Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Thạnh

Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Thạnh

Giới thiệu khái quát huyện Vĩnh Thạnh

ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA HUYỆN VĨNH THẠNH

1. Vị trí địa lý

Huyện Vĩnh Thạnh nằm phía Tây bắc tỉnh Bình Định, ở vĩ độ 13058’ Bắc và kinh độ 1080 Đông. Tây và Tây bắc giáp thị xã An Khê và huyện K’Bang (Gia Lai); Kon Plong (Kon Tum); An Lão (Bình Định). Đông và Đông bắc nối liền các huyện Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát. Nam sát cánh cùng huyện Tây SơnVân Canh.
2. Đặc điểm khí hậu
Huyện Vĩnh Thạnh là một huyện miền núi do điều kiện hoàn lưu gió mùa kết hợp với vị trí địa lý và điều kiện địa hình, đặc biệt là dãy Trường Sơn có ảnh hưởng lớn đến các yếu tố khí hậu của huyện. Có khí hậu nhiệt đới ẩm, mưa mùa. Nhiệt độ trung bình hàng năm 26 – 280C. Lượng mưa trung bình năm 1.716 mm, phân bổ theo mùa rõ rệt. Mùa mưa (từ tháng 10 đến tháng 12) tập trung 70 – 80% lượng mưa cả năm, lại trùng với mùa bão nên thường xuyên gây ra bão, lụt. Mùa khô kéo dài gây nên hạn hán ở nhiều nơi. Lượng bốc hơi trung bình hàng năm là 900 – 1.100 mm, chiếm 50 – 55% tổng lượng mưa. Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm là 81%.
3. Đặc điểm địa hình – thuỷ văn
Là một huyện miền núi nằm dọc theo lưu vực sông Kôn với chiều dài giới hạn phía Tây huyện giáp Gia Lai chạy dọc dãy núi từ đèo An Khê lên Kanát với độ cao bình quân so với mực nước biển là 700m, phía Đông giáp Hoài Ân, Phù Cát khống chế bỡi dãy núi từ Hòn Khá tới cuối xã An Toàn, bề ngang chỗ hẹp nhất 15km, chỗ rộng nhất 22km. Toàn bộ huyện Vĩnh Thạnh có 2 thung lũng lớn là thung lũng sống Kôn và thung lũng Suối Xem. Thung lũng sống Kôn dài 42 km, được chia bỡi 2 dãy núi lớn kéo dài có nhiều nhánh suối lớn chảy vào như suối Xem, Tà Xôm, Hà Rơn, Nước Trinh và nhiều nhánh suối khác đổ vào và mạng lưới kênh mương nhân tạo đã tạo nên cảnh quan đa dạng, thuận lợi cho quy hoạch xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của huyện Vĩnh Thạnh.

Vĩnh Thạnh – Vùng đất giàu tiềm năng

Huyện Huyện Vĩnh Thạnh nằm phía tây bắc tỉnh Bình Định, tây và tây bắc giáp các huyện An Khê và K’ Bang (Gia Lai), Konplong (Kon Tum) và huyện An Lão; đông và đông bắc nối liền các huyện Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát. Phía nam sát cánh cùng huyện Tây Sơn và Vân Canh.

Huyện Vĩnh Thạnh vốn là những làng của người dân tộc Ba-na. Khoảng đầu thế kỷ XVIII, người Kinh lên vùng đất này lập nghiệp dựng xóm ấp cho đến cuối năm 1945, những làng vùng này thuộc Tổng Vĩnh Thạnh của huyện Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn) và Tổng Kim Sơn của huyện Hoài Ân.

Tháng 4 năm 1947 tỉnh Bình Định lập 4 huyện miền núi: Vân Canh, Vĩnh Thạnh, Kim Sơn và An Lão. Tên huyện Vĩnh Thạnh bắt đầu từ đó.

Khoảng cuối năm 1952, theo chủ trương của Khu, huyện Vĩnh Thạnh nhập vào tỉnh Gia-Kon, đến tháng 7-1954 trở về thuộc tỉnh Bình Định. Cho đến năm 1954 toàn huyện Vĩnh Thạnh gồm 50 làng thuộc 11 xã: Vĩnh An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo, Vĩnh Kim, Vĩnh Châu, Vĩnh Trường, Vĩnh Bình, Vĩnh Nghĩa, Vĩnh Hưng và Vĩnh Thuận.

Cuối năm 1955 nhập 5 làng (Nước Cạn, Đập Mới, Trà Hương, Kon Roi, Kon Sư) thuộc xã Hoành Sơn của huyện Phù Cát.

Năm 1961, nhằm động viên nhân dân bước vào cuộc chiến đấu mới chống giặc Mỹ xâm lược và để giữ bí mật, lãnh đạo tỉnh đã lấy tên sông núi, tên người có công đặt tên cho xã (như núi Yang Điêng thay cho tên gọi xã Vĩnh Hiệp, suối Lơ Pinh là xã Vĩnh Trường, Bok Toih là xã Vĩnh Bình …) và các chữ cái kèm con số đặt tên cho một số làng vì vậy mới có các tên mật danh: M6 (làng Lơ Ye), K11 (Kon Kriêng), N3 (Đe Klăng), O5 (Kon Trinh) …

Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975) do đòi hỏi của các công tác chống địch và sản xuất, việc tách, nhập làng ở Vĩnh Thạnh luôn luôn xảy ra (cuối năm 1955 toàn huyện có 60 làng, đến năm 1971 còn 40 làng, đến năm 1974 là 45 làng).

Năm 1976, hai huyện Vĩnh Thạnh và Bình Khê hợp thành huyện Tây Sơn.

Năm 1982 lập lại huyện Vĩnh Thạnh gồm 6 xã trong đó có 5 xã miền núi (Vĩnh Sơn, Vĩnh Kim, Vĩnh Hảo, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hòa) và xã trung du Bình Quang.

Năm 1986 tỉnh điều chỉnh địa giới 3 xã Bình Quang, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo thành 4 xã: Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo, Vĩnh Thịnh, Vĩnh Quang.

Hiện nay toàn huyện có 57 thôn nằm trong 9 xã, thị trấn là Vĩnh Sơn, Vĩnh Kim, Vĩnh Hảo,Vĩnh Hòa, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Quang, Vĩnh Thịnh, Vĩnh Thuận và thị trấn Vĩnh Thạnh.

Địa thế tự nhiên: Địa thế Vĩnh Thạnh rất hiểm yếu. Hai bên bờ sông Côn là các dãy núi chập chùng với những đỉnh khá cao như núi Bok Bang ở Vĩnh Kim (975m) Kon Truch tại Vĩnh Sơn (1.019m). Đây cũng là thượng nguồn của 3 con sông lớn của tỉnh Bình Định: Sông Kim Sơn (một nhánh của sông Lại), sông La Tinh và sông Côn.

Sông Côn dài hơn 171 km bắt nguồn từ các dãy núi cao vùng K’Bang, An Lão (trung tâm mưa lớn nhất tỉnh Bình Định). Sông Côn chảy xuyên suốt từ bắc đến nam huyện Vĩnh Thạnh, đưa nước tưới về những cánh đồng các huyện Tây Sơn, An Nhơn, Phù Cát, Tuy Phước và đổ ra đầm Thị Nại. Đây là tuyến đường sông khá thuận lợi nối vùng cao giàu lâm thổ sản của huyện Vĩnh Thạnh với các huyện đồng bằng phía nam tỉnh.

Vĩnh Thạnh có tỉnh lộ ĐT 637 dài 57 km chạy từ đông nam đến tây bắc huyện – đó là đường từ Vĩnh Sơn xuống lượn theo dòng sông Côn nối với Quốc lộ 19 tại Vườn Xoài (Cầu 16). Tuyến đường này tạo điều kiện thuận lợi cho quần cư và phát triển sản xuất.

Dân cư: Những năm 1945-1990 Vĩnh Thạnh có những thay đổi về địa giới, hành chính và các biến động về dân số. Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, dân số Vĩnh Thạnh dường như không tăng, khoảng từ 4.300 – 4.600 người. Nhưng từ năm 1980 trở đi thì liên tục tăng:

1982 là 15.300 người

1988 là 20.600 người

1991 là 23.000 người

Và đến năm 2017 là 33545 người (9321hộ). Vĩnh Thạnh là địa bàn hội tụ 12 dân tộc anh em sinh sống, trong đó đông nhất là dân tộc Kinh với 71.88% người, dân tộc thiểu số 28,12% dân số toàn huyện.

Truyền thống: Vĩnh Thạnh vốn thuộc Tây Sơn thượng đạo, căn cứ đầu tiên của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra cuối thế kỷ thứ 18 của 3 anh em nhà Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ. Đây cũng là căn cứ của cuộc khởi nghĩa Mai Xuân Thưởng (1885-1887). Trong kháng chiến chống Pháp, Vĩnh Thạnh vừa là tiền tuyến của quân dân tỉnh Bình Định, vừa là hậu phương tại chỗ của quân dân vùng địch hậu đông nam tỉnh Gia Lai – Kon Tum. Trong kháng chiến chống Mỹ, nơi đây đã nổ ra cuộc khởi nghĩa Vĩnh Thạnh (ngày 6-02-1959) – cuộc khởi nghĩa từng phần đầu tiên của phong trào Đồng khởi của quân khu 5. Đây là căn cứ địa của tỉnh Bình Định suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ hào hùng (1954 – 1975). Nơi đây đã diễn ra những trận đọ sức quyết liệt của quân dân Bình Định với một số đơn vị thiện chiến của đội quân viễn chinh xâm lược Mỹ và chư hầu.

Vĩnh Thạnh luôn luôn là địa bàn chiến lược, vùng có tầm quan trọng cả về chính trị, kinh tế và quốc phòng đối với tỉnh Bình Định thời bình phát triển kinh tế cũng như thời chiến bảo vệ đất nước. Hơn nữa đây là vùng bản lề, cửa ngõ nối đồng bằng cửa biển và thành thị tỉnh Bình Định với Tây Nguyên, đông bắc Campuchia, Hạ Lào – địa bàn chiến lược quan trọng của Đông Dương.

Trong suốt chiều dài của lịch sử chống giặc cứu nước hào hùng của dân tộc, nhân dân các dân tộc Vĩnh Thạnh đã nêu cao tinh thần đoàn kết Kinh Thượng đấu tranh bất khuất, anh dũng kiên cường và thủy chung son sắt. Đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, quân và dân Vĩnh Thạnh đã đoàn kết một lòng, hy sinh xương máu và dâng hiến nhân tài vật lực cùng cả nước đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tiềm năng đa dạng:

Vĩnh Thạnh có quĩ đất tự nhiên khá rộng, đứng thứ 2 (sau Vân Canh) trong 11 huyện, thành phố của tỉnh Bình Định (782,49/6.075,4 km2) chiếm 39% diện tích 3 huyện miền núi của tỉnh và 13% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Vĩnh Thạnh là một vùng tiềm năng kinh tế đa dạng của tỉnh.

Trước hết, chất đất Vĩnh Thạnh khá phong phú có 14 loại. Nhờ các loại đất tốt nên Vĩnh Thạnh thích hợp trồng các loại cây công nghiệp lâu năm (cà phê, ca cao, chè, cao su), các loại cây ăn quả và các loại mía, mì, thuốc lá, đậu phụng cho năng suất cao và giữ vị trí quan trọng đối với cả tỉnh.

Sông Côn dài hơn 171 km chảy xuyên suốt từ bắc đến nam huyện có các chi lưu bắt nguồn từ những dãy núi cao dốc đứng, tạo thành nhiều thác ghềnh và thung lũng thuận lợi xây dựng các hồ chứa nước, tiềm năng thủy lợi dồi dào của tỉnh. Năm 1987 tỉnh đã xây dựng nhà máy thủy điện Vĩnh Sơn công suất 66.000KWh (đã hòa lưới điện quốc gia). Ngày 22.9.2012 công trình Hồ thuỷ lợi Định Bình lớn nhất tỉnh đã được khánh thành và đưa vào sử dụng mở ra triển vọng phát triển nông nghiệp, thuỷ sản và du lịch.

Lâm nghiệp Vĩnh Thạnh trù phú bậc nhất của Bình Định. Không những diện tích đất lâm nghiệp đứng đầu toàn tỉnh mà đất có cây cũng khá lớn: chiếm 60% quĩ đất lâm nghiệp của địa phương. Rừng Vĩnh Thạnh có nhiều loại gỗ quí: lim, trắc, cẩm lai, hương, cà te, mun, dổi, muồng đen, sao, chò… Cẩm lai rừng Vĩnh Thạnh đã từng góp mặt gửi ra xây lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại thủ đô Hà Nội. Ngoài gỗ, rừng Vĩnh Thạnh có nhiều loại thú hoang dã quí hiếm: hổ, voi, gấu, gà lôi, công, kỳ đà, trăn, rùa vàng… và những lâm thổ sản, dược liệu có giá trị kinh tế cao: trầm hương, sa nhân, hoàng đằng, mật ong…

Dưới lòng đất Vĩnh Thạnh, tuy mới thăm dò bước đầu song đã phát hiện những loại khoáng sản có giá trị: vàng, bô xít, mi ca, cao lanh, nước khoáng, đá granit… Các điểm quặng này từng thu hút một số nhà tư bản khai khoáng Pháp, Mỹ từ những năm 1902, 1904…

Trong tương lai không xa, Vĩnh Thạnh sẽ là một điểm du lịch hấp dẫn: khu rừng già với khí hậu trong lành cùng các gộp đá và thác nước kỳ thú ở Vĩnh Sơn, Vĩnh Kim, Vĩnh Hiệp… cũng như di tích thành đá Tà Cơn, Vườn cam Nguyễn Huệ, Nhà máy thủy điện Vĩnh Sơn, Hồ Định Bình lôi cuốn khách du lịch trong và ngoài nước. 

MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC NĂM 2014 VÀ CHỈ TIÊU KẾ HOẠCH NĂM 2015

I. Một số kết quả đạt được năm 2014

1. Tổng sản phẩm địa phương tăng 13,9% (Nghị quyết HĐND huyện 13,8%). Trong đó:

– Nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 10,1% (Nghị quyết HĐND huyện: 8,9%).

– Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp tăng 20,9% (Nghị quyết HĐND huyện: 18,3%).

– Thương mại – dịch vụ tăng 18,2% (Nghị quyết HĐND huyện: 16%).

2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Tỷ trọng nông – lâm nghiệp và thủy sản chiếm 51,4% (Nghị quyết HĐND huyện: 49,18%); công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp chiếm 3,72% (Nghị quyết HĐND huyện: 3,86%); thương mại – dịch vụ chiếm 44,88% (Nghị quyết HĐND huyện: 46,96%).

3. Sản lượng lương thực có hạt 16.024,5 tấn, (Nghị quyết HĐND huyện: 15.582 tấn). Trong đó, sản lượng thóc 13.665 tấn (Nghị quyết HĐND huyện: 13.242 tấn).

4. Tổng thu ngân sách nhà nước ước thực hiện 319.118 triệu đồng (Nghị quyết HĐND huyện: 180.956 triệu đồng),trong đó thu trên địa bàn huyện hưởng theo phân cấp 20.869 triệu đồng (Nghị quyết HĐND huyện: 27.540 triệu đồng).

5. Tổng chi ngân sách ước thực hiện 309.986 triệu đồng (Nghị quyết HĐND huyện: 180.956 triệu đồng).

6. Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển 109.041 triệu đồng (Nghị quyết HĐND huyện: 105.822 triệu đồng).

7. Bình quân lương thực đầu người 549,4 kg/năm (Nghị quyết HĐND huyện: 538,8 kg/người/năm).

8. Thu nhập bình quân đầu người 16,730 triệu đồng/năm (Nghị quyết HĐND huyện: 16,628 triệu đồng/năm).

9. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 0,93% (Nghị quyết HĐND huyện: 0,7%).

10. Tạo việc làm mới 500 lao động (Nghị quyết HĐND huyện: 650 lao động).

11. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, bồi dưỡng nghề so với tổng số lao động 27% (Nghị quyết HĐND huyện: 29,63%).

12. Tỷ lệ hộ nghèo 37,87% (Nghị quyết HĐND huyện: 39,47%).

13. Tỷ lệ Trạm y tế có bác sĩ 100% (Nghị quyết HĐND huyện: 100%).

14. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng 18,35% (Nghị quyết HĐND huyện: 20%).

15. Tỷ lệ hộ dân dùng nước hợp vệ sinh 94% (Nghị quyết HĐND huyện: 93,5%).

16. Tỷ lệ hộ dân dùng điện sinh hoạt 98% (Nghị quyết HĐND huyện: 98%).

17. Tỷ lệ độ che phủ rừng 65,6% (Nghị quyết HĐND huyện: 65,6%).

– Trồng trọt: Tổng diện tích lúa thực hiện 2.429,5 ha, tăng 2% so với năm trước, năng suất 56,2 tạ/ha, tăng 3,7% so với năm trước. Diện tích và năng suất một số cây trồng cạn như ngô 522 ha, tăng 2% so với năm trước, năng suất 45,2 tạ/ha, tăng 0,9%; lạc 57,2 ha, giảm 18,3%, năng suất 27,1 tạ/ha, tăng 2,3%; đậu các loại 1.028 ha, giảm 12,7%, năng suất 15 tạ/ha, giảm 19,6%; cây mì 719 ha, tăng 4,7%, năng suất 322,5 tạ/ha, tăng 0,2%; mía 334 ha, giảm 15%, năng suất 627,1 tạ/ha, tăng 0,6%; điều 1.800 ha, năng suất 4,4 tạ/ha, sản lượng 799,2 tấn; măng tre điền trúc 155 ha, năng suất 140 tạ/ha, sản lượng 2.170 tấn; cà phê 90 ha, năng suất 12 tạ/ha, sản lượng 108 tấn; rau hoa các loại 7.700 tấn…

– Chăn nuôi: Tổng đàn trâu hiện có 1.227 con, tăng 0,1% so với năm trước; đàn bò 14.572 con, tăng 4,4%, tỷ lệ lai 89%; đàn lợn 22.930 con, tăng 9%, tỷ lệ lai 99%; đàn dê 1.467 con, tăng 15,9%; gia cầm 99.900 con, tăng 6,6%…

– Lâm nghiệp: Công tác giao khoán quản lý bảo vệ rừng 23.595,7 ha, tăng 4,8% so với năm trước. Triển khai trồng 540 ha rừng theo Dự án Jica2, rừng phòng hộ gắn với cảnh quan, rừng sau khai thác, trồng rừng chuyển đổi mục đích. Khai thác rừng trồng các loại 15.063m3

– Thủy sản: Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản 82,6 ha, tăng 77,3% so với năm trước; nuôi cá lồng hồ Định Bình, quy mô 14.220m3, năng suất bình quân 29,6 kg/m3. Sản lượng thủy sản ước thực hiện 511 tấn, tăng 11,8% so với năm trước.

– Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp

Sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp tiếp tục tăng so với năm trước, những sản phẩm chủ yếu như dầu thực vật tăng 7,1%; xay xát tăng 10,4%; rượu trắng tăng 19,9%; than Binchotan 150 tấn… Một số sản phẩm như thức ăn gia súc giảm 3,2%; chế biến lâm sản giảm 17,9%. Cụm công nghiệp Tà Súc đã thu hút được 5 doanh nghiệp đăng ký đầu tư, hiện nay có 2 doanh nghiệp đi vào hoạt động chế biến, sản xuất đồ gỗ và than hoạt tính Binchotan, 1 doanh nghiệp đang triển khai xây dựng nhà máy chế biến hạt nhựa; đồng thời đang xúc tiến thu hút đầu tư 1 nhà máy chế biến tinh bột sắn.

II. Chỉ tiêu kế hoạch năm 2015

– Tổng sản phẩm địa phương tăng 13,7%.

Trong đó nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 8,8%; công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp tăng 24%; thương mại – dịch vụ tăng 19%.          

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Phấn đấu tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản; công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp; thương mại – dịch vụ tương ứng 50,12% – 4,05% – 45,83%.

– Sản lượng lương thực có hạt 16.520,6 tấn (sản lượng thóc 14.125 tấn).

– Tổng thu ngân sách huyện 170.404 triệu đồng, trong đó thu trên địa bàn 14.570 triệu đồng(thu tiền sử dụng đất 2.000 triệu đồng).  

– Tổng chi ngân sách huyện 170.404 triệu đồng.

– Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển dự kiến 141.598 triệu đồng.

– Bình quân lương thực đầu người 561,2 kg/năm.

– Thu nhập bình quân đầu người 18,068 triệu đồng/năm.

– Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 0,8%.

– Tạo việc làm mới 600 lao động.

– Tỷ lệ lao động được đào tạo, bồi dưỡng nghề so với tổng số lao động 32%.

– Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 33%.

– Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 16,5%.

– Tỷ lệ độ che phủ rừng đạt 65,6%.

– Tỷ lệ  dân số sử dụng nước hợp vệ sinh 95%

– Tỷ lệ hộ dân cư sử dụng điện sinh hoạt 98%.

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây