Cầu Long Biên, ký ức lưu lại

Cầu Long Biên, ký ức lưu lại

Cầu Long Biên khoảng những năm 1950. Ảnh: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I.

Chỉ là một cây cầu, song hẳn ít có cây cầu nào ở Việt Nam lại hòa vào lịch sử đến thế, xét trên góc độ nào cũng đọng lại nhiều ký ức, biệt lệ đáng trân trọng và phảng phất đôi điều muốn lưu lại…

Cầu Long Biên có tên “khai sinh” là Paul Doumer, bởi chính vị Toàn quyền Đông Dương thời đó quyết định xây cây cầu này. Cơ duyên khiến Paul Doumer quyết bắc cầu Long Biên có lẽ từ khi ông đặt chân tới Hà thành, cảnh trí của Kinh kỳ – Thăng Long ùa vào cảm xúc của vị Toàn quyền. Ông viết trong Ký ức Đông Dương thuộc Pháp như sau: “Khi tôi nhìn thấy Hà Nội vào đầu tháng 3.1897, thành phố lúc đó thật là duyên dáng với các ngôi nhà trắng cổ kính của người Việt và người Hoa chen lẫn nhau ở bờ Bắc khiến nó giữ được vẻ đẹp phương Đông như trong tranh. Các khu phố An Nam với những con phố nhỏ hẹp, hai bên là những hàng nhà thấp có cửa hàng lấn ra cả vỉa hè đông đúc trông thật ấn tượng. Chính đó mới là cái hồn thật sự của Hà Nội”.

Đâu phải chỉ có cầu Long Biên mà trong nhiệm kỳ 5 năm là Toàn quyền, Paul Doumer đã tạo “bước ngoặt lớn” về cơ sở hạ tầng cho Xứ Đông Dương và riêng với nước ta là chuỗi công trình để đời khắp cả nước. Cùng với cầu Long Biên (Hà Nội) còn có cầu Trường Tiền (Huế), cầu Bình Lợi (Sài Gòn), cảng Hải Phòng, hệ thống đường sắt xuyên Đông Dương, đường sắt Vân Nam…

Không kể chuỗi công trình hạ tầng để đời nói trên mà chỉ riêng việc quyết đoán xây cầu Long Biên cho thấy ông đã thực sự “toàn quyền”. Ngày nay, còn lưu giữ bản viết của Paul Doumer: “Đông Dương, cần tất cả những gì tạo nên cơ sở hạ tầng cơ bản cho một xứ sở rộng lớn, phì nhiêu và đông đúc. Một việc mà tôi cho rằng cực kỳ cấp thiết, đó là xây dựng một cây cầu lớn qua sông Hồng ở Hà Nội”. Và khi ông quyết định bắc cây cầu dài 1.600m qua sông Hồng, ông đã không nhận được nhiều sự tán đồng. Người ta coi việc này là không khả thi, “như thể muốn xếp chồng những ngọn núi lên nhau để leo lên trời”.

Sông Hồng rộng như một eo biển, sâu hơn 20m và dâng thêm 8m vào mùa lũ. Lòng sông luôn thay đổi, khi bồi chỗ này, lúc lở chỗ kia. Một con sông như vậy sao có thể chế ngự bằng một cây cầu đặt trụ dưới một lòng sông đầy sóng dữ. “Những vị quan có tư tưởng phóng khoáng nhất cũng tỏ ra nghi ngại, và cho rằng chúng ta có quyết định liều lĩnh”.

Khi vào việc, ở góc độ pháp lý kinh tế – kỹ thuật, dù là quyết định của chính mình song không phải ông là Toàn quyền ắt có “toàn quyền” định đoạt, việc xây dựng cầu Long Biên vẫn phải qua đấu thầu. Có 6 công ty lớn của Pháp tham gia và Công ty Daydé et Pillé đã giành chiến thắng. Công ty mang tên Daydé et Pillé – một kỹ sư bách nghệ lừng danh với bề dày kinh nghiệm. Công ty đã làm nhiều công trình hầm cầu, trong đó nổi tiếng là ga đường sắt Bordeaux-Saint-Jean, mái vòm và gian giữa của Cung điện lớn Grand Palai ở Paris.

Bản đăng ký dự thầu của Công ty Daydé et Pillé được chính Doumer phê duyệt với các bản vẽ mặt đứng và mặt cắt dọc nhịp cầu dài 51,2m với các dầm chìa ra của các nhịp cầu… và tên tuổi nhà thầu Daydé et Pillé mới được khắc ghi trên tấm biển kim loại nhỏ nhắn, chữ nổi, trên nhịp cầu phía hữu ngạn, đến nay vẫn sắc nét.

Cau Long Bien 2 min - Cầu Long Biên, ký ức lưu lạiCầu Long Biên hiện còn vương chứng tích một thời đạn bom.

Ngày nay, việc bắc cầu qua mọi dòng sông không còn là chuyện to tát, song với trình độ kỹ thuật hơn một trăm năm trước, vừa với dòng sông Hồng khi chưa được trị thủy thì quả là ý tưởng táo bạo và thành công càng xứng danh kỳ tích.

Cây cầu được chính thức khởi công xây dựng ngày 12.9.1898, được đánh dấu bằng nghi thức Toàn quyền Paul Doumer dùng chiếc bay bằng bạc gắn tấm biển bằng đá hoa cương lên đầu cầu.

Với sông Hồng vừa rộng, vừa sâu, việc chế ngự bằng một cây cầu đặt trụ trong một lòng sông đầy sóng dữ tưởng như là điều không thể, nhưng các kỹ sư Pháp cùng những người thợ Việt Nam đã chinh phục một cách ngoạn mục.

Trở ngại đầu tiên là thay đổi mực nước sông Hồng, tăng thêm 8m vào mùa mưa lũ với tốc độ dòng chảy 4m/giây… nên công trình được thực hiện từ tháng 11 đến tháng 6 năm sau và dừng thi công trong những tháng lũ lụt. Hơn nữa, thuyền bè di chuyển trên sông cũng không bị cản trở. Đặc biệt, các trụ cầu khi đang xây dựng phải được bảo vệ, tránh các nguy cơ do bè tre, gỗ gây ra.

Việc đào móng xây trụ cầu là công đoạn khó khăn nhất, được tiến hành ở độ sâu 30m, do kỹ sư Jacques Triger sáng chế ra. Phương pháp này cần dùng các máy nén khí. Đầu tiên, một giếng chìm hơi ép được nhấn chìm xuống đất và sau đó được điều áp để ngăn nước tràn lên. Tiếp đó, chiếc giếng biến thành một van điều áp có nắp…

Nói rằng “những người thợ Việt Nam đã chinh phục được” không phải là tranh công, ta tự khen ta, mà thoạt đầu, chủ thầu tuyển đa số thợ là người Tàu nhưng họ nhanh chóng bó tay; thợ An Nam khéo tay, giỏi chống chịu hơn nên đã thành công. Đội quân thợ đá, thợ mộc, thợ xây, thợ sắt… hơn 2.000 người, có lúc lên tới 3.000 người, làm việc dưới sự hướng dẫn của khoảng 40 quản đốc, kỹ sư, đốc công người Pháp.

Dù thi công thời đó nhiều thao tác thủ công, nặng nhọc, mạo hiểm và mới mẻ đối với họ, song kết cục suôn sẻ. Được kể rằng đinh ri-vê được nung đỏ bằng lò bễ tại chỗ, rồi dùng kìm cặp “tung” cho thợ tán đón bằng phễu sắt như trò xiếc tung hứng, đút ngay vào lỗ giáp nối, hối hả búa tán, khi đinh hết đỏ thì hai bên đầu đinh tán cũng vừa phẳng mịn. Việc tung đinh tán nung đỏ là thủ thuật từng được người Pháp áp dụng trước đó, trong đó có xây dựng tháp Eiffel, tới Cầu Long Biên thì đến tay thợ Việt thao tác…

Tới 28.2.1902, đoàn tàu hỏa rời ga mới của Hà Nội đưa vua Thành Thái và Toàn quyền Paul Doumer thông cầu. Cây cầu được xây dựng với tốc độ ấn tượng, trong 3 năm 7 tháng, trong khi định hạn là 5 năm, không đội vốn. Cây cầu này là công trình xây dựng lớn nhất Đông Dương lúc bấy giờ. Và nó từng là cây cầu dài thứ hai trên thế giới (chỉ sau cầu Brooklyn bắc qua sông East-River của Mỹ), thậm chí được gọi là tháp Eiffel nằm ngang của Hà Nội.

Từ khi ra đời, cây cầu không chỉ tạo ra đột phá trong đời sống kinh tế – xã hội khu vực sông Hồng mà trở thành biểu tượng của kiến trúc và kết cấu thép đồ sộ nhất Đông Nam Á. Trên dòng sông miệt mài chở nặng phù sa theo nước trên nguồn về xuôi, bỗng hiện ra cây cầu như một con rồng xanh, vươn mình, bay lên, hay tựa như một cầu vồng kiêu hãnh giữa khoảng không bao la.

Chữ “Long Biên” được đặt tên cho cây cầu có lẽ được nảy ra từ huyền thoại Thăng Long, tức rồng bay. Những vần ca dao mộc mạc bật ra từ sự hả hê, được đổi đời khi cây cầu này thay thế cho những chuyến đò ngược xuôi rẽ dòng nước cả, nhọc nhằn chèo lái:

Hà Nội có cầu Long Biên
Vừa dài vừa rộng bắc trên sông Hồng
Tàu xe đi lại thong dong
Người người tấp nập gánh gồng ngược xuôi.

Cũng từ đó cây cầu nhịp bước theo dòng lịch sử của non nước này. Ngày Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945, hàng nghìn người dân từ tả ngạn sông Hồng rầm rập qua cầu Long Biên hòa cùng dòng người muôn nẻo hồ hởi đến Quảng trường Ba Đình lịch sử, hô vang lời thề độc lập. Rồi cây cầu đi qua cuộc trường kỳ kháng chiến 9 năm, tới 10.10.1954, rực rỡ cờ hoa đón chào đoàn quân chiến thắng tiến về giải phóng Thủ đô. Những năm chiến tranh phá hoại miền Bắc, cầu Long Biên là một trong những trọng điểm oằn mình hứng chịu bom đạn, đưa những đoàn hùng binh tiến đến Ngày Toàn thắng về ta.

Vắt qua ba thế kỷ, cầu Long Biên không chỉ là một công trình kiến trúc mà còn là chứng nhân lịch sử, bảo tàng vô giá.

Hà Nội đã và sẽ có thêm nhiều cây cầu tân kỳ, hoa mỹ hơn vượt sông Hồng. Cầu Long Biên chắc chắn không còn giữ vai trò huyết mạch giao thông, nhưng chính nó đang tôn lên giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc, là một phần không thể thiếu trong lòng người Hà Nội và sẽ nổi lên là điểm đến hút du khách bốn phương mỗi khi đặt chân tới Kinh kỳ. Cầu Long Biên còn đúng với ý nghĩa là nhịp cầu hữu nghị sâu đậm bang giao Việt – Pháp trong kỷ nguyên hội nhập và phát triển.

Nguyễn Duy Nghĩa

 

 

 

 

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây