Giới thiệu khái quát huyện Đồng Hỷ
I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN
1. Vị trí địa lí
Đồng Hỷ là huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên, cách trung tâm thành phố Thái Nguyên 5 km về phía đông bắc. Địa phận huyện Đồng Hỷ trải dài từ 21032’ đến 21051’độ vĩ bắc, 105046’ đến 106004’ độ kinh đông. Phía Bắc giáp huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên và huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn, phía Nam giáp huyện Phú Bình và thành phố Thái Nguyên, phía Đông giáp huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang, phía Tây giáp huyện Phú Lương và thành phố Thái Nguyên. Đồng Hỷ có vị trí thuận lợi nằm sát với thành phố Thái Nguyên, trung tâm chính trị, văn hóa của tỉnh Thái Nguyên.
2. Đặc điểm tự nhiên
– Đồng Hỷ có địa hình phức tạp, chia thành hai vùng rõ rệt: Phía Bắc, Đông Bắc (xã Văn Lăng, Tân Long, Văn Hán, Cây Thị…) là vùng núi thấp, độ cao trung bình 500 – 600m; phía nam và tây nam (xã Hóa Thượng, Nam Hòa, Tân Lợi…) là vùng trung du có địa hình thấp, độ cao trung bình dưới 100m.
– Khí hậu được hình thành từ một nền nhiệt cao của đới chí tuyến và sự thay thế của các hoàn lưu lớn theo mùa, kết hợp với địa hình đã tạo nên khí hậu nóng ẩm, mưa mùa, có mùa đông lạnh và thất thường trong năm.
+ Nhiệt độ trung bình hàng năm 220C. Vào mùa hè, tiết trời nóng bức, nhiệt độ trung bình từ 25-270C, mùa đông chịu ảnh hưởng của hơn 20 đợt gió mùa đông bắc, mỗi đợt kéo dài 2-5 ngày, tiết trời giá lạnh, ít mưa, nhiệt độ dao động từ 12-150C, có năm thấp xuống dưới 100C, xuất hiện sương muối. Ba tháng nhiệt độ lạnh nhất trong năm là tháng 12, 1, 2 nhiệt độ trung bình dưới 170C.
+ Lượng mưa trung bình năm từ 1500mm đến 2200mm; chế độ mưa chủ yếu phụ thuộc vào hoàn lưu mùa. Mùa mưa trùng với mùa nóng kéo dài từ tháng IV đến tháng X chiếm 85-90% lượng mưa trong năm. Mùa ít mưa trùng với mùa lạnh, từ tháng XI đến tháng III với lượng mưa từ 200-400mm, bằng 10-15% lượng mưa cả năm.
– Thủy văn: Trên địa bàn huyện có hai con sông lớn. Sông Cầu là dòng chảy chính của sông Thái Bình, bắt nguồn từ phía bắc Tam Tao (Chợ Đồn, Bắc Kạn) ở độ cao trên 1200m, qua vùng Bạch Thông, Phú Lương, Võ Nhai. Đến địa phận huyện Đồng Hỷ, sông chảy qua các xã Văn Lăng, Hòa Bình, Minh Lập, Hóa Thượng, qua thành phố Thái Nguyên, huyện Phú Bình, thị xã Phổ Yên sang Bắc Ninh. Sông Cầu có lưu lượng nước lớn, trung bình khoảng 135m3/năm, chế độ nước phù hợp với chế độ mưa. Mùa mưa đồng thời là mùa lũ kéo dài từ tháng V đến tháng X. Mùa kiệt phù hợp với mùa khô, từ tháng XI đến tháng IV. Sông Linh Nham là sông nhỏ, chảy từ Khe Mo, Hóa Trung, hợp lưu với sông Cầu ở thành phố Thái Nguyên.
II. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ, VĂN HÓA – XÃ HỘI
1. Kinh tế
Trong bối cảnh tình hình kinh tế – xã hội của tỉnh, của huyện có chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, huyện Đồng Hỷ đã triển khai đồng bộ các giải pháp, quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra hằng năm, do vậy tình hình kinh tế, xã hội về cơ bản ổn định; các nguồn lực được tập trung để thực hiện các công trình, dự án trọng điểm; công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng được đẩy mạnh; môi trường sản xuất kinh doanh được củng cố; các nguồn thu được khai thác có hiệu quả…
– Năm 2018 tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất các ngành kinh tế chủ yếu đạt 14,46% (công nghiệp – xây dựng: 22,9%; nông, lâm nghiệp, thủy sản: 3,66%; thương mại – dịch vụ: 4,9%).
+ Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng được quan tâm đầu tư phát triển. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp – xây dựng (theo giá cố định năm 2010) đạt 2.215 tỷ đồng. Trong đó giá trị sản xuất công nghiệp Trung ương đạt 505 tỷ đồng; giá trị sản xuất công nghiệp, TTCN địa phương đạt 720 tỷ đồng; giá trị sản xuất ngành Xây dựng đạt 990 tỷ đồng. Các ngành công nghiệp có tiềm năng, thế mạnh của địa phương như khai thác và chế biến khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng tiếp tục được quan tâm, phát triển; một số dự án mới đã và đang được đầu tư như: Dây chuyền luyện gang 100.000 tấn/năm và nhà máy sản xuất phôi thép công suất 165.000 tấn/năm của Công ty Cổ phần Luyện kim đen Thái Nguyên; các nhà máy sản xuất gạch với công suất 20-35 triệu viên/năm ở xã Khe Mo, Hóa Trung; 02 nhà máy thời trang với quy mô gần 1.000 lao động ở xã Hóa Thượng, Nam Hòa. Năm 2018, toàn huyện có trên 170 doanh nghiệp đang hoạt động; 28 làng nghề truyền thống, góp phần giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn.
+ Sản xuất nông, lâm nghiệp đạt nhiều kết quả do triển khai tốt các dự án, chương trình hỗ trợ sản xuất. Công tác khuyến nông, chuyển giao áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật được đẩy mạnh và phát huy hiệu quả. Năm 2018 giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản (theo giá so sánh năm 2010) đạt 1.231 tỷ đồng; cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp có sự chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỉ trọng ngành chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp; cơ cấu mùa vụ, cây trồng chuyển dịch theo hướng nâng cao năng xuất, chất lượng sản phẩm và giá trị trên một đơn vị diện tích; từng bước hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, tập trung như sản xuất lương thực, trồng rau, cây ăn quả và vùng chè chất lượng cao… toàn huyện hiện có 3.010 ha chè, trong đó trên 1.000 ha được sản xuất theo quy trình VietGap; giá trị thu nhập bình quân đạt trên 250 triệu đồng/năm/01 ha; sản lượng chè búp tươi đạt trên 38.000 tấn/năm; sản lượng lương thực có hạt bình quân đạt trên 46.000 tấn/năm; trồng rừng mới đạt trên 1.200 ha/năm, nâng độ che phủ rừng đạt trên 50%. Chăn nuôi tiếp tục phát triển theo hướng trang trại công nghiệp, toàn huyện hiện có 89 trang trại chăn nuôi, trong đó có 76 trang trại chăn nuôi gia cầm, 13 trang trại chăn nuôi lợn. Nhiều trang trại có quy mô lớn như trang trại chăn nuôi lợn quy mô trên 1.000 con ở thị trấn Sông Cầu, trang trại gà đẻ trứng với quy mô từ 30.000 – 40.000 con tại xã Khe Mo và thị trấn Trại Cau…
Chương trình xây dựng nông thôn mới được tập trung lãnh đạo triển khai thực hiện tốt, phát huy tối đa vai trò chủ thể của người dân trong quá trình tổ chức thực hiện. Năm 2018 thực hiện rà soát, bổ sung kế hoạch 02 xã đạt chuẩn nông thôn mới (xã Văn Hán và Nam Hòa); đồng thời chỉ đạo các xã còn lại tăng từ 02 tiêu chí trở lên. Năm 2018 hoàn thành 03 xã đạt chuẩn nông thôn mới (nâng tổng số xã đạt nông thôn mới lên 08 xã: Hòa Bình, Minh Lập, Hóa Thượng, Khe Mo, Quang Sơn, Hóa Trung, Văn Hán, Nam Hòa); xã Minh Lập nâng cao chất lượng các tiêu chí để xây dựng dựng xóm Cà Phê 1 đạt xóm nông thôn mới kiểu mẫu năm 2018 và xã đạt tiêu chí nông thôn mới kiểu mẫu vào năm 2020.
Các hoạt động kinh doanh thương mại và dịch vụ như: Bưu chính, viễn thông, văn hóa, y tế, giáo dục, vận tải, dịch vụ phục vụ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp… cơ bản đáp ứng nhu cầu nhân dân. Mạng lưới hệ thống chợ, cửa hàng thương mại dịch vụ được quy hoạch và từng bước đầu tư nâng cấp, cải tạo phục vụ nhu cầu cung ứng và tiêu thụ hàng hóa trên địa bàn.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng trên địa bàn bám sát vào mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế – xã hội của huyện, đảm bảo nguồn vốn vay cho các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh và thực hiện chính sách xã hội. Hằng năm, nguồn vốn tín dụng và dư nợ tín dụng của các ngân hàng trên địa bàn tăng bình quân trên 15%.
+ Giá trị sản xuất ngành thương mại, dịch vụ kinh tế chủ yếu (năm 2018) đạt 257 tỷ đồng; tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng đạt 719 tỷ đồng.
Thu ngân sách có mức tăng trưởng khá, năm 2018 đạt 119,7 tỷ đồng, trong đó thu cân đối ngân sách hằng năm (không kể thu cấp quyền sử dụng đất) tăng bình quân 18%.
Năm 2018, trên địa bàn huyện đã thu hút nguồn vốn đầu tư được trên 1.400 tỷ đồng. Trong đó: Tại Hội nghị xúc tiến đầu tư do tỉnh Thái Nguyên tổ chức, có 02 dự án đầu tư vào huyện được cấp giấy chứng nhận đầu gồm: Dự án xây dựng Khu du lịch sinh thái văn hóa Đá Thiên tại thị trấn Trại Cau do Công ty TNHH Xây dựng Mỹ thuật Thiên Phúc thực hiện với số vốn đầu tư khoảng trên 700 tỷ đồng; dự án xây dựng Khu tổ hợp dịch vụ và công viên văn hóa thể thao Hồng Thái tại xã Hóa Thượng do Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển đô thị công nghiệp BCD thực hiện, với số vốn đầu tư dự kiến là trên 320 tỷ đồng; ngoài ra dự án mở rộng sản xuất của Công ty Cổ phần Luyện kim đen Thái Nguyên (đầu tư dây chuyền sản xuất phôi thép) với số vốn đầu tư 370 tỷ đồng; dự án Trung tâm dịch vụ sản xuất và giới thiệu sản phẩm thời trang may Phú Hưng, với số vốn đầu tư gần 10 tỷ đồng và thu hút đầu tư các dự án khác như: Dự án mở rộng nhà máy may TNG Đồng Hỷ tại xã Nam Hòa; dự án Xây dựng trang trại lợn tập trung Trọng Khôi tại xã Minh Lập (quy mô 300 ha) và khảo sát thực hiện các dự án thủy điện tại xã Minh Lập; dự án phát triển du lịch hang núi đá vôi tại xã Quang Sơn…
2. Văn hóa – xã hội
– Công tác giáo dục – y tế được quan tâm thực hiện tốt; tính từ năm 2015 đến năm 2018 đã xây dựng thêm 12 trường đạt chuẩn Quốc gia, nâng tổng số trường đạt chuẩn Quốc gia toàn huyện 47/53 trường học, bằng 88,6% số trường đạt chuẩn (trong đó 06 trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ 2), 100% cán bộ, giáo viên có trình độ đạt chuẩn, trong đó trên chuẩn đạt 81%. Giữ vững và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3 và phổ cập giáo dục THCS và xóa mù chữ mức độ 2 tại 15/15 xã thị trấn; chất lượng giáo dục được nâng lên, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS hằng năm đạt trên 99%; học sinh hoàn thành chương trình tiểu học đạt 100%. Hiện nay, 100% Trạm y tế các xã, thị trấn đều có bác sỹ và đạt chuẩn quốc gia theo bộ tiêu chí mới. Các chương trình mục tiêu y tế – dân số và phòng chống dịch bệnh được triển khai thực hiện đồng bộ, không có dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn; công tác khám chữa bệnh được thực hiện theo đúng quy chế chuyên môn tại các cơ sở khám, chữa bệnh đảm bảo theo Luật khám chữa bệnh; chất lượng khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế và tinh thần, thái độ phục vụ người bệnh được củng cố và nâng lên; công tác tuyên truyền về Luật Bảo hiểm y tế được đẩy mạnh; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đến nay đạt 98,5%.
– Các hoạt động văn hóa thông tin tuyên truyền có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức, đáp ứng nhu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị của huyện và nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân; phong trào thể dục, thể thao quần chúng phát triển sâu rộng; thiết chế văn hóa tiếp tục được củng cố, hoàn thiện; đến nay 201/205 xóm, bản, tổ dân phố có nhà văn hóa, trong đó có 113 nhà văn hóa đạt tiêu chí nông thôn mới; giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể như: Di tích lịch sử và lễ hội của đồng bào dân tộc thiểu số (đồng bào dân tộc H’Mông, Sán dìu)… được quan tâm giữ gìn và phát huy; công tác quản lý nhà nước nhà nước về lĩnh vực văn hóa, thông tin được tăng cường đảm bảo đúng định hướng.
– Các chính sách xã hội được triển khai thực hiện tốt, nhất là chính sách đối với người có công, giảm nghèo, an sinh xã hội, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động; bình quân hằng năm số lao động được tạo việc làm mới đạt trên 2.200 lao động; tỷ lệ hộ nghèo bình quân hằng năm giảm trên 3%; công tác phòng chống tệ nạn xã hội trên địa bàn huyện đạt kết quả tích cực, giảm trên 3% số người nghiện ma tuý mỗi năm./.
LỊCH SỬ – TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA
Nhân dân các dân tộc huyện Đồng Hỷ có truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm; dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau, đồng bào các dân tộc trong vùng đã từng nhiều lần tham gia các cuộc kháng chiến chống quân phong kiến xâm lược phương Bắc.
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, huyện Đồng Hỷ là địa bàn có nhiều tổ chức cơ sở cách mạng. Trong những năm 1940-1945, cơ sở cách mạng ở các xã Khe Mo, Văn Hán, đặc biệt trạm liên lạc ở xã Cây Thị đã bảo vệ an toàn các đồng chí Tổng Bí thư Đảng Trường Chinh, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng Hoàng Quốc Việt… Mặc dù Quân Pháp nhiều lần tấn công, càn quét vào các xã Cây Thị, Hợp Tiến, Khe Mo, Văn Hán, nhằm cắt đứt đường giao thông liên lạc giữa Trung ương và căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai, các cơ sở cách mạng trên địa bàn huyện vẫn không ngừng được mở rộng. Năm 1944, nhân dân xã Cây Thị đã bảo vệ an toàn lớp huấn luyện cán bộ quân sự do Xứ ủy Bắc Kì mở tại địa phương; ủng hộ lớp học nhiều lương thực, thực phẩm góp phần quan trọng vào sự thành công của lớp học. Các tổ chức cơ sở cách mạng và nhân dân vùng Tây Nam huyện Đồng Hỷ đã góp phần cùng Chi bộ Đảng Căng Bá Vân tổ chức thành công, đảm bảo an toàn cho 8 đồng chí đảng viên trong “Căng”, vượt ngục, trở về hoạt động cách mạng.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chấp hành chỉ thị của Trung ương Đảng và Tỉnh ủy Thái Nguyên, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân Đồng Hỷ đã tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy mạnh sản xuất chuẩn bị kháng chiến: hàng ngàn thanh niên huyện Đồng Hỷ đã xung phong lên đường nhập ngũ; đi dân công hỏa tuyến phục vụ các chiến dịch, nhân dân Đồng Hỷ đã đóng góp cho kháng chiến hàng trăm tấn lương thực, hàng chục tấn thực phẩm. Toàn huyện có 13 gia đình được tặng Bằng có công với nước, 24 cán bộ được công nhận là Lão thành cách mạng, 20 người được công nhận là Cán bộ Tiền khởi nghĩa; hai xã Khe Mo và Cây Thị cùng với các xã: Tân Cương, Thịnh Đức, Thịnh Đán (nay thuộc thành phố Thái Nguyên), Bình Sơn (nay thuộc thành phố Sông Công) được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Pháp.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ngày 04/01/2002, nhân dân và lực lượng vũ trang huyện Đồng Hỷ đã được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Quyết định số 09/2003/QĐ-CTN, tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”.
Phát huy truyền thống vẻ vang trong lịch sử, nhất là trong cuộc đấu trang chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân huyện Đồng Hỷ không ngừng vươn lên, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tuy điều kiện đời sống vật chất còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhưng vì sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, quân và dân huyện Đồng Hỷ đã khắc phục mọi khó khăn “Thắt lưng, buộc bụng”, thực hiện tốt khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, hàng năm đều hoàn thành nghĩa vụ đóng góp lương thực, thực phẩm cho Nhà nước. Trong số 5.173 con em nhân dân các dân tộc trong huyện lên đường đánh Mỹ, có hơn 1.000 người vĩnh viễn nằm lại trên các chiến trường, được công nhận là liệt sỹ; gần 1.000 người để lại một phần xương máu ngoài mặt trận, được công nhận là thương binh. Ghi nhận đóng góp của quân và dân huyện Đồng Hỷ trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, Đảng và Nhà nước đã tặng thưởng cho tập thể quân và dân huyện Đồng Hỷ: 02 Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, 01 huân Chương Kháng chiến hạng Nhì, 03 Huân chương Kháng chiến hạng Ba. Ngoài ra, quân và dân huyện Đồng Hỷ còn 19 lần được Bộ Quốc phòng tặng cờ “Đơn vị Quyết Thắng”. Đảng và Nhà nước còn tặng thưởng cho cá nhân cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trong huyện hơn 3.000 Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba và hơn 1.000 Huy chương chương Kháng chiến.
Sau khi hòa bình lập lại, trong niềm vui chung của dân tộc, cùng với nhân dân cả nước, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Đồng Hỷ đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị được giao: Tham gia xây dựng phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương, trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, tích cực làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn, cùng quân và dân cả nước thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
KHÁI QUÁT VỀ DI TÍCH, DANH THẮNG HUYỆN ĐỒNG HỶ
Đồng Hỷ là huyện trung du, miền núi, nằm trên dải đất ven Sông Cầu, cách trung tâm thành phố Thái Nguyên 5km về phía Đông Bắc. Huyện Đồng Hỷ được biết đến với nhiều di sản văn hóa đã được công nhận xếp hạng (08 di sản văn hóa vật thể được công nhận xếp hạng cấp tỉnh, 04 di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia); 36 điểm di tích trong danh mục kiểm kê (thắng cảnh Hang Chùa – Suối Tiên, xã Văn Lăng, Căn cứ ATK – QK1, Hang Leo, xã Hóa Thượng…..), cùng với nhiều lễ hội truyền thống.
I. DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ ĐƯỢC CÔNG NHẬN XẾP HẠNG
1. Di tích lịch sử – văn hóa Đền Long Giàn, xã Khe Mo:
Đền Long Giàn thuộc xóm Long Giàn, xã Khe Mo được nhân dân xây dựng để nghi nhớ công ơn, tài đức của 2 vị nữ anh hùng dân tộc là Trưng Trắc và Trưng Nhị đã có công lớn trong việc giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước khỏi ách cai trị của phong kiến phương Bắc và sau này là nơi ghi dấu hoạt động liên lạc của cán bộ cách mạng thời kỳ tiền khởi nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dừng chân thăm đền trên chặng đường kháng chiến chống Thực dân Pháp.
Đền Long Giàn quay mặt theo hướng Tây Nam, nằm bên bờ sông Long Giàn, xung quanh là xóm làng bao bọc và cây cối tốt tươi, với diện tích hơn 1000m2. Đền được xây dựng từ rất lâu, không rõ vào thế kỷ thứ mấy nhưng kiến trúc hiện nay được xây dựng ở thế kỷ 20. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đền Long Giàn bị hủy hoại nặng, mất đi nhiều hiện vật, tài liệu, tuy nhiên hiện nay tại di tích vẫn còn lưu giữ được một số di vật, hiện vật quý như: 03 bát hương cổ, 07 pho tượng cổ, 02 hòm sắc, 01 bộ phận của khám thờ Hai Bà Trưng, một bên kiệu.
Đền Long Giàn là một công trình văn hóa có giá trị, giáo dục tư tưởng, tinh thần yêu nước, đoàn kết giữa các dân tộc, truyền thống “uống nước nhớ nguồn” và chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta cũng như hun đúc ý thức bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa của nhân dân xã Khe Mo cũng như nhân dân các dân tộc huyện Đồng Hỷ. Ngày 14/01/2008, UBND tỉnh Thái Nguyên đã ban hành Quyết định số 69/QĐ-UBND công nhận Đền Long Giàn là di tích lịch sử – văn hóa cấp tỉnh.
2. Di tích Lịch sử – Văn hóa Đền Hích, xã Hòa Bình:
Đền Hích thuộc xóm phố Hích, xã Hòa Bình được xây dựng vào thời nhà Nguyễn (khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX), thờ nữ thần sông nước có tên Bạch Ngọc Thủy Tinh Công Chúa. Hiện nay đền là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân trong vùng.
Đền Hích nằm bên bờ Sông Cầu có phong cảnh hữu tình, trên bến dưới thuyền; dù trải qua mưa nắng giãi dầu, đền vẫn giữ được nét cổ kính thâm nghiêm và nhiều cổ vật có giá trị như: Bộ kiệu bằng gỗ sơn son, thiếp vàng, thân kiệu trạm rồng mây hội tụ; 06 pho tượng (trong đó có 03 pho được truyền tụng lại là làm bằng đồng đen); một đôi hạc đồng cổ, ba sắc phong của triều Nguyễn; 01 đỉnh hương và 02 quả chuông đồng cổ; 02 bức hoành phi sơn son, thiếp vàng, 02 câu đối và 01 bức đại tự, đặc biệt còn 04 tấm kê chân cột bằng đá hoa cương. Lễ hội của đền hàng năm tổ chức từ ngày 14 đến ngày 15 tháng giêng (âm lịch); có rước kiệu và có các trò chơi như đấu vật, chọi gà, cờ tướng, đánh bóng,… đã thu hút nhiều du khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan, vãn cảnh.
Với những giá trị của di tích, Ngày 28/02/2007, UBND tỉnh Thái Nguyên đã ban hành quyết định số 369/QĐ-UBND xếp hạng Đền Hích, xã Hòa Bình là di tích Lịch sử – Văn hóa cấp tỉnh.
3. Di tích lịch sử – văn hóa Đình Bảo Nang, xã Tân Lợi:
Đình Bảo Nang nằm trên một quả đồi có tên gọi là Đồng San (còn gọi là rừng San) khá bằng phẳng ở trung tâm xóm Bảo Nang, cách UBND xã Tân Lợi khoảng 1km.
Đình Bảo Nang được xây dựng vào cuối triều Lê, đầu triều Nguyễn – là di tích lịch sử – văn hóa, gắn với tục thờ thành hoàng làng của người Việt, là trung tâm sinh hoạt văn hóa tinh thần của dân làng Bảo Nang, xã Tân Lợi nói riêng, huyện Đồng Hỷ nói chung.
Đình Bảo Nang thờ vị tướng Dương Tự Minh, một anh hùng dân tộc dưới thời nhà Lý đã có công đánh đuổi giặc Tống, bảo vệ vùng biên cương phía Bắc của Đại Việt. Đồng thời Đình còn là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử cách mạng tiêu biểu của xã, huyện trong cuộc kháng chiến chống Pháp từ trước và sau cách mạng tháng 8 năm 1945. Tại di tích Đình Bảo Nang hiện còn lưu giữ được một số di vật, hiện vật có giá trị như: 01 sắc phong triều Nguyễn, 02 chiêng đồng, 01 bát hương cổ, 01 chuông bằng gang, 01 quả cầu sơn son bằng gỗ, một kiệu bát cống gỗ.
Hội được tổ chức vào mùng 4, 5 tháng giêng (âm lịch), sáng ngày mùng 4 tết rước kiệu từ trong đình ra ngoài đền để rước bát hương của hai vị phu nhân Dương Tự Minh vào đình thưởng thức lễ hội, đến sáng ngày mùng 10 tháng giêng lại rước bát hương hai bà trả về đền. Sau phần lễ là phần hội với các trò chơi dân gian truyền thống như gieo cầu, chọi gà, cờ tướng…
Ngày 04/01/2007, UBND tỉnh Thái Nguyên đã ban hành quyết định số 09/QĐ-UBND xếp hạng Đình Bảo Nang là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
4 . Đình lịch sử Vân Hán, xã Văn Hán:
Đình Vân Hán thuộc xóm Vân Hán, xã Văn Hán; đình có từ xa xưa, nằm trên một gò đồi với diện tích trên 1 ha, thuộc loại hình Kiến trúc nghệ thuật, di tích lịch sử kháng chiến. Đình thờ Đức thánh cả Cao Sơn Quý Minh Đại Vương – một danh tướng chống giặc Tống thời Lý và con gái của ông. Năm 1951 tại Đình Vân Hán có mở Hội nghị trù bị ban chính sách thuế nông nghiệp do đồng chí Trường Chinh chủ trì.
Đình trước kia được xây dựng theo kiểu nhà sàn, gồm một gian, 2 trái, quay hướng Tây Nam; mái Đình lợp bằng ngói vẩy, trong Đình có nhiều cột to đường kính từ 50 60 cm; trải qua thời gian và các biến cố lịch sử, Đình đã được xây dựng lại 5 lần, lần làm lại cuối cùng năm 2015, gồm 03 gian lợp ngói đỏ. Hiện trong Đình còn giữ được nhiều hiện vật cổ như: 01 Bộ kiệu rước, trạm trổ nổi hình rồng; 01 Nhan án trạm trổ nổi hình con hạc, con rồng; 01 bát hương cổ bằng xứ, trạm trổ hình rồng phượng; 01 Bức tượng ông Cao Sơn Quy Minh, hai góc bên dưới bức tượng khắc 2 mặt của Ngọc Rong và Đoan Trinh là 2 cô con gái của ông; 03 sắc phong do vua: Tự Đức, Duy Tân và Khải Định ban.
Ngày 28/2/2012, UBND tỉnh Thái Nguyên đã ban hành Quyết định số 596/QĐ-UBND xếp hạng Đình Văn Hán là di tích cấp tỉnh.
5. Di tích lịch sử Đình Thịnh Đức, xã Văn Hán:
Đình Thịnh Đức thuộc xóm Thịnh Đức, xã Văn Hán, là nơi sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của nhân dân. Đình được xây dựng từ lâu, vào năm nào không ai nhớ rõ. Trước đây đình gồm năm gian, cột đình bằng gỗ táu, mái lợp gianh, có hạ sàn hai bên làm chỗ ngồi cho các quan viên và khách đến thăm đình.
Trước năm 1945, Đình Thịnh Đức còn có tên gọi là Đình Làng Đẫu, được xây dựng trên gò Na Làng thuộc đất đình của Thịnh Đức, khu đất đình bằng phẳng, không khí thoáng mát; Đình quay hướng Tây Nam xuống cánh đồng của xóm; trước cửa đình còn hai cây đa to, bóng mát toả kín sân đình.
Về phong tục, lễ hội hàng năm của Đình, dân làng thờ cúng 5 kỳ trong năm vào các ngày 7 tháng giêng , 23/3, 10/3, 15/8 và 23/1 (âm lịch); vào ngày lễ hội, làng tổ chức nhiều trò chơi như múa lân , tung còn, hát ví, đánh vật. Ngày nay dân bản vẫn duy trì hương khói vào các ngày trên, nhưng các ngày hội không còn được duy trì nữa.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta (giai đoạn 1946- 1954) tại Đình Thịnh Đức nơi đã diễn ra nhiều cuộc họp bí mật của liên Khu Việt Bắc. Đáng chú ý nhất là năm 1953 thực hiện phong trào cải cách ruộng đất, giảm tô của Đảng và nhà nước. Đình Thịnh Đức được chọn làm nơi họp bàn phong trào cải cách ruộng đất, giảm tô của Đảng và nhà nước. Trong cuộc họp có đồng chí Nông Quốc Chấn đại diện cho liên khu uỷ Việt Bắc về dự.
Đình còn giữ được nhiều hiện vật quý như: 01nhan án công đồng, 01 ngai sơn son thếp vàng, 01 bát hương cổ, 04 cờ đuôi nheo, 01 chiêng bằng đồng, 01 cồng bằng đồng, 02 bộ cánh cửa, 02 thang gỗ, 02 con Nghê bằng gỗ, 04 chân nến bằng gỗ, 02 ống hương bằng gỗ, 03 sắc phong vua ban (cùng chung với đình Vân Hán), 01 cột đình bằng gỗ táu.
Ngày 21/7/2014, UBND tỉnh Thái Nguyên ra quyết định số 1574/QĐ-UBND xếp hạng Đình Thịnh Đức là di tích lịch sử cấp tỉnh.
6. Di tích lịch sử Đình Hoá Thượng, xã Hoá Thượng:
Đình Hoá Thượng xưa thuộc tổng Hoá Thượng, huyện Đồng Hỷ (nay là xóm Gò Cao, xã Hoá Thượng, huyện Đồng Hỷ) là một công trình kiến trúc cổ kính, được người xưa xây dựng từ sau khi có làng, khoảng cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX (theo văn bia Đình Hoá Thượng). Đình được xây dựng theo kiểu chữ đinh trên một địa thế bằng phẳng ở trung tâm xóm Gò Cao, chính diện Đình trông về hướng Nam, bởi theo quan niệm truyền thống của người Việt, hướng đó trong sáng và thoáng mát, đem đến cho cuộc sống con người những điều tốt đẹp, hạnh phúc; đây là cách chọn phong thuỷ tiêu biểu thường gặp trong kiến trúc đình, chùa Việt Nam.
Đình Hoá Thượng thờ thành hoàng làng là tướng Dương Tự Minh – Ông là người dân tộc Tày, làng Quan Triều (Thái Nguyên), một danh tướng thời Lý, có công đánh giặc Tống. Sau khi ông mất, nhân dân khắp nơi từ Thượng – Đu – Đuổm đến Hạ – Lục – Đầu đều lập Đình thờ cúng để tưởng nhớ công đức của ông.
Tại Đình Hóa Thượng còn lưu giữ được 02 bia đá cổ, trong đó 01 bia cao 90cm, rộng 5,5cm, trán bia có khắc hoa văn, học tiết tinh xảo với 500 từ rõ nét, dễ đọc; 01 bia còn lại đã bị đập vỡ, hiện mới chỉ tìm thấy một phần nhỏ, cả hai đều là bia hậu thần; qua nghiên cứu văn bia cho thấy, ngoài thờ thần thành hoàng làng Dương Tự Minh ra, Đình Hóa Thượng còn thờ các hậu thần đã được ghi chép trong văn bia cổ tại di tích là hai vợ chồng Chánh tổng Hà Trọng Chất và vợ là Nguyễn Thị Bản có lòng từ thiện, công đức tiền, vật chất tu sửa Đình.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đình Hoá Thượng đã trở thành địa điểm sơ tán của nhân dân và trở thành nơi trú quân, nghỉ ngơi của nhiều đơn vị lực lượng vũ trang trong lúc công tác làm nhiệm vụ đi qua địa phương và trở thành dấu tích lịch sử, góp phần vào truyền thống cách mạng tốt đẹp của con người và mảnh đất quê hương nơi đây. Hiện Đình còn giữ được nhiều hiện vật quý như: Ngai và bài vị thờ thần Thành hoàng làng Dương Tự Minh; Bát hương gốm cổ; Nhang án; Bộ chân nến; Đôi hạc; 02 Bia đá cổ.
Ngày 20/01/2014, UBND tỉnh Thái Nguyên ra quyết định số 149/QĐ-UBND xếp hạng Đình Hoá Thượng là di tích lịch sử cấp tỉnh.
7. Di tích lịch sử Đình Minh Lý – xã Minh Lập:
Đình Minh Lý thuộc xóm Minh Lý, xã Minh Lập là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân trong xã. Đình thờ vị anh hùng dân tộc Dương Tự Minh, người dân tộc Tày, quê làng Quan Triều, phủ Phú Lương, nay thuộc thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái nguyên. Là một thủ lĩnh có uy tín được vua Lý giao phó cai quản phủ Phú Lương – một vùng đất rộng lớn tương đương với vùng đất thuộc tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng, Tuyên Quang, một phần Hà Giang, Vĩnh Phúc và Lạng Sơn ngày nay. Là người có đóng góp to lớn trong việc duy trì, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc đánh đuổi giặc ngoại xâm, được nhân dân kính trọng và tôn thờ. Ngôi đình đã có từ rất lâu, song do biến thiên của lịch sử, thiên tai, chiến tranh tàn phá khiến Đình Minh Lý bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 2007, nhân dân 4 xóm Ao Sơn, Đoàn Kết, Làng Chu và Theo Cày đã cùng nhau công đức xây dựng lại ngôi đình trên nền cũ.
Lễ hội truyền thống Đình Minh Lý hàng năm được tổ chức vào ngày 09/01, ngoài ra còn có các ngày lễ khác như lễ hạ điền và thượng điền. Lễ vật dâng lên thành hoàng làng chủ yếu là các nông sản tại địa phương với mục đích cầu cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, nhân dân các dân tộc trên địa bàn được ấm no hạnh phúc.
Đình Minh Lý được Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh tại Quyết định số 2390/QĐ-UBND ngày 10/8/2017.
8. Di tích lịch sử Đình Khe Mo – xã Khe Mo:
Đình Khe Mo thuộc xóm Khe Mo 2, xã Khe Mo là công trình tín ngưỡng văn hóa, nơi thờ hai vị Thánh Cao Sơn – Quý Minh (hai thuộc tướng thời vua Hùng Duệ Vương), về sau thể theo nguyện vọng của cộng đồng dân cư xã Khe Mo, đình Khe Mo thờ thêm vị thần thứ 3 đó là Dương Tự Minh đã được các vua triều đại phong kiến ban sắc. Đình Khe Mo đã hai lần bị giặc Pháp đốt, lần thứ nhất vào năm 1944, lần thứ 2 vào năm 1947. Ba bức sắc phong của Đình được gia đình ông Trương Văn Đạo kịp thời cất giấu nên còn giữ được đến ngày nay.
Đến năm 2010, ngôi đình được phục dựng lại tại xóm Khe Mo 2 làm nơi sinh hoạt văn hóa – tín ngưỡng của cộng đồng nhân dân trong xã. Đình được xây dựng theo kiểu chữ nhất, gồm 3 gian, hệ thống các cột được làm bê tông giả gỗ, hệ thống vì kèo đơn giản, bào trơn.
Đình Khe Mo có 5 kỳ khóa lễ gồm: Lễ đón xuân ngày 12 tháng giêng; lễ hạ điền ngày 12 tháng 4; lễ Thượng điền ngày 12 tháng 7; lễ cơm mới ngày thìn tháng 8; ngày giỗ hóa 12 tháng 11 (âm lịch).
Tại Đình còn có tục lệ mở sắc phong: Nghi thức được thực hiện khi có người muốn xem bản thần tích, thần sắc. Muốn xem được sắc phong thì chủ nhang lấy hộp đựng sắc phong đặt lên ban thờ, sau đó tiến hành sắp lễ gồm hương, hoa, trà, quả. Chủ nhân khấn bàn khấn nôm, rồi gieo quẻ tiền xu: Nếu một mặt sấp, một mặt ngửa là mở được sắc phong, còn không ra như thế sẽ phải xin lại hoặc không được mở hộp sắc.
Với những giá trị lịch sử của ngôi Đình, ngày 29 tháng 12 năm 2017, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã ban hành Quyết định số 4161/QĐ-UBND về việc công nhận Đình Khe Mo – xã Khe Mo là di tích lịch sử cấp tỉnh.
II. DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ CẤP QUỐC GIA:
Đến nay, huyện Đồng Hỷ có 04 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia, gồm: “Nghi lễ Hét khoăn” – Lễ mừng sinh nhật của người Nùng và Hát Soọng cô của dân tộc Sán Dìu (công nhận tại Quyết định số 3465/QĐ-BVHTTDL, ngày 13/10/2015 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), “Nghi lễ cấp sắc của người Nùng” và “Nghệ thuật khèn của người Mông” (công nhận tại Quyết định số 1852/QĐ-BVHTTDL, ngày 08/5/2017 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch).
1. Nghi lễ Hét Khoăn của người Nùng:
“Nghi lễ Hét khoăn” của người Nùng thuộc loại hình tập quán xã hội, được người Nùng ở Đồng Hỷ bảo tồn và duy trì từ nhiều đời nay, hiện còn được thực hành tại các xã: Hoà Bình, Nam Hoà, Văn Lăng, Văn Hán, Tân Long.
Người Nùng ở Đồng Hỷ có phong tục không cúng giỗ người đã khuất, thay vào đó, người Nùng làm lễ mừng sinh nhật khi còn sống nhằm mục đích cầu sức khoẻ, sự may mắn, bình an cho ông bà, cha mẹ.
Nghi lễ Hét Khoăn thường diễn ra từ chiều hôm trước, qua đêm, đến hết ngày hôm sau, tại gian thờ tổ tiên người được mừng sinh nhật. Để thực hiện nghi lễ, chủ nhà phải mời thầy cúng về cầu an, cầu bản mệnh, sức khoẻ cho người được mừng sinh nhật, sau đó cho cả gia đình. Lễ vật cúng gồm có: lợn quay, gà luộc, bánh dày đặt trong các mâm: đón mừng hồn, vía; cầu mong sức khỏe; cúng trên ban thờ tổ tiên, mâm tiền và gạo dùng cho người âm.
Khi thực hiện nghi lễ, thầy cúng không sử dụng sách mà phải học thuộc lòng các bài cúng và thực hiện các nghi thức chính, bao gồm: Nghi thức cúng xin phép tổ tiên: mời tổ tiên chủ nhà về chứng kiến buổi lễ và phù hộ cho con cháu mạnh khỏe, bình an; Nghi thức cầu sức khỏe, cầu bình an: cầu mong cho hồn yên tâm, vui vẻ mà gắn bó lâu dài với thể xác; Nghi thức đổ thêm nước sinh mệnh: với ý nghĩa bổ sung sinh khí, tinh thần cho ông bà sống thọ, có nhiều phúc lộc; Nghi thức trồng cây mệnh: tượng trưng cho số mệnh của ông bà, mong ông bà mạnh khỏe, tươi tốt như cây rừng; Nghi thức bổ sung lương thực vào bịch gạo mệnh: để gia hạn với Nam Tào, kéo dài tuổi thọ người được mừng sinh nhật. Sau đó, thầy cúng thực hiện nghi thức cúng cầu mong sức khỏe, bình an cho chủ nhà, đồng thời báo cáo với tổ tiên đã tìm thấy hồn vía bị lạc về đúng với chủ, đã đổ đầy giếng nước, trồng được cây tươi tốt, khỏe mạnh, đã đổ đầy bịch gạo mệnh và làm lễ cấp tiền mã cho thiên binh, thiên tướng, cảm ơn họ vì đã giúp thầy cùng gia đình hoàn thành các nghi lễ mừng sinh nhật. Kết thúc nghi lễ, thầy cúng chúc mừng mọi vía đã quy tụ đầy đủ và nhờ ông bà, tổ tiên để mắt trông nom cũng như dặn dò vía không được mải mê đi chơi quên đường về. Đến ngày hôm sau, con cháu, họ hàng, người thân làm cỗ mời làng xóm đến ăn mừng sinh nhật ông bà.
Những đồ dùng khi hành lễ như: chiếc đèn, thúng gạo, cầu… sẽ được thầy cúng đưa lên bàn thờ tổ tiên và dặn dò tổ tiên trông nom, cai quản. Sau 7 hoặc 9 ngày, con cháu sẽ lấy gạo và trứng, nấu cháo cho ông bà ăn để có thêm sức khỏe, sống lâu với con cháu và nấu cơm cho con cháu ăn với mong muốn được khỏe mạnh để chăm sóc ông bà, cha mẹ.
Nghi lễ Hét Khoăn là tập quán lâu đời của người Nùng, không chỉ mang lại niềm vui cho người cao tuổi, mà còn là bài học đạo đức cho thế hệ trẻ về lòng hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ. Đối với người Nùng, đây chính là món quà quý giá nhất của con cháu dành cho ông bà, cha mẹ mình, thể hiện sự kính trọng, hiếu nghĩa của họ với các bậc sinh thành. Cùng với thời gian, nhiều nghi thức trong nghi lễ Hét Khoăn được giản lược cho phù hợp với đời sống hiện đại, song nghi lễ này vẫn được các thế hệ trong gia đình của người Nùng tổ chức thường xuyên và trao truyền cho nhau, thể hiện sự tôn trọng, tấm lòng hiếu thảo cũng như sự kính trọng của con cháu đối với ông bà, cha mẹ. Trong thời đại ngày nay, Nghi lễ mừng sinh nhật của người Nùng được bảo tồn và phát huy có tác dụng thiết thực trong việc giáo dục truyền thống, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” đối với thế hệ trẻ dân tộc Nùng nói riêng và nhân dân các dân tộc Việt Nam nói chung.
2. Hát Soọng Cô của người Sán Dìu:
Hát Soọng Cô của dân tộc Sán Dìu thuộc loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian, được cộng đồng người Sán Dìu huyện Đồng Hỷ gìn giữ, bảo tồn và phát huy, hiện đang được thực hành tại các xã như Nam Hoà, Hoá Thượng, Cây Thị, Tân Lợi.
Hát Soọng cô là một loại hình xướng ca đặc sắc trong kho tàng văn nghệ dân gian truyền miệng đã được lưu giữ hàng trăm năm nay của người Sán Dìu. Hát Soọng cô là hát đối đáp trữ tình, giàu tình cảm và đậm đà bản sắc dân tộc. Soọng cô, về hình thức diễn xướng cũng tương tự như sli, lượn của người Tày, Nùng, quan họ, hát ghẹo, hát xoan của người Kinh; với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt được ghi chép bằng chữ Hán cổ hoặc truyền khẩu, tiếng hát thể hiện tâm tư tình cảm của những đôi trai gái đang trong giai đoạn tìm hiểu nhau, nhờ tiếng hát để trải tấm lòng mình, là phương tiện để bộc lộ những tâm ý mà không dám ngỏ lời trực tiếp một cách tinh tế. Không chỉ có vậy, Sọong Cô còn là những lời hát ru đưa con trẻ chìm trong giấc ngủ, là những lời hát để hỏi thăm về gia đình, bạn bè… của những người lâu ngày mới có dịp gặp mặt. Những câu hát Soọng Cô không bị giới hạn bởi không gian, thời gian, hoàn cảnh cũng như môi trường diễn xướng, người ta có thể hát một đêm, nhiều đêm, hát trong nhà, bên bờ suối, khi đi làm nương, hay trong lúc đi chơi làng, trong khi ru con và trong các lễ hội của người Sán Dìu.
Hát Soọng cô đem lại tình yêu, niềm hạnh phúc và mọi nếp sống sinh hoạt đời thường khi đồng bào lên nương, xuống ruộng. Những câu từ, giai điệu tiếng hát được ký thác vào đó với nhiều hình tượng giàu hình ảnh, chất biểu cảm sâu sắc, với lời ví von giản dị, dễ hiểu nhưng giàu sự biểu cảm và dễ rung động lòng người.
3. Nghệ thuật Khèn của người Mông:
Khèn Mông là một nhạc cụ tiêu biểu, độc đáo và quan trọng đối với đời sống tinh thần của dân tộc Mông. Cây khèn mang ý nghĩa sâu sắc, đó là phương tiện giao tiếp của con người với thế giới tâm linh, là tâm hồn, bản sắc của dân tộc; nó gắn liền với các sinh hoạt văn hóa, đời sống hàng ngày của đồng bào. Khèn được thổi lên trong đám tang để tỏ lòng xót thương, luyến tiếc người quá cố; trong vui chơi để thi tài, thể hiện tình yêu đôi lứa và bộc lộ ý chí, nghị lực của người con trai Mông trong sinh hoạt cộng đồng…
Để làm được một chiếc khèn, nghệ nhân chuẩn bị gỗ, ống trúc, dây rừng, một số miếng đồng nhỏ; bầu khèn được làm bằng gỗ cây thông mọc trên núi cao; dây đai làm từ vỏ cây đào rừng,vừa có tác dụng trang trí, vừa giữ cho khèn khỏi bị vỡ, dập trong quá trình sử dụng; ống khèn làm từ cây trúc mọc ở vùng núi cao, có thân thẳng, ống dài, phải phơi đủ độ, không được ẩm, cũng không được quá khô thì tiếng khèn mới hay; một bộ phận quan trọng khác của chiếc khèn Mông là lưỡi gà, nghệ nhân lựa chọn một thanh đồng nhỏ dài khoảng 10cm, đặt trên đe rồi dùng búa tán thật mỏng, mài dũa, rạch đường rãnh để tạo lưỡi gà. Các miếng đồng được lắp vào các ống trúc, mỗi ống trúc có 01 miếng đồng riêng, ống ngắn nhất và to nhất được gắn 2 miếng để đảm bảo độ rung và âm thanh của khèn. Việc tạo lưỡi gà rất quan trọng, độ trầm bổng, vang ngân của tiếng khèn phụ thuộc vào việc chỉnh các lưỡi đồng, mỏng dày thế nào, to nhỏ ra sao; quá trình chế tác chiếc khèn có rất nhiều công đoạn và làm thủ công. Vì vậy, hiện nay mỗi chiếc khèn có giá bán rất cao, từ 2,5 triệu đồng đến 3 triệu đồng.
Người Mông quan niệm: Con gái Mông phải biết may vá, dệt vải và thêu thùa, con trai Mông phải biết thổi khèn và múa khèn. Khèn vừa dùng để thổi, vừa là đạo cụ để múa; múa khèn với các vũ đạo đẹp, dũng mãnh và trữ tình, thể hiện sức sống mãnh liệt của người Mông. Người thổi khèn giỏi phải biết múa khèn, kết hợp nhuần nhuyễn giữa các động tác để vừa thổi vừa múa; động tác múa khèn rất đa dạng, phong phú, cơ bản là khom lưng, quay hất gót tại chỗ và quay hất gót di động trên vòng quay lớn rồi thu hẹp dần theo hình xoắn ốc… với tốc độ càng nhanh có nghĩa người múa càng điêu luyện. Vũ điệu và âm thanh hòa quyện với nhau giúp cho người xem được thưởng thức cùng lúc cả hình ảnh uyển chuyển, nhịp nhàng của người múa lẫn âm thanh, tiết tấu đa dạng, biến hóa của tiếng khèn.
Mỗi bài khèn đều có bài hát tương ứng, mang nội dung cụ thể, như thể người chơi dùng tiếng khèn để kể chuyện; tại Đồng Hỷ có nghệ nhân Sùng Văn Sinh, cư trú tại xóm Lân Quan, xã Tân Long là một trong những nghệ nhân có thể kết hợp tài tình giữa thổi khèn và múa khèn, ông đã ba lần giành giải nhất nội dung múa khèn tại Ngày hội Văn hóa – Thể thao dân tộc Mông huyện Đồng Hỷ các năm: 2012; 2015 và 2018.
4. Nghi lễ cấp sắc của người Nùng:
Đồng bào Nùng tại huyện Đồng Hỷ sinh sống chủ yếu tại các xã: Văn Hán, Tân Long, Hòa Bình. Ngoài Nghi lễ Hét Khoăn, đồng bào Nùng còn bảo tồn được Nghi lễ cấp sắc; với người Nùng nơi đây, chỉ có những người làm nghề thày cúng mới được cấp sắc, trước khi được cấp sắc, người được cấp sắc phải đảm bảo rất nhiều yêu cầu, nhiều tiêu chuẩn khác nhau, phải có đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, khiêm tốn, sống hòa nhã với mọi người. Lễ cấp sắc thông thường có 3 cấp khác nhau, từ thấp lên cao, cấp 1 là cấp thấp nhất, cấp 3 là cấp cao nhất.
Trong lễ cấp sắc, bộ phận quan trọng nhất là bộ phận Tào, thường thì có 4 thày, trong đó có 2 thày chính là thày Bố – Trừ Cai và thày mẹ – Xìn Tồ, tiết mục quan trọng nhất trong lễ cấp sắc là lễ xin con hương, nghi lễ này thường bắt đầu vào giờ Sửu, lúc nửa đêm.
Thày bố làm nhiệm vụ đứng giữa cắt tấm vải trắng ấy, việc làm đó thể hiện sự vất vả và khó nhọc như người mẹ sinh ra con, tấm vải trắng được cắt dần trong tiếng chiêng trống và sự quan sát ủng hộ của những người thân và làng xóm đến xem. Khi tấm vải được cắt đứt, thày mẹ và con hương nằm xuống sàn, thày Bố lấy chăn phủ lên người con hương như một động tác đón nhận và che chở cho đứa con mới được sinh ra, sau đó các thày đi xung quang con hương đọc lời cúng ma cho con hương, một mâm bánh trôi được mang đến, thày Mẹ gắp bánh trôi cho đứa con vừa mới được sinh ra. Thày Bố, thày Mẹ cùng một thày phụ cho thày Bố đứng ra chải đầu, cắt tóc cho con hương, sau đó 3 thày lấy kim châm vào đầu con hương như để dặn dò, dạy bảo cho con hương thông suốt mọi việc.
Lễ cấp sắc thực chất là một cuộc đại diễn xướng bởi nó tập trung khá nhiều hình thức nghệ thuật biểu diễn như hát, khí cụ, sân khấu nhập đồng, trò diễn; sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố trên đã tạo nên sức hấp dẫn của Lễ cấp sắc của người Nùng nói chung cũng như tại huyện Đồng Hỷ nói riêng.