Giới thiệu khái quát huyện Bắc Hà

Giới thiệu khái quát huyện Bắc Hà

Giới thiệu khái quát huyện Bắc Hà

  1. Vị trí địa lí, địa hình

Bắc Hà là huyện được điều chỉnh địa giới hành chính và tái lập năm 2000 trên cơ sở chia tách huyện Bắc Hà (cũ) thành 2 huyện: Bắc Hà (mới) và Si Ma Cai. Về hành chính, Bắc Hà có 20 xã và 1 thị trấn, chia thành 3 vùng với địa hình, chế độ thời tiết khí hậu khác nhau. Vùng thượng huyện có độ cao trên 1.500 m so với mực nước biển, gồm các xã: Tả Củ Tỷ, Bản Già, Lùng Phình, Lùng Cải, Tả Văn Chư, Lầu Thí Ngải. Vùng trung huyện có độ cao từ 900 – 1200 m, gồm các xã: Bản Phố, Tà Chải, Na Hối, Nậm Khánh, Bản Liền, Hoàng Thu Phố, Thải Giàng Phố và thị trấn Bắc Hà. Vùng hạ huyện có độ cao dưới 600 m, gồm các xã: Bản Cái, Cốc Lầu, Nậm Lúc, Bảo Nhai, Nậm Mòn, Nậm Đét, Cốc Ly.

Về không gian địa lý, Bắc Hà nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Lào Cai, cách thành phố Lào Cai khoảng 66 km, cách thành phố Côn Minh, tỉnh Vân Nam – Trung Quốc khoảng 560 km. Nơi đang có những tiềm năng phát triển mạnh kinh tế mậu biên trong giao lưu với Vân Nam Trung Quốc và sự phát triển của Khu kinh tế của khẩu – khu kinh tế đặc biệt của Việt Nam và Trung Quốc. Bắc Hà nằm trên tọa độ từ 22019’ đến 22024’ vĩ độ Bắc, 10409’ đến 104028’ kinh độ Đông. Phía Bắc của Huyện giáp huyện Si Ma Cai và huyện Mường Khương. Phía Đông giáp huyện Sín Mần tỉnh Hà Giang. Phía Tây huyện giáp huyện Bảo Thắng. Phía Nam huyện giáp huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai. Với vị trí địa lý trên, Bắc Hà có những điều kiện địa lý khá thuận lợi cho phát triển kinh tế theo hướng khai thác các tiềm năng lợi thế so sánh và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, trước hết là Trung Quốc.

Là Huyện có vị trí địa lý đặc thù, với những điều kiện khí hậu thuận lợi và được chia tách từ huyện có quy mô lớn, Bắc Hà trước khi chia tách có vai trò khá quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội và quốc phòng an ninh đối với tỉnh Lào Cai và khu vực phía Bắc của vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ. Về kinh tế, Bắc Hà là cầu nối giữa Lào Cai với Hà Giang và Yên Bái, giữ chức năng trung chuyển và giao lưu hàng hóa giữa các địa phương tạo điều kiện cho các huyện khai thác các tiềm năng, lợi thế, nhất là các lợi thế về nông nghiệp và lâm nghiệp.

Sau khi chia tách trong điều kiện mới, Bắc Hà lại có vai trò, vị trí khá quan trọng đối với tỉnh Lào Cai và huyện Si Ma Cai trong phát triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng. Về kinh tế, sự chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau giữa 2 huyện Bắc Hà (mới) và huyện Si Ma Cai trong những năm qua đã tạo những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của 2 huyện. Hiện tại, Bắc Hà là một trong các cầu nối giữa Si Ma Cai với thành phố Lào Cai và các tỉnh Trung du miền núi như Yên Bái, Phú Thọ với Lào Cai… Sự phát triển của hệ thống hạ tầng trên địa bàn Bắc Hà là điều kiện thuận lợi cho hệ thống hạ tầng của Si Ma Cai gắn kết với hệ thống hạ tầng chung của Tỉnh. Sự phát triển của kinh tế trước hết là nông lâm nghiệp và du lịch tạo thành vành đai xanh, tuyến du lịch cho cả 2 huyện. Sự cộng hưởng trong phát triển kinh tế xã hội sẽ được thể hiện rất rõ.

  1. Về thời tiết, khí hậu

Bắc Hà có các điều kiện thời tiết khí hậu có nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn cho phát triển kinh tế xã hội, nhất là phát triển nông, lâm nghiệp. Khí hậu của huyện Bắc Hà chia thành 3 tiểu vùng đặc trưng. Cụ thể:

– Vùng thượng huyện: Có độ cao từ 1500 đến 1800 m so với mực nước biển, có nhiệt độ bình quân năm 18,70C. Vùng này có khí hậu mang nhiều tính ôn đới, mát mẻ về mùa hè, khô lạnh về mùa đông, rất thích hợp cho trồng cây ăn quả địa phương như mận Tam Hoa, mận Hậu, đào, lê…

– Vùng trung huyện: Có độ cao từ 900 m đến 1200 m so với mực nước biển. Vùng này có khí hậu ôn hoà, mùa hè mát mẻ, mùa đông lạnh khô hanh, với nhiệt độ bình quân từ 250C– 280C. Khí hậu ở đây thuận lợi cho phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, và phát triển vùng cây ăn quả và cây nông nghiệp chè tuyết san.

– Vùng hạ huyện: Độ cao dưới 900 m so với mực nước biển, có nhiệt độ bình quân 280C – 320C, mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới, có nhiều sông suối lớn, thuận lợi cho phát triển du lịch, cây cụng nghiệp, ăn quả, thuỷ sản, thuỷ điện…

Như vậy, Bắc Hà có điều kiện khí hậu đa dạng khó điều hoà là yếu tố thuận lợi cho phát triển nền nông nghiệp đa dạng các cây trồng vật nuôi như các cây ăn quả nhiệt đới và á nhiệt đới  như nhãn vải, xoài, chuối, dứa, đào, mận, táo, lê…; các cây công nghiệp như chè, mía,… và chăn nuôi nhiều loại gia súc gia cầm và thuỷ sản. Tuy nhiên, Bắc Hà cũng bị ảnh hưởng thời tiết khắc nghiệt như: nhiệt độ có độ chênh lệch ngày đêm và các tháng trong năm khá cao; sương muối, mưa đá kèm với dòng chảy mạnh của sông Chảy vào mưa lũ, làm gia tăng các hoạt động xâm thực bào mòn, ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất nông nghiệp, du lịch và sinh hoạt của nhân dân.

Tài nguyên huyện Bắc Hà

  1. Về thuỷ văn và sông ngòi

Bắc Hà nằm trên hệ thống sông Chảy, có sông Chảy là sông chính chảy qua 2 mặt phía Tây Nam của Huyện, với chiều dài khoảng 70 km. Phần lớn lưu vực của sông Chảy nằm trên các xã Cốc Ly, Bảo Nhai, Cốc Lầu, Thải Giàng Phố, Nâm Lúc, Nâm Khánh, Bản Cái… Ngoài sông Chảy trên địa bàn Huyện còn có 4 hệ thống khe suối nhỏ là ngòi Đô, Thèn Phìn, Nậm Pàng, Nậm Lúc, đều đổ ra sông Chảy. Với hệ thống sông ngòi trên, đặc biệt với địa hình dốc nên Bắc Hà có trữ lượng thủy điện lớn.  Hiện trên địa bàn Huyện đã lập dự án và thiết kế xây dựng các công trình thủy điện như Thủy điện Cốc Ly xã Cốc Ly; Thải Giàng Phố xã Thải Giàng Phố; Cốc Đầm xã Nậm Lúc; Nậm Khánh, Nậm Phàng xã Nậm Khánh; Bảo Nhai xã Bảo Nhai; Nậm Lúc xã Nậm Lúc; Trung Đô xã Bảo Nhai. Đây là tiềm năng lớn để mở rộng quy mô phát triển của các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp còn rất nhỏ bé, tạo nên bước phát triển đột biến trong sự phát triển công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Huyện.

Tuy nhiên, hiện tại, khi hệ thống hồ đập còn đang được xây dựng, nguồn nước mặt của Bắc Hà rất khan hiếm về mùa khô, không đáp ứng yêu cầu cho sản xuất và đời sống còn ở quy mô nhỏ và yêu cầu thấp của Huyện.

  1. Về tài nguyên đất đai

– Về số lượng: Tổng diện tích tự nhiên của Bắc Hà là 68.176,4 ha, tăng 304,4 ha so với năm 2006 (do phương pháp đo kiểm kê đất năm 2005).

Trong 68.176,4 ha diện tích đất tự nhiên năm 2008, đất nông, lâm nghiệp và thủy sản là 33.168,02 ha, chiếm 48,65%, trong đó đất sản xuất lâm nghiệp có diện tích lớn nhất với 20.602,6 ha, chiếm 30,22% diện tích đất tự nhiên và 61,11% diện tích đất nông, lâm, thủy sản. Đất sản xuất nông nghiệp có 12.551,33 ha, chiếm 37,0% tổng diện tích đất nông, lâm, thủy sản và 18.41% diện tích đất tù nhiên. Đất mặt nước  nuôi trồng thủy sản chỉ có 14,09 ha.

TT Loại đất (đơn vị ha) 2006 2007 2008
Tổng diện tích tự nhiên 67.872,00 68.176,40 68.176,40
I Đất nông nghiệp 32.683,87 33.050,37 33.168,02
1 Đất sản xuất nông nghiệp 12.699,73 12.681,26 12.551,33
a Đất trồng cây hàng năm 10.383,47 10.343,52 10.220,87
– Đất trồng lúa 2.660,77 2.669,85 2.672,85
– Đất trồng cây hàng năm khác 7.662,70 7.613,67 7.488,02
b Đất trồng cây lâu năm 2.316,26 2.337,76 2.330,46
2 Đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 8,04 14,09 14,09
3 Đất sản xuất lâm nghiệp 19.975,10 20.354,00 20.602,60
a Đất rừng tự nhiên 14.946,10 15.195,10 15.192,87
b Đất rừng trồng 5.029 5.159 5.409,7
– Tr.đó: Đất rừng trồng sản xuất 1.249 2.986 3.169,4
II Đất phi nông nghiệp 2.123,06 2.166,77 2.402,37
1 Đất ở 243,22 246,00 271,46
a Đất ở nông thôn 230,82 231,77 256,62
b Đất ở đô thị 12,40 14,23 14,84
2 Đất chuyên dùng 876,39 899,08 1.109,06
a Đất trụ sở cơ quan công trình sự nghiệp 20,54 21,73 22,53
b Đất quốc phòng an ninh 13,20 11,00 86.04
c Đất sản xuất kinh doanh phi  nông nghiệp 31,19 31,02 31,05
d Đất có mục đích công cộng 811,46 835,33 968,94
3 Đất tôn giáo tín ngư­ỡng 0,1
4 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 36,68 36,68 36,68
5 Đất sông suối và mặt nư­ớc chuyên dùng 963,77 981,32 982,07
6 Đất phi nông nghiệp khác 3,00 3,00 3,00
III Đất ch­ưa sử dụng 33.065,07 32.959,26 32.606,01

Đáng chú ý là, trong diện tích đất sản xuất nông nghiệp đất trồng cây hàng năm có tới 10.220,87 ha, chiếm 81,43% trong đó đất trồng lúa chỉ có 2.672,85 ha, chiếm 26,15% đất trồng cây hàng năm; đất vườn và đất trồng cây lâu năm có 2.330,46% ha, chiếm 18,57% đất sản xuất nông nghiệp.

Trong tổng 2.402,37 ha đất phi nông nghiệp, đất chuyên dùng của Huyện có 1.109,06 ha, chiếm 1,63 % đất tự nhiên và 46,16% đất phi nông nghiệp. Trong diện tích đất chuyên dùng, đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp mới có 31,05 ha và khả năng mở rộng còn lớn, vì diện tích đất nằm ở trung tâm Huyện và đất ven các khu giao thông, đất xây dựng các công trình thủy điện còn nhiều. Đất ở có 271,46 ha, trong đó đất ở đô thị có 14,84 ha, chiếm 5,5% đất ở toàn Huyện. Đất chưa sử dụng còn  rất lớn, với 32.606,01 ha, trong đó hầu hết là đất đồi núi cao với 95,94%, đất  núi đá không có cây chiếm 4,06%.

– Về chất lượng: Trên địa bàn huyện Bắc Hà có các loại đất chính như:

Đất đỏ vàng ở độ cao dưới 900 m nên tập trung chủ yếu ở vùng hạ Huyện, chiếm khoảng 3,2% diện tích, có hàm lượng dinh dưỡng nghèo, độ pH từ 4,6-5,7.

+ Đất phù sa sông Chảy chiếm 1,7% diện tích tự nhiên, tập trung chủ yếu ở các xã ven sông Chảy như Bản Cốc, Cốc Lầu, Bảo Nhai, Nậm Mòn, Cốc Ly, Hoàng Thu Phố. Đất từ chua đến ít chua, hàm lượng chất dinh dưỡng trung bình.

+ Đất xám trên đá biến chất: Đất có số lượng lớn, chiếm 75% diện tích đất tư nhiên, phân bố ở hầu hết các xã trong huyện. Đây là loại đất nghèo dinh dưỡng thích hợp với cây lâm nghiệp và đất đỏ vàng bị biến đổi do trồng lúa ở các sườn và chân sườn dốc, được xây dựng thành các ruộng bậc thang để trồng lúa và hoa màu.

+ Đất mùn phát triển trên đã macrma (đất đen): chiếm khoảng 1,4% tổng diện tích tự nhiên. Phân bố ở các xã Cốc Ly, Na Hối, Tà Chải, Hoàng Thu Phố. Đất có chất lượng tốt, nhưng diện tích còn lại rất ít ở Bắc Hà.

+ Đất dốc tụ chiếm khoảng 18,7%, phân bố ở các xã trong huyện, đất giàu mùn, nhưng rất chua và chứa nhiều độc tố.

Đất của huyện Bắc Hà có cao trình cao, chia thành 3 vùng: vùng thượng huyện độ cao từ 1.500 – 1.800 m so với mặt nước biển; vùng trung huyện có độ cao từ 900 – 1.500 m và vùng hạ huyện có độ cao dưới 900 m.

Với đặc trưng của quỹ đất như trên, Bắc Hà có thuận lợi cho việc phát triển lõm, nông nghiệp, trước hết là trồng cây lâm nghiờp, cây ăn quả, cây dược liệu, lúa, ngô…và mở rộng quỹ đất chuyên dùng để xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển Bắc Hà thành đơn vị hành chính, kinh tế của tỉnh Lào Cai trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và khai thác các yếu tố thuận của hội nhập kinh tế, khi nằm trong hành lang kinh tế phát triển với Trung Quốc và các nước thuộc khối ASEAN.

Tuy nhiên, đặc trưng trên của Bắc Hà cũng đang đặt ra những thách thức về cải tạo đất đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm tăng hiệu quả sử dụng đất, tạo sức tăng trưởng mới cho sản xuất nông nghiệp cũng như các ngành kinh tế của Huyện. Đặc biệt, Bắc Hà cần tính tới việc khai thác quỹ đất chưa sử dụng còn rất lớn vào phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.

  1. Tài nguyên khoáng sản và tài nguyên rừng

Trên địa bàn huyện Bắc Hà không có tài nguyên khoáng sản quý. Loại tài nguyên chủ yếu là cát và đá sỏi ở ven các sông ngòi hiện đã và đang được khai thác làm vật liệu xây dựng; đá trên các núi đá có thể khai thác làm vật liệu xây dựng, trước hết là xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi và xây dựng dân dụng. Tuy nhiên, đá trên các núi đá hiện đang còn ở dạng tiềm năng mới được khai thác ở quy mô nhỏ.

Về tài nguyên rừng, diện tích rừng của Bắc Hà có khoảng 20.602,6 ha, trong đó rừng tự nhiên là 15.192,67 ha, chiếm 73,74%; rừng trồng có 5.409,7 ha, trong đó rừng trồng sản xuất là 3.169,4 ha. Nhìn chung, rừng của Bắc Hà có trữ lượng gỗ thấp, khai thác khó khăn do độ dốc cao. Đa số rừng Bắc Hà thuộc loại rừng IIa, loài cây chính là tre, vầu, nứa; có một số diện tích có các cây bản địa như sa mộc, mỡ. Ngoài ra, có một số diện tích rừng trồng mới theo chương trình 661 với các cây keo lai, mỡ, sa mộc… nhưng năng suất thấp. Hiện nay còn khu rừng già gỗ quý xã Cốc Ly, Bản Liền với diện tích nhỏ có trữ lượng gỗ quý nhóm II (gỗ Nghiến xã Cốc Ly; gỗ Dổi xã Bản Liền).

  1. Về cảnh quan môi trường và di tích lịch sử

Từ những điều kiện thuận lợi của thời tiết, khí hậu, của chế độ thuỷ văn, của chế độ thổ nhưỡng; chế độ mưa thuận gió hoà đã tạo cho Bắc Hà một thảm thực vật phong phú, trong đó có diện tích rừng, đặc biệt diện tích cây ăn quả. Những sản vật vốn là đặc trưng chung của Trung du miền núi phíaa Bắc và sản vật quý, đặc sản của địa phương như mận Tam Hoa, mận Hậu, cam, các cây dược liệu quý như Tam thất, các giống lúa đặc sản như gạo Khẩu Nậm xít… được trồng và đang phát triển khá tốt ở Bắc Hà. Hơn nữa, các công trình thuỷ điện sau khi được xây dựng sẽ tạo nên hệ thống hồ đập khá đa dạng. Tất cả những cảnh quan trên tạo cảnh yên bình, môi trường sinh thái trong lành của miền núi, rất thích hợp cho thu hút khách du lịch sinh thái.

Tuy nhiên, diện tích đất chưa sử dụng còn nhiều, độ che phủ thấp dẫn đến xói mòn, rửa trôi xảy ra. Vì vậy, trồng rừng nâng cao độ che phủ rừng, cải thiện chất lượng rừng hiện có là yêu cầu cấp thiết trong những năm quy hoạch nhằm phát triển bền vững môi trường, tạo cảnh quan thiên nhiên, tạo nguồn nước thủy điện và hạn chế thiên tai… 

Bắc Hà có nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp và di tích lịch sử phong phú như: Có trên 30 hang động, trong đó nhiều hang động đẹp như: Hang động trung tâm thị trấn, hang động Tả Văn Chư, Lùng Phình, hang Tiên bên bờ sông Chảy thuộc xã Bảo Nhai – Cốc Ly, hang động Na Lo – Na Hối… Núi Cô Tiên, núi 3 mẹ con ở thị trấn Bắc Hà, rừng già Bản Liền, gỗ nghiến Cốc Ly, rừng chè cổ thụ xã Hoàng Thu Phố, rừng sa mu Lầu Thí Ngài, nhà cổ Hoàng A Tưởng, đền Trung Đô, đền Bắc Hà, chợ văn hoá Bắc Hà, chợ Cốc Ly, chợ Lùng Phình…

Đặc biệt với 14 dân tộc anh em và dòng họ được giữ nguyên các bản sắc văn hoá, các lễ hội truyền thống như: Hội xuống đồng của dân tộc Tày, lễ hội cúng rừng của người Nùng, hội Say Sán của dân tộc H’Mông, Lễ Cấp sắc của người Dao, trò chơi bắn nỏ, đua ngựa, múa võ, ném còn, hát giao duyên, hát gầu tào, múa khèn….và nhiều phong tục, tập quán, truyền thống sản xuất với nhiều ngành nghề như dệt thổ cẩm, nấu rượu…, đây là ưu thế du lịch mang đậm nét bản sắc văn hoá của huyện Bắc Hà.

Đáng chú ý trong đó là các di tích như dinh thự Hoàng A Tưởng và Đền Bắc Hà. Dinh thự Hoàng A Tưởng xây dựng từ năm 1919 đến năm 1921 thì hoàn thành. Người dân địa phương vẫn quen gọi là nhà “Vua Mèo” bởi thời Pháp thuộc một người dân tộc Tày tên là Hoàng Yến Chao (sau đời con lên thay tên là Hoàng A Tưởng) làm châu úy châu Bắc Hà (Chính quyền thuộc Pháp), cai trị vùng Bắc Hà nhưng chủ yếu có 70% dân tộc Mông sinh sống, do vậy nó được gọi là vua của vùng người Mèo (vua Mèo). Ngày nay, chính quyền đang cho tu sửa khôi phục lại dinh thự này cho dúng thiết kế ngày xưa do người Pháp thiết kế theo kiểu lâu đài cổ thường thấy ở châu Âu. Tuy vậy vẫn có chi tiết không giữ nguyên bản, ví dụ: Cầu thang thoát hiểm của chủ nhân ở tầng 2 đã bị bịt lại. Trần la ti trước đây làm bằng tre ngà phơi khô trát với vôi rơm, nay làm bằng tre mai tươi trát vôi rơm sẽ không tồn tại được trên 80 năm như nguyên liệu kiểu cũ. Nhà Vua Mèo ngày nay vẫn còn giữ được những kỷ vật của Hoàng Yên Chao, đó là: Một bộ trường kỷ (bàn ghế cổ) và một gương Tàu (gương soi treo tường của Trung Quốc). Ngoài ra còn có ba cây hoa mộc, tuổi thọ của nó bằng ngôi nhà này.

Đền Bắc Hà được đồng bào địa phương và khách thập phương góp công sức xây dựng từ thế kỷ thứ 19. Đó là đền thờ Gia quốc công Vũ Văn Mật, người có công đánh giặc dẹp loạn, hùng cứ cả một vùng rộng lớn, huy động được các dân tộc thiểu số địa phương trấn giữ vùng núi phía bắc ngăn giặc xâm lấn biên ải từ thời vua Lê Chiêu Tông (1516) sang thời nhà Mạc (1592)và những năm tiếp theo.

5. Đặc sản

– Rượu Bản Phố: Đến thăm những vườn mận bạt ngàn của người Mông, khách du lịch được mời uống rượu và tận mắt ngắm nhìn những chiếc lò to đặc biệt để cất rượu. Theo nhiều già bản, chất lượng rượu ngô Bản Phố được quyết định bởi nguồn nước và men. Men rượu ở đây được làm từ một loài cỏ mang cái tên mỹ miều là hồng my. Loại cỏ này thường được trồng ven những sườn đồi bậc thang, trên nương lúa, có hình dáng giống như cỏ mần trầu nhưng cao hơn. Từ tháng 9 đến tháng 10 là mùa thu hoạch hồng my. Bông hồng my được cắt về phơi khô, rồi treo trên sàn nhà hoặc gác bếp. Hạt hồng my nhỏ li ti màu đen. Người Mông dùng hạt này đem xay nhỏ như bột rồi trộn với nước rượu đầu và nước sôi, nhào thật nhuyễn, nắm thành quả đặt trên rơm và phơi ở nơi ít nắng, thoáng gió. Đến khi những quả men khô thì gác lên bếp hoặc treo trên sàn để dùng dần. Cùng với men này, những dòng nước mát lành từ núi đá đã góp phần làm nên rượu ngô Bản Phố lừng danh. Rượu ngô Bản Phố giờ đã trở thành hàng hóa với sản lượng lớn, nhưng người Mông không bao giờ dùng men Trung Quốc – thứ men cho nhiều rượu hơn, nhưng lại chẳng còn vị thơm ngon của đặc sản Bản Phố. Người Bản Phố luôn tự hào, tuân thủ qui trình chưng cất rượu của ông cha. Bởi vậy, rượu ngô thì nhiều nơi có, nhưng riêng rượu ngô Bản Phố nổi danh khắp vùng cao nguyên trắng, theo chân những du khách nước ngoài đi tới những vùng đất xa xôi.

Chè Bản Liền, Mận Tam hoa, Thắng cố ngựa, Mèn mén, Lợn cắp nách, gà thả đồi,….

Lịch sử Bắc Hà

. Tên gọi

Cái tên Bắc Hà xuất phát từ cụm từ tiếng Tày “Pạc ha” nghĩa là “trăm bó gianh”. Thời thuộc Pháp, người Phápcác dịch giả ghi lại âm Pạc ha bằng chữ cái latinh thành Pakha. Người Việt đọc trại thành Bắc Hà rồi trở thành tên gọi chính thức của vùng đất này.

2. Lịch sử

– Vùng đất Bắc Hà từ thời vua Hùng Vương thuộc đất Tây Âu của Thục Phán.

– Thời phong kiến Bắc thuộc, thuộc châu Cam Đường, quận Giao Chỉ.

– Thời nhà Lý thuộc châu Đăng.

– Thời nhà Trần thuộc lộ Quy Hoá.

– Từ thời nhà Lê đến thời Pháp chiếm đóng thuộc động Ngọc Uyển, châu Thủy Vĩ, phủ Quy Hoá.

– Ngày 12 tháng 7 năm 1907 thành lập tỉnh Lào Cai, Bắc Hà trở thành một châu của tỉnh Lào Cai, với 4 tổng: Bắc Hà, Lùng Phìn, Si Ma Cai, Bảo Nhai.

– Năm 1967 Bắc Hà tách thành 2 huyện Bắc Hà và Si Ma Cai.

– Năm 1979 Bắc Hà và Si Ma Cai lại sát nhập thành một huyện gọi là Bắc Hà.

– Tháng 8 năm 2000 lại tách ra thành 2 huyện Bắc Hà và Si Ma Cai thuộc tỉnh Lào Cai. 

Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước, nhân dân các dân tộc huyện Bắc Hà là hậu phương vững chắc, cần cù lao động sáng tạo để bảo vệ và xây dựng quê hương, hoàn thành mọi nghĩa vụ hậu phương với đất nước. Trong hai cuộc kháng chiến, huyện Bắc Hà có hàng nghìn người con trực tiếp tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Những người con ưu tú của quê hương Bắc Hà đã chiến đấu kiên cường dũng cảm, lập công xuất sắc trong các cuộc kháng chiến, đã có 83 người con là dân tộc thiểu số đã hi sinh xương máu của mình cho nền độc lập tự do, 708 cá nhân là người dân tộc thiểu số được trao tặng huân chương, huy chương các hạng trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước. Đặc biệt, trong kháng chiến chống thực dân Pháp nhân dân các dân tộc trong huyện được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

Với những đóng góp và thành tích xuất sắc trong xây dựng quê hương, Bắc Hà đã vinh dự được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương lao động hạng Nhất, Nhì, Ba trong thời kỳ đổi mới./.

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây