Giới thiệu khái quát thành phố Lào Cai

Giới thiệu khái quát thành phố Lào Cai

Giới thiệu khái quát thành phố Lào Cai

  • Thành phố Lào Cai – Mảnh đất kiên trung nơi địa đầu phía Bắc Tổ quốc – Vùng đất giàu tiềm năng phát triển kinh tế thương mại, dịch vụ du lịch và tiểu thủ công nghiệp. Thành phố có cửa khẩu quốc gia, quốc tế, có vị trí quan trọng trên tuyến hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng. Thành phố có tổng diện tích tự nhiên 221km2, 17 đơn vị hành chính (12 phường, 5 xã), dân số trên 10 vạn người, thuộc 27 dân tộc. Người dân thành phố có truyền thống đấu tranh anh dũng trong kháng chiến, cần cù trong lao động sản xuất đã và đang đoàn kết một lòng, quyết tâm xây dựng thành phố văn minh, hiện đại, giàu đẹp, xứng đáng là Trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của Tỉnh và là Điểm hẹn hấp dẫn du khách muôn phương.
  • Thành phố Lào Cai với cuộc thi tìm hiểu Lịch sử Đảng bộ địa phương

    Thiết thực kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Đảng bộ thành phố Lào Cai 4/11 (1950 – 2010), Thành uỷ Lào Cai tổ chức cuộc thi hiểu Lịch sử Đảng bộ thành phố đến tất cả cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên; cán bộ chiến sỹ lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân hiện đang sinh sống, học tập, công tác trong và ngoài thành phố Lào Cai.

  • Hướng tới Kỷ niệm 60 Ngày thành lập Đảng bộ TP Lào Cai (4/11/ 1950- 4/11/ 2010) Ban cán sự đảng thị xã Lào Cai ngày đầu thành lập

    Trước cách mạng tháng Tám vùng đất thị xã Lào Cai địa bàn đầu tiên của tỉnh Lào Cai có nhóm yêu nước hoạt động theo xu hướng Việt Minh, và là một địa phương đầu tiên của tỉnh Lào Cai thành lập chính quyền sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Đã xây dựng và phát triển cơ sở cách mạng, đầu tháng 6/1947,nữ đồng chí Nguyễn Thị Xuân An, cán bộ Trung ương tăng cường được Tỉnh uỷ Lào Cai phân công phụ trách Thị xã đã cùng với đồng chí Vũ Thành Quý mở lớp “Cộng sản sơ giải” (tìm hiểu về Đảng) cho gần 20 quần chúng ưu tú của Thị xã. Ngày 16/6/1947 đã tổ chức kết nạp một số đồng chí vào Đảng. Những đảng viên đầu tiên này đã trở thành nòng cốt cho phong trào lãnh đạo nhân dân chống Pháp tái chiếm thị xã.

Cơ sở hạ tầng 

  1. Giao thông đối ngoại

– Đường sắt:

Qua thành phố Lào Cai hiện có tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai, khổ rộng 1 m nối với khu vực tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh và đi lên phía Tây Bắc nối với thành phố Côn Minh (Vân Nam – Trung Quốc). Chiều dài tuyến qua địa phận thành phố dài 10 km, có 2 ga, 1 ga quốc tế (Lào Cai) và 1 ga hàng hoá. Ga Lào Cai có chiều dài 1,5 km, hàng ngày có 10-12 chuyến tàu khách, tàu liên vận quốc tế và trên 10 chuyến tàu hàng qua lại, diện tích bãi ga là 19,7 ha. Tổng lượng hàng hoá và hành khách vận chuyển qua ga Lào Cai là 400.000 lượt hành khách/năm và 1 triệu tấn hàng hoá/ năm, tốc độ tăng hàng năm từ 15-20%.

Ngoài ra còn có tuyến đường sắt chuyên dùng: từ ga Pom Hán đi Tằng Loỏng về Phố Lu và từ ga Pom Hán lên khai trường mỏ apatite có chiều dài tuyến qua địa bàn thành phố khoảng 46 km, chuyên chở quặng apatite về nhà máy tuyển khoáng Tằng Loỏng và vận chuyển về xuôi. Tổng năng lực vận chuyển của ga Pom Hán là 1 triệu tấn/năm.

– Đường bộ với 3 tuyến quốc lộ và 3 tuyến tỉnh lộ:

+ Quốc lộ 70: Từ giáp Yên Bái kết thúc tại đầu cầu Hồ Kiều II. Đoạn qua thành phố từ Bản Quẩn đến cầu Hồ Kiều II dài 9 km.

+ Quốc lộ 4E: Đoạn qua thành phố dài 15 km, trong đó có 8,4 km đường Trần Hưng Đạo nền đường rộng 58,5 m; 1,3 km đường Bình Minh nền đường rộng 29 m; còn lại 5 km đường rộng 7,5 m.

+ Quốc lộ 4D đoạn qua thành phố dài 6,5 km từ Cầu Chui đến Cốc San  (km 134-km140+500 đường đi Sa Pa). Trong đó đoạn km 134-km 137 nền đường rộng 7,5 m; đoạn km 137-km140+500 đường Hoàng Liên nền đường rộng 27 m.

+ Tỉnh lộ Phố Mới-Phong Hải, qua thành phố dài 9 km, trong đó có 1,7 km nền đường rộng 7,5 m (từ Phố Mới đến đường ngang cắt đường sắt), còn lại nền đường rộng 6,5 m.

+ Tỉnh lộ Lào Cai- Bát Xát, qua thành phố dài 5 km, rộng 7,5 m.

+ Đường D2 (Quốc lộ 4E cũ từ Lào Cai đi Tằng Loỏng), dài 13 km, đang được nâng cấp nền đường rộng 12 m.

– Đường thuỷ:

Hai tuyến đường thủy từ Lào Cai ngược sông Hồng lên Mông Tự và ngược sông Nậm Thi vào nội địa Trung Quốc được khai thông từ năm 1887 và khai thác chủ yếu trong mùa mưa, lòng sông ít được cải tạo và tu bổ.

Năm 2003, cùng với việc phê duyệt nâng cấp Quốc lộ 70, Chính phủ đã phê duyệt dự án cải tạo tuyến đường sông. Phía Trung Quốc cũng đã cam kết phối hợp thực hiện dự án này để đưa vào sử dụng với năng lực vận chuyển hàng hoá ước đạt 500 ngàn tấn/năm.

Hệ thống kè sông Hồng đang được đầu tư xây dựng.

1.1. Giao thông nội thị

Giao thông đô thị có 134 tuyến, với chiều dài 250 km; trong đó đường bê tông, áp pan là 56 km;  cấp phối là 7 km. Hiện nay 12 km đã xuống cấp do nền đường lún và thoát nước chưa tốt.

 Mật độ đường nội thị khoảng 2,9 km/km2 đất đô thị, trong đó mật độ đường chính (10 tuyến với 15 km) đạt 1,8 km/km2 và mật độ đất giao thông trên đất đô thị đạt 9,8%.

Hiện nay 70% chiều dài đường nội thị có cây xanh, cống thoát nước và đèn chiếu sáng ; trên 50% diện tích vỉa hè đã được xây dựng hoàn chỉnh (khoảng 219 nghìn m2). Mật độ đường đô thị đạt 12,1 km/km2.

Đường giao thông nông thôn có tổng chiều dài 155 km; trong đó đường trục xã, liên xã dài 55 km, có 2 km đã được rải nhựa; đường liên thôn dài 100 km, có 40 km được rải đá cấp phối. Đặc biệt là các tuyến đường giao thông liên thôn thuộc xã vùng cao đã được đầu tư làm mới phần nền trong năm 2002-2003 là 40km, tiếp tục đầu tư phần thoát nước vĩnh cửu và rải đá cấp phối.

Thực hiện chỉnh trang đô thị trong 2 năm (2004 và 2005): Đối với đường nội thị, đã làm mới trên 20 km, kiên cố hoá là 70 km, tổ chức bảo dưỡng thường xuyên gần 100 km. Làm mới 24.000 m2 vỉa hè từ nguồn ngân sách và 20.000 m2 vỉa hè theo phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm.

1.2 Hệ thống cầu cống

Trên địa bàn thành phố hiện có 4 cầu qua sông là cầu Kiều 1 dành cho đường sắt và Kiều 2 dành cho đường bộ qua sông Nậm Thi do Việt Nam và Trung Quốc cùng đầu tư xây dựng, cầu Cốc Lếu và cầu Phố Mới do Việt Nam xây dựng bắc qua sông Hồng. Cầu Cốc Lếu được xây dựng lại trên mố trụ của cầu Cốc Lếu trước đây, hiện nay đã có biểu hiện quá tải.

Có 9 cầu cứng qua suối là cầu: Bắc Cường, Bắc Lệnh, Ngòi Đường, Kim Tân, Suối Đôi, Làng Nhớn, Duyên Hải, Phân Lân, Làng Chiềng và một số cầu nhỏ như cầu Nước Đựng, cầu Tùng Tung… và hàng chục điểm tràn, ngầm khác.

1.3. Bến bãi:

Đến nay thành phố mới có 1 bến xe ô tô tại phường Phố Mới với năng lực vào ra là 100 lượt/ngày đêm, diện tích 1,5 ha.

Thành phố đã quy hoạch 3 bãi đỗ xe ô tô đảm bảo phục vụ cho hơn 2.000 xe ô tô/ngày đêm và có đủ chỗ đỗ (gửi) cho hơn 6.000 xe máy/ ngày đêm.

  1. Cấp điện

Hệ thống điện lưới trên địa bàn thành phố tương đối hoàn chỉnh, cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trên địa bàn với 1.552 km đường dây tải điện, 347 trạm biến áp các loại.

– Nguồn điện: Từ năm 2003, được sự đồng ý của Chính phủ, ta đã cân đối nguồn điện trong nước và thực hiện phương án mua điện thương phẩm từ Trung Quốc trên cơ sở hiệu quả kinh tế hơn và phù hợp với đường lối quan hệ kinh tế song phương giữa hai nước.

– Lưới điện: hệ thống trạm và đường dây cung cấp điện trên địa bàn thành phố phục vụ sản xuất và sinh hoạt từ nguồn điện lưới quốc gia 110 KV với tổng số 140 trạm biến áp các loại; có 135 km đường dây 35 KV và 35km đường 10 KV; đường 0,4 KV hiện có gần 100 km và đường 6 KV có 20km. Tỷ lệ hao phí điện năng trong quá trình truyền tải hiện nay là 6-7 %.

Tuyến 0,4 KV  phân bố đều khắp các khu nội thị, các xã ngoại thị vùng thấp đã có đường cấp điện tới 90 % số thôn bản, cung cấp cho 17.892 điểm công tơ và hộ dùng điện, đạt 92,9% số hộ trên toàn thành phố, riêng các thôn vùng cao xã Tả Phời chưa có nguồn điện lưới cung cấp.

Mức tiêu thụ điện năng toàn thành phố bình quân là 27 triệu KWh/năm. Lượng tiêu thụ trên đầu người là 776 KWh/ người/ năm.

– Lưới chiếu sáng đô thị: với 40 km lưới chiếu sáng cho các tuyến đường trục đường chính: Hoàng Liên, Nhạc Sơn, Nguyễn Huệ, Phan Bội Châu, 4E khu vực Pom Hán và một số đường nhánh thuộc khu trung tâm các phường Duyên Hải- Kim Tân – Phố Mới – Lào Cai – Cốc Lếu.

Nhìn chung nguồn cung cấp điện cơ bản đáp ứng đủ cho sản xuất và sinh hoạt trên địa bàn. Tuy vậy khu vực đô thị mới Lào Cai – Cam Đường cần đầu tư lại hệ thống tuyến cấp 10 KV, trạm biến áp và đường 0,4 KV theo quy hoạch mới. Mạng đường dây 6 KV và 10 KV cần được nâng cấp thành đường dây 22 KV bằng  hệ thống cáp ngầm.

  1. Cấp thoát nước

3.1. Cung cấp nước

– Khu vực thành thị: Hiện có hai cơ sở cung cấp nước cho khoảng 10.000 hộ dân là:

+ Nhà máy nước Lào Cai cung cấp nước cho vực thị xã Lào Cai cũ sản xuất theo công nghệ của Cộng hoà Pháp, lấy nước từ sông Nậm Thi. Công suất thiết kế là 12.000 m3/ngày đêm, sản lượng 2,5 triệu m3/năm, đạt 60% công suất thiết kế. Tổng chiều dài tuyến ống cung cấp chính loại  F100- F250 là 38 km. Hệ số thất thoát là 23% (mức trung bình cả nước là 30%).

+ Nhà máy nước Cam Đường cung cấp nước cho khu vực thị xã Cam Đường cũ, lấy nước từ nguồn giếng khoan, sản lượng 324,1 ngàn m3, đạt 87,4% công suất thiết kế. Tổng chiều dài tuyến ống cung cấp chính loại  F100- F250 là 8 km, chất lượng ống kém nên hệ số thất thoát cao hơn (thất thoát khoảng 30-35 %).

– Khu vực nông thôn: Người dân sử dụng giếng đào theo hộ, nhóm hộ gia đình, các tuyến nước tự chảy, ao hồ qua xử lý, nước mưa chứa trong bể, lu… Trong 10 năm qua thành phố đã đầu tư 12 công trình nước tự chảy, 80 giếng khoan và 300 lu chứa nước ăn cho dân cư vùng nông thôn.

3.2. Thoát nước

Hiện toàn thành phố có 121 km cống rãnh thoát nước các loại, đường kính từ F400 – F2.000 và 700 hố ga thu nước đảm bảo thoát nước mưa và nước bẩn cho thành phố. Nhu cầu bê tông hoá hệ thống thoát nước trong thời gian tới khoảng 100 km. Mật độ đường cống thoát nước đạt khoảng 4,05 km/km2.

Hiện hệ thống thoát nước mặt và thoát nước sinh hoạt còn được sử dụng chung và đổ ra các sông suối chảy qua thành phố, cần được xem xét có giải pháp tích cực giải quyết vấn đề này.

  1. Vệ sinh môi trường

Công tác thu gom rác thải, phế thải rắn trong sinh hoạt và sản xuất trên địa bàn do công ty môi trường đô thị đảm nhiệm với hình thức doanh nghiệp công ích. Do ngân sách cấp kinh phí hoạt động, nguồn thu phí vệ sinh chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng chí phí môi trường nên mới đảm bảo khoảng 65% lượng chất thải rắn được xử lý.

Lượng rác thải thu gom bình quân 30-33 tấn/ngày đêm bằng phương pháp thủ công, vận chuyển bằng ô tô đến bãi chứa rác cách trung tâm thành phố 6 km (thôn Tòng Mòn – xã Đồng Tuyển) để chôn lấp hoặc đốt. Nước thải sinh hoạt mới được xử lý sơ bộ tại các hộ gia đình được thu gom xử lý và thải qua hệ thống cống vệ sinh của các hộ (khoảng 40%), nước thải công nghiệp hầu như chưa qua xử lý trước khi thải ra môi trường. Tại một số cơ sở y tế bước đầu đã xây dựng các công trình xử lý nước thải.

  1. Thuỷ lợi phục vụ sản xuất

Trên địa bàn thành phố có 13 hồ, đập chứa nước, trong đó đã được đầu tư xây dựng kiên cố là  8 đập. Tổng chiều dài kênh, mương thuỷ lợi trên địa bàn là 58 km, trong đó đã được đầu tư xây dựng kiên cố là 30 km. Số km kênh mương cần đầu tư trong thời gian tới chủ yếu tập trung ở khu vực 2 xã vùng cao. Tổng mức đầu tư  từ ngân sách cho lĩnh vực thuỷ lợi tính hết năm 2004 là 25 tỷ đồng.

  1. Bưu chính – viễn thông và phát thanh truyền hình 

– Bưu chính- viễn thông: trên địa bàn thành phố có 1 công ty bưu chính, trụ sở đóng tại phường Phố Mới với các điểm bưu cục tại các phường. Tổng số thuê bao trên địa bàn thành phố năm 2005 là 28.599 máy, bình quân 32,3 máy/100 dân (tốc độ phát triển hiện nay là 33,1%/năm), đạt mức cao so với các thành phố trong cả nước.

– Thông tin và phát thanh, truyền hình: trên địa bàn có hệ thống các đài phát thanh truyền hình tỉnh và truyền hình thành phố tại phường Cốc Lếu, tiếp sóng liên tục theo chương trình của đài Trung ương và hàng tuần có chương trình thời sự, chuyên mục của đài thành phố. Ngoài ra có 1 đài tiếp sóng của thành phố tại phường Pom Hán; 3 trạm thu phát sóng tại xã Tả Phời và Hợp Thành, 1 đài truyền thanh tại phường Duyên Hải và 17 trạm truyền thanh trên địa bàn 17 xã phường với trên 200 km đường dây. Mạng lưới tổng đài điện thoại cố định và phát thanh, truyền hình hiện đã phủ sóng 100% số xã, phường của thành phố.

– Điểm bưu điện văn hoá xã: có 7 điểm bưu điện văn hoá xã thuộc các xã: Vạn Hoà, Đồng Tuyển, Bắc Cường, Hợp Thành, Tả Phời, Nam Cường, Cam Đường.

  1. Hệ thống cơ sở vật chất phúc lợi khác

Trên địa bàn hiện mới có 1 hiệu sách kiêm thư viện nhân dân, 1 rạp chiếu phim; một nhà văn hoá công nhân và một nhà thi đấu của Công ty apatit ở phường Pom Hán và 1 trung tâm văn hoá ở phường Cốc Lếu, 9 nhà văn hoá xã, phường (ở các phường: Duyên Hải, Phố Mới, Lào Cai, Đồng Tuyển; xã: Vạn Hoà, Hợp Thành, Tả Phời, Bắc Lệnh, Cam Đường). Ngoài ra còn có gần 30 điểm văn hoá khu tổ dân cư được xây dựng từ cấp 4 trở lên.

Thành phố có 2 sân vận động tại phường Kim Tân và Pom Hán, 1 nhà thi đấu đa năng và 1 cung thiếu nhi tại phường Kim tân; 05 cơ sở kinh doanh dụng cụ TDTT, 16 sân bóng chuyền, 01 nhà tập bóng bàn, 125 sân cầu lông, 02 bể bơi, 05 sân quần vợt, 16 sân bóng đá mi ni.

  1. Công viên – vườn hoa – cây xanh đường phố:

Hiện toàn thành phố có trên 170 điểm phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí của nhân dân. Trong đó quan trọng nhất là công viên Nhạc Sơn, vườn Thuỷ Vĩ, khu du lịch Đền Thượng, lâm viên Nhạc Sơn được đầu tư xây dựng với quy mô lớn là những điểm thường xuyên thu hút đông đảo nhân dân và khách du lịch tới vui chơi giải trí, luyện tập thể dục thể thao. Dọc theo 105 tuyến phố khu vực nội thị đã được trồng cây xanh, đảm bảo tỷ lệ 1,035 m2/người.

  1. Hệ thống điểm vệ sinh công cộng đô thị:

Đến nay đã xây dựng 3 điểm vệ sinh công cộng ở 3 khu vực: phường Lào Cai, Phố Mới và Cốc Lếu. Khả năng phục vụ của 3 điểm vệ sinh này còn nhiều hạn chế. Thời gian tới ngoài việc xây dựng thêm các điểm vệ sinh tại các khu vực công cộng khác với thiết kế phù hợp, đẹp và thuận tiện phảixây dựng cơ chế quản lý khai thác sử dụng có hiệu quả.

  1. 10. Thực trạng môi trường

Tình trạng ô nhiễm môi trường ở một số khu vực do ảnh hưởng của sản xuất công nghiệp (khai thác apatite, sản xuất gạch, xi măng…), chế biến nông lâm sản – thực phẩm, chợ, bệnh viện đang ở trong tình trạng báo động. Tại các phường Pom Hán, Bắc Lệnh và Cam Đường có nhiều khu vực bị ô nhiễm từ bụi do khai thác apatite, khói và bụi do nhà máy xi măng Cam Đường; khu vực phường Kim Tân, Phố Mới cũng bị ô nhiễm khói, bụi do sản xuất và vận chuyển gạch của nhà máy gạch Lào Cai gây ra. Nguyên nhân gây ra tình trạng ô nhiễm là do khói bụi của các nhà máy xi măng, gạch tuy nen; trong sản xuất và vận chuyển quặng apatite để vương vãi đất quặng ra ngoài và phát tán vào không khí… Trong nội thị còn những hạn chế liên quan đến quy chế quản lý xây dựng, sắp xếp các chợ, các lò giết mổ gia súc, đảm bảo vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm;

Hiện nay lượng thu gom rác thải của thành phố là 100 m3/ngày. Rác thải thu gom được vận chuyển đến khu xử lý cách thành phố 6 km. Các tuyến đường trong thành phố hàng ngày được phun nước, đảm bảo sạch sẽ về môi trường và cảnh quan. Tuy nhiên thành phố còn cần quy hoạch lại bãi rác, nhanh chóng triển khai nhà máy xử lý rác tập trung ứng dụng công nghệ tiên tiến dự kiến công suất 200-210 tấn/ngày. Đồng thời kết hợp xây dựng nhà máy sản xuất phân vi sinh từ rác, phục vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp.

Năm 2005, tổng diện tích đất nghĩa trang khoảng 38,9 ha. Hiện nghĩa trang Cam Đường cũ nằm ngay khu đô thị mới nên đã đóng cửa và chuẩn bị di dời để giải phóng đất cho khu đô thị.

  1. Dân số

Đến năm 2007 trên địa bàn thành phố có 94,2 ngàn người, trong đó 78,1% sống ở thành thị và 21,9% dân số sống ở nông thôn. Cộng đồng dân cư gồm 26 dân tộc, trong đó dân tộc kinh chiếm 76,4%.

Bảng  2: Dân số và tăng trưởng dân số thành phố Lào Cai

Chỉ tiêu 2000 2005 2007
Người % Người % Người %
I.  Tổng dân số 76.198 100,0 88.450 100,0 94.192 100,0
Thành thị 46.972 61,6 65.000 73,5 73.580 78,1
Nông thôn 29.226 38,4 23.450 26,5 20.612 21,9
II. DS theo tuổi 76.198 100,0 88.450 100,0 94.192 100,0
0-14 23.423 30,7 28.304 32,0 30.141 32,0
15-59 47.624 62,5 53.954 61,0 57.400 60,9
Trên 60 5.151 6,8 6.192 7,0 6.782 7,1

Nguồn: Niên giám Thống kê thành phố Lào Cai năm 2001 – 2005 và 2007.

Tăng trưởng dân số đô thị có tốc độ khá cao (trung bình 6,6%/năm giai đoạn 2001-2007), đặc biệt là sau khi sát nhập thị xã Cam Đường và thị xã Lào Cai và thành lập một số phường mới. Tỷ lệ dân số trong tuổi lao động năm 2007 là 61,7% (trung bình toàn quốc là 62,2%). Dân số thuộc loại trẻ, là lợi thế cho quá trình phát triển nhưng đồng thời là áp lực cho các cấp chính quyền trong vấn đề giải quyết việc làm, ổn định dân cư đô thị.

  1. Nguồn nhân lực

Đến năm 2007 tổng nguồn lao động của thành phố được đánh giá là 58.080 người, bằng 61,7% tổng dân số của thành phố.

Bảng  3. Hiện trạng lao động thành phố Lào Cai

Chỉ tiêu 2005 2007
(Người) (%) (Người) (%)
Tổng số người trong độ tuổi lao động 53.810 100 58.080 100
        – Đang làm việc 43.400 80,7 46.760 80,5
        – Đang đi học 5.570 10,3 6084 10,5
        – Làm nội trợ 2.480 4,6 2512 4,3
        – Trong độ tuổi  LĐ không làm việc 1.010 1,9 1368 2,4
        – Trong độ tuổi LĐ chưa có việc làm 1.350 2,5 1356 2,3

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây