Giới thiệu khái quát huyện Quỳ Châu

Giới thiệu khái quát huyện Quỳ Châu

Giới thiệu khái quát huyện Quỳ Châu

  1. Địa hình, địa mạo:

Là huyện có địa hình hiểm trở, nhiều núi cao bao bọc tạo nên những thung lũng nhỏ và hẹp trọng địa bàn các giới kiến tạo, đới nâng Pù Huống, phức nếp lõm sông Hiếu nên địa hình có nhiều lượn sóng theo hướng từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Các khe suối đổ về sông Hiếu, sông Hiếu nằm giữa chạy từ Tây sang Đông tạo thành những hình lòng máng. Địa hình có thể phân ra như sau:

– Dạng địa hình thung lũng bằng phân bố rải rác các bãi bồi dọc theo tuyến các con sông và một số khe suối, diện tích chiếm khoảng 1% diện tích tự nhiện của huyện.

– Dạng địa hình đồi: Diện tích khoảng 25% diện tích tự nhiên toàn huyện, phân bố chủ yếu dọc theo quốc lộ 48 và nằm ở triền núi. Phần lớn là dạng đồi lượn sóng có độ cao 170m – 200m.

– Dạng địa hình núi chiếm khoảng 74% diện tích tựu nhiên toàn huyện, trong đó khoảng 57% là núi thấp từ 170m – 1000m, còn lại là núi cao trên 1000m.

Nhìn chung, địa hình Quỳ Châu chủ yếu là núi cao, độ dốc tương đối lớn. Các dòng sông hẹp và dốc gây khó khăn cho việc phát triển vận tải đường sông và hạn chế khả năng điều hòa nguồn nước mặt trong các mùa phục vụ cho canh tác nông nghiệp. Tuy nhiên, hệ thống sông ngòi có độ dốc lớn, vơi nhiều thác nhỏ là tiềm năng rất lớn cần được khai thác để phát triển thủy điện. Dựa vào đặc điểm địa hình, Quỳ Châu được chia thành 4 vùng tiểu sinh thái:

+ Vùng trên: Gồm các xã Châu Bính, Châu Tiến, Châu Thuận, Châu Thắng.

+ Vùng giữa: Gồm các xã Châu Hạnh và Thị trân Tân Lạc.

+ Vùng dưới: Gồm các xã Châu Bình, Châu Hội, Châu Nga.

+ Vùng trong: Gồm các xã Châu Phong, Châu Hoàn, Diên Lãm.

  1. Khí hậu:

Khí hậu Quỳ Châu mang đặc điểm chung là nhiệt đới ẩm gió mùa, có mùa nắng nóng, mùa lạnh và ẩm.

– Chế độ nhiệt: Các yếu tố khí hậu trung bình hàng năm cho thấy: Sự chênh lệch nhiệt độ giữa các tháng trong năm khá cao. Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ không khí trung bình là 21 – 230C, nhiệt độ cao nhất 41C, nhiệt độ thấp nhất là 5C. Tổng số giờ nắng 581,5 giờ, tổng tích ôn 3.586,50C. Từ tháng 5 đến tháng 10, nhiệt độ trung bình là 26,60C, nhiệt độ cao nhất 41,30C, thấp nhất 10,60C. Tổng số giờ nắng 1.002,6 giờ, tổng tích ôn 4.902,590C.

– Chế độ mưa: Lượng mưa bình quân hàng năm dao động từ 800 – 1000mm/năm, chia thành hai mùa rõ rệt:

+ Mùa khô: Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa 212,7mm chỉ chiếm 12 – 15% lượng mưa cả năm.

+ Mùa mưa: Từ tháng 5 đến tháng 10, lượng mưa 1.453,8mm chiếm 85 – 90% lượng mưa cả năm, tháng có mưa nhiều nhất là tháng 8 – 9, lượng mưa từ 220 – 540mm/tháng, mùa này thường kèm theo gió bão.

– Độ ẩm không khí: Độ ẩm không khí có sự chênh lệch giữa các tiểu vùng theo mùa. Độ ẩm không khí trung bình năm giao động từ 85 – 90%. Chênh lệch độ ẩm trung bình tháng ẩm nhất, tháng cao nhất không cao từ 2-5%, vùng có độ ẩm cao nhất là phái Bắc, vùng có độ ẩm thấp nhất là vùng núi phái Tây. Lượng bốc hơi bình quân hàng năm từ 300 – 400mm.

– Chế độ gió: Nằm trong vùng chịu ảnh hưởng một phần gió Tây Nam từ tháng tư đến tháng 8, gây khô nóng một số vùng trong huyện. Là huyện có tốc độ gió thấp nhất so với các huyện trong tỉnh, ít bị ảnh hưởng của bão mà chỉ có lốc xoáy cục bộ.

  1. Thủy văn và nguồn nước:

Quỳ Châu có mạng lưới sông suối với mật độ 5-7km/km2. Các sông suối lớn nhỏ đều có nguồn nước dồi dào, thế năng lớn, đáp ứng nhu cầu nước cho sản xuất và dân sinh. Hai con sông chính chảy qua huyện đó là sông Hiếu và sông Hạt. Ngoài ra còn có hàng chục con sông nhỏ, khe suối trong mạng lưới nhánh của sông Hiếu như Nậm Cướm, Nậm Can, Nậm Chai … tạo thành hệ thống cấp nước tự nhiên cho sản xuất và sinh hoạt dân cư.

Quỳ Châu có lượng mưa hàng năm khá lớn khoảng 1,7 tỷ m3. Tuy nhiên lượng mưa phân bố không đều trong năm, đồng thời mưa lơn tập trung cùng với địa hình dốc, thảm thực vật che phủ bị giảm nên thường gây lũ lụt, khả năng điều tiết nước bị hạn chế nên một số vùng có thời gian còn thiếu nước sinh hoạt, khô hạn. Nhìn chung Quỳ Châu có nguồn nước mặt khá lớn, đảm bảo khả năng khai thác cân đối theo yêu cầu sản xuất và đời sống. Hiện tượng ngập lụt hàng năm chỉ có thể hạn chế khắc phục được bằng các biện pháp thủy lợi, bảo vệ khoanh nuôi và trồng rừng.

 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH huyện Quỳ Châu – tỉnh Nghệ An đến năm 2010)

QUỲ CHÂU – VÙNG ĐẤT GIÀU TIỀM NĂNG

Nằm ở vị trí trung tâm của vùng rừng núi tây bắc Nghệ An, Quỳ Châu là mảnh đất có truyền thống lịch sử và văn hóa lâu đời. Thiên nhiên đã ban tặng cho Quỳ Châu nhiều danh lam, thắng cảnh hùng vĩ và hữu tình như: rừng rậm, núi cao, sông sâu, thác lớn, hang động có nhiều thạch nhũ đẹp; cùng với mạng lưới sông, suối đan xen dày đặc, tưới mát cho những thung lũng phù sa màu mỡ. Chính trên mảnh đất này, hơn hai mươi vạn năm trước, những “người khôn ngoan” (Homosapiens) đầu tiên, biết chế tạo công cụ lao động đã cư ngụ ở đây – “Người Thăm Ồm”. Kết quả khảo sát hệ thống hang động nằm trong các dãy núi đá vôi thuộc vùng Thượng Pu Pai và Hạ Pu Pai của khoa học khảo cổ đã phát hiện nhiều dấu tích của “các thế hệ con cháu người Thăm Ồm” từ thời Tiền sử cho đến khi bước vào xã hội văn minh. Sự phong phú, đa dạng của các nguồn thức ăn từ rừng xanh đại ngàn, từ sông và khe suối, cộng với sự phì nhiêu của đất đai trong các thung lũng đã cuốn hút con người từ nhiều nơi quy tụ về đây dựng bản lập mường, xây dựng cuộc sống thuận hoà và thịnh đạt từ bao đời nay.

Các thế hệ người dân Quỳ Châu rất tự hào về truyền thống lịch sử vẻ vang của quê hương mình. Trong quá trình khai phá, tạo lập, xây dựng, bảo vệ và phát triển bản làng, các cộng đồng cư dân Quỳ Châu, mà đa số là đồng bào dân tộc Thái, đã đúc kết nên những giá trị đặc sắc trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần. Những truyền thuyết, huyền thoại kể về một thời oanh liệt, hào hùng thuở “khai sơn, phá thạch” dựng bản, lập mường được nói đến trong những truyện thơ nổi tiếng như: “Lái lông mương”, “Lái Khủn Chưởng”; hay những cọn nước, nhà sàn; những bộ trang phục truyền thống, gắn với nghề dệt thêu thổ cẩm; những điệu nhuôn, xuối, khắc luống, nhảy sạp và hàng trăm món ẩm thực truyền thống mang đậm hương vị núi rừng như: canh bon, canh ột, hò-moọc, chỉn-xồm, lẩu-xạ… đều đã gắn bó mật thiết, sâu đậm trong cuộc sống và tâm thức của mỗi người dân Quỳ Châu.

Mảnh đất Quỳ Châu còn nổi tiếng bởi những di tích danh thắng và những lễ hội mùa xuân như: Thăm Ồm, Tôn Thạt, Thăm Chạng, lễ tế thần ở đền Chiềng Ngam, lễ hội Hang Bua, lễ hội hang Có Ngụn và leo núi Phá Xăng, những làng Thái cổ… Tất cả đã góp phần làm cho Quỳ Châu ngày càng trở nên hấp dẫn hơn và thu hút được sự quan tâm của nhiều người.

Nhân dân Quỳ Châu có truyền thống yêu nước nồng nàn, trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược ở thế kỷ XV, Quỳ Châu là một trong những địa bàn hoạt động quan trọng của nghĩa quân Lam Sơn. Trong những năm cuối thế kỷ XIX, mảnh đất Quỳ Châu lại chứng kiến những trận chiến đấu oanh liệt của các nghĩa sỹ yêu nước chống thực dân Pháp. Gương hy sinh anh dũng của Đốc binh Lang Văn Thiết mãi mãi là niềm kiêu hãnh và tự hào của các thế hệ người dân Quỳ Châu. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhân dân Quỳ Châu đã có những đóng góp to lớn về sức người, sức của cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng quê hương, đất nước.

Trong giai đoạn hiện nay, với truyền thống anh dũng, kiên cường trong đấu tranh dựng nước và giữ nước; cần cù, thông minh và sáng tạo trong lao động sản xuất; tài hoa và tinh tế trong đời sống văn hóa tinh thần; nhân dân các dân tộc Quỳ Châu đã cùng nhau đoàn kết làm cho quê hương Quỳ Châu ngày càng khởi sắc; diện mạo Quỳ Châu ngày càng đổi mới; đời sống chính trị, quốc phòng – an ninh luôn được củng cố và ổn định. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Quỳ Châu quyết tâm phấn đấu, sớm đưa Quỳ Châu trở thành một huyện phát triển vững mạnh, toàn diện về mọi mặt của vùng tây bắc Nghệ An.

(Nguồn: Địa chí huyện Quỳ Châu – Xuất bản tháng 2/2012)

Thành tựu phát triển kinh tế 

Thu nhập bình quân đầu người năm 2010; 8,6 triệu đồng.

Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 16%, trong đó nông lâm nghiệp nhịp độ tăng bình quân 6,6%; công nghiệp xây dựng nhịp độ tăng bình quân 27,25%; thương mại dịch vụ nhịp độ bình quân 18,8%.

* Nông, lâm nghiệp::

– Nông nghiệp tăng trưởng khá. Đã tập trung chỉ đạo chuyển đổi cơ cấu cây con, mùa vụ; đầu tư thâm canh tăng vụ, đưa các giống cây lúa lai, ngô lai và các giống có năng suất cao vào sản xuất nên năng suất các loại cây trồng tăng. Tổng sản lượng lương thực năm 2010 đạt 22.190 tấn. Bình quân lương thực đầu người 400 kg/năm

Đã hình thành các vùng nguyên liệu tập trung phục vụ các nhà máy chế biến. Tập trung chỉ đạo xây dựng và phát triển kinh tế trang trại, đến nay đã có 222 trang trại đạt tiêu chuẩn của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, góp phần giải quyết việc làm cho 648 lao động.

–  Chăn nuôi, thú y, công tác phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm được chú trọng nên tổng đàn phát triển tương đối ổn định. Tổng đàn trâu, bò 27940 con đàn lợn 25.000 con, đàn gia cầm 265.900 con 

– Công tác khuyến nông – khuyến ngư đã có nhiều cố gắng, góp phần thực hiện có hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện. Diện tích nuôi trông thuỷ sản được mở rộng, sản lượng khai thác thuỷ sản hàng năm tăng khá.

– Lâm nghiệp có bước tăng trưởng khá, công tác khoanh nuôi bảo vệ rừng được chú trọng, trồng mới 5.758,1ha rừng tập trung; 625.000 cây phân tán; khoanh nuôi, tu bổ 65.067ha, độ che phủ của rừng đạt 74%.

*  Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng:

– Giá trị sản xuất Công nghiệp, xây dựng tăng bình quân 18,8%/năm, một số sản phẩm chiếm lĩnh được thị trường và tiêu thụ tốt như Gạch nung và đá xây dựng các loại.

– Tiểu thủ công nghiệp bước đầu đã có nhiều khởi sắc . Các cơ sở sản xuất Tiểu thủ Công nghiệp, ngành nghề truyền thống đã có chiều hướng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Xây dựng và được công nhận 2 làng nghề (Dệt thổ cẩm ở Hoa Tiến và hương trầm ở Khối 2 thị trấn Quỳ Châu), 3 làng có nghề: Khối 1, khối 3 thị trấn Quỳ Châu và bản Hạnh Khai xã Châu Hạnh.

– Cơ sở hạ tầng được đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng như giao thông, thuỷ lợi, nước sinh hoạt và hệ thống trường, trạm: Đến nay 8/12 xã có điện lưới Quốc gia; 12/12 xã có điện thoại; Các tuyến đường theo mục tiêu Nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện khoá XXIII đã hoàn thành, 12/12 xã ô tô vào tận trung tâm xã và bản, 12/12 xã có trụ sở làm việc, hệ thống trường trạm cơ bản được kiên cố hoá. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội gần 450 tỷ đồng.

* Tài chính, thương mại, dịch vụ:

– Thu ngân sách hàng năm đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch Tỉnh, HĐND giao bình quân 20%/năm. Chi ngân sách hàng năm đều vượt chỉ tiêu kế hoạch, đáp ứng yêu cầu chi thường xuyên của các đơn vị.

– Hoạt động ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng chính sách và kho bạc nhà nước cơ bản đáp ứng nhu cầu cho vay vốn phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo và nhu cầu sinh hoạt của nhân dân.

– Thương mại dịch vụ: Cung ứng kịp thời vật tư, hàng hoá đảm bảo các yêu cầu thiết yếu cho sản xuất, đời sống nhân dân, sản phẩm hàng hoá đa dạng, phong phú, ngành nghề dịch vụ được khuyến khích phát triển. Chợ thị trấn, các thị tứ và chợ nông thôn đã được đầu tư xây dựng và nâng cấp, từng bước đáp ứng cho việc giao lưu trao đổi hàng hoá, nông sản thực phẩm của nhân dân. Tổng doanh thu ngành thương mại, dịch vụ (GCĐ 94) năm 2010 đạt 150 tỷ đồng

(Nguồn:Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ huyện khoá XXIII)

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây