt của đức vua lại ri rỉ máu. Ngài xúc động nói:

– Hai tướng bất tất phải theo lối ngu trung! Trẫm đây vì nước, vì anh linh chí hướng của các vị trọng thần đã bỏ mình, vì bách tính lầm than dưới vó ngựa Lương tặc mà mệnh lệnh các ngươi chứ riêng trẫm đâu dám phiền đến người khác. Lẽ nào các ngươi không hiểu lòng trẫm hay sao?

Hai tướng Triệu – Phùng đôi mắt đẫm lệ xa xót nhìn vị quốc chủ mới ngày nào uy nghi cân quắc nơi điện Vạn Thọ nay đã xọp đi mà vẫn phải trĩu nặng ưu tư việc nước mất còn.

Nha van Phung Van Khai lam viec voi Ban quan ly Den Da Trach Hung Yen min - Một truyền thuyết về Lý Bí - Truyện lịch sử Phùng Văn KhaiNhà văn Phùng Văn Khai làm việc với Ban quản lý Đền Dạ Trạch – Hưng Yên.

Hai tướng quỳ sụp xuống một lúc mới từ từ ngẩng lên nói trong nước mắt:

– Chúng thần xin lĩnh mệnh!

Sau buổi để Tả, Hữu tướng quân gạt nước mắt dời động Khuất Lão, quốc chủ Lý Bí sai Điền Công, Điền Thái khuyên bảo binh lính theo hầu giá hãy trở về quê cũ. Các tướng cùng các vị tộc trưởng khóc xin thế nào đức vua đều gạt đi. Khi ngài biết được phía tây đỉnh núi Du Lâm có ngôi cổ miếu không biết dựng từ bao giờ bèn sai Điền Công, Điền Thái sửa lại, dựng căn nhà gỗ nhỏ để ngài niệm phật. Cũng từ ấy, đức vua chỉ dùng đồ chay, chuyên tâm niệm kinh phật tuyệt không nhắc đến việc quân, việc nước nữa. Khi Điền Công, Điền Thái cố gạn hỏi đức vua chỉ lặng im hướng cặp mắt đã không còn nhìn thấy gì vào vách đá. Những ngày gió rét mưa dầm, thương bọn Điền Công phải vất vả mang đồ chay lên đỉnh núi, đức vua quở mắng đuổi bắt dời cổ miếu. Biết tính vua, hai tướng Điền Công, Điền Thái chỉ đành ngậm ngùi khóc mà xuống núi.

Đức vua lên núi tu hành được hai năm, vào một đêm trăng lạnh, từ chiều vua đuổi thế nào Điền Công, Điền Thái cũng nhất định không chịu rời núi. Hai người lặng lẽ nhóm lửa bên ngoài cổ miếu. Luôn nửa tháng trước, anh em họ Điền phát hiện quanh miếu có nhiều dấu chân hổ lớn, cánh rừng quanh đỉnh núi chim chóc muông thú đột nhiên vắng lặng, đoán chắc có ông kễnh nơi rừng thẳm đang mò mẫm săn mồi nên rất lo cho sự an nguy của vua. Cả hai chỉ biết âm thầm niệm phật cầu mong vua hồi tâm chuyển ý rời miếu xuống động để các tộc trưởng chăm sóc.

Đêm càng khuya, sương càng xuống lạnh. Từng giọt sương thẫm ướt lá cây rừng rơi tí tách, có giọt bắn vào tàn lửa lèo xèo. Đức vua suốt từ chiều ngồi quay mặt vào vách đá không nói nửa lời mặc Điền Công, Điền Thái khóc lóc cũng không đụng tới chút đồ chay khiến chúng dần nguội ngắt.

Đống lửa dần tàn, gộc củi tàn tro u uẩn. Điền Công, Điền Thái sau cả ngày khóc lóc đã thiếp giấc trên manh chiếu kề sát đống lửa. Bỗng từ con đường mòn tối thẫm, một cặp mắt cọp khổng lồ xanh lét hiện ra rồi dần dần chuyển động lướt êm ru về ngôi cổ miếu. Trong ánh lửa lập lòe, xuất hiện một ông hổ vàng bờm trắng thân dài hơn trượng đi nhấp nhô như sóng tiến vào cửa miếu nằm phủ phục ngày sát chỗ đức vua đang quay mặt vào vách đá.

Bên ngoài, Điền Công, Điền Thái vẫn thiếp giấc không hề hay biết.

Khi trời mờ sáng, anh em họ Điền giật mình choàng dậy cũng là lúc đống lửa đã tàn chỉ còn tro lạnh cả hai vội vào tìm vua chỉ thấy ngôi miếu trống không, chiếc giường gỗ kề vách đá tịnh không bóng người. Cả hai kinh hãi chạy tìm khắp nơi chẳng thấy vua đâu chỉ chi chít dấu chân hổ lớn như chiếc đấu hãy còn rất mới.

Hôm đó là ngày đông chí năm 548.

 

 

 

 

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây