Giới thiệu khái quát huyện Lạng Giang

Giới thiệu khái quát huyện Lạng Giang

Giới thiệu khái quát huyện Lạng Giang

Huyện Lạng Giang nằm ở toạ độ địa lý từ 21016’ đến 21018’ vĩ độ Bắc và từ 106010’ đến 106021’ kinh độ Đông; là huyện nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Bắc Giang có vị trí là cửa ngõ nối liền các tỉnh phía Đông Bắc với thành phố Bắc Giang, phía Bắc giáp huyện Hữu Lũng (tỉnh Lạng Sơn) và huyện Yên Thế, phía Nam giáp thành phố Bắc Giang và huyện Yên Dũng, phía Đông giáp huyện Lục Nam và phía Tây giáp huyện Tân Yên.

        Hiện nay, diện tích tự nhiên là 240 km2 (gồm 21 xã và 02 thị trấn, trụ sở Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện đặt ở thị trấn Vôi). Dân số của huyện hơn 190.000 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động chiếm trên 45%. Lạng Giang là vùng đất giàu truyền thống văn hoá, lịch sử với nhiều lễ hội. Nơi đây còn có cây Giã Hương nghìn năm tuổi, là địa điểm đến thăm quan của nhiều du khách.

             So với các huyện, thành phố trong tỉnh, huyện Lạng Giang có vị trí địa lý tương đối thuận lợi, có một số trục đường giao thông quan trọng của Quốc gia chạy qua (đường bộ, đường sắt, đường thuỷ). Thị trấn Vôi, thị trấn Kép cách thành phố Bắc Giang 20km và cách thủ đô Hà Nội 70km tính theo đường ô tô, nằm trên Quốc lộ 1A và đường sắt Hà Nội – Lạng Sơn lên cửa khẩu Quốc tế Đồng Đăng, nơi giao lưu buôn bán sầm uất hiện nay, là vị trí thuận lợi khi thực hiện chiến lược 2 hành lang, 1 vành đai kinh tế của Chính phủ trong việc hợp tác kinh tế với Trung Quốc đặc biệt hành lang kinh tế Nam Ninh (Trung Quốc) – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng đi vào hoạt động để phát triển sản xuất hàng hoá và giao lưu kinh tế trong tỉnh, trong nước và quốc tế. Thị trấn Kép là nơi thuận lợi xây dựng cảng cạn cho các tỉnh Đông bắc bộ.

        Quốc lộ 31 từ thành phố Bắc Giang đi qua các xã  Thái Đào, Đại Lâm của Lạng Giang sang các huyện Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Động, Đình Lập (Lạng Sơn) gặp Quốc lộ 4A đi  cảng Mũi Chùa, Tiên Yên và nối với cửa khẩu Móng Cái (Quảng Ninh). Quốc lộ 37 từ thị trấn Kép, qua xã Hương Sơn đến huyện Lục Nam đi Hòn Suy sang thị xã Chí Linh (Hải Dương) gặp Quốc lộ 18 có thể về cảng Hải Phòng hay ra cảng nước sâu Cái Lân (Quảng Ninh). Tuyến đường sắt Lưu Xá – Kép – Hạ Long nối Thái Nguyên với Quảng Ninh, đi qua các xã Nghĩa Hoà, Quang Thịnh, Hương Sơn và thị trấn Kép. Đường sông có sông Thương chảy qua tàu thuyền vừa và nhỏ đi lại dễ dàng, đây là những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế – xã hội của huyện.

        Với vị trí địa lý thuận lợi, hiện nay Lạng Giang là một trong 04 huyện, thành phố của tỉnh được xác định là vùng trọng điểm phát triển kinh tế – xã hội (Việt Yên, Yên Dũng, Lạng Giang và thành phố Bắc Giang). Đã hình thành một số cụm công nghiệp như: Tân Dĩnh – Phi Mô, Non Sáo xã Tân Dĩnh, Vôi – Yên Mỹ, Nghĩa Hoà cơ bản được lấp đầy; đang thu hút đầu tư vào cụm công nghiệp Núi Sẻ xã Phi Mô, Tân Hưng và một số vùng sản xuất nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến nông sản.

Diễn biến lịch sử mảnh đất Lạng Giang anh hùng

Lạng Giang là một vùng quê được hình thành và có tên gọi rất sớm trong lịch sử các tên làng, tên xã Việt Nam. Qua nhiều giai đoạn biến đổi của đất nước, ranh giới và tên gọi hành chính của Lạng Giang cũng nhiều lần thay đổi, đã để lại trên mảnh đất này biết bao dấu tích lịch sử của cha ông ta trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước.

         Lạng Giang là một vùng quê được hình thành và có tên gọi rất sớm trong lịch sử các tên làng, tên xã Việt Nam. Qua nhiều giai đoạn biến đổi của đất nước, ranh giới và tên gọi hành chính của Lạng Giang cũng nhiều lần thay đổi, đã để lại trên mảnh đất này biết bao dấu tích lịch sử của cha ông ta trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. 

        Từ những ngày đầu triều các vua Hùng, Lạng Giang chưa thành tên gọi. Địa phận của huyện thuộc đất Kê Từ (bao gồm địa giới hành chính các huyện Lạng Giang, Lục Nam, Lục Ngạn ngày nay) nằm trong Lộ Vũ Ninh. Tên Kê Từ tồn tại suốt gần một nghìn năm Bắc thuộc; đến thế kỷ 11, được đổi là châu Lạng thuộc lộ Bắc Giang. Năm 1407, châu Lạng đổi thành phủ Lạng Giang, gồm 02 châu: Châu Lạng Giang và châu Thượng Hồng, cai quản 10 huyện, trong đó có huyện Bảo Lộc chính là đất Lạng Giang ngày nay và một phần của huyện Lục Nam; trụ sở đặt tại làng Chu Nguyên (thị trấn Vôi ngày nay). Năm 1889, chính quyền Pháp thành lập tỉnh Lục Nam, huyện Bảo Lộc thuộc tỉnh Lục Nam. Ngày 8/9/1891, tỉnh Lục Nam giải thể, huyện Bảo Lộc trả về tỉnh Bắc Ninh.

         Dưới triều Thành Thái nhà Nguyễn (1889-1907), huyện Bảo Lộc đổi thành huyện Phất Lộc. Năm 1924, chính quyền Pháp đổi huyện Phất Lộc thành phủ Lạng Giang, gồm 13 tổng: Cần Dinh, Đa Mai, Thọ Xương, Đào Quán, Dĩnh Kế, Thịnh Liệt, Lan Mẫu, Trí Yên, Mỹ Cầu, Phi Mô, Mỹ Thái, Thái Đào, Xuân Đám. Phủ lỵ đặt tại phủ Lạng Thương (phố Tiền Giang, phường Lê Lợi, thành phố Bắc Giang ngày nay). Phủ Lạng Giang bao gồm toàn bộ lãnh thổ huyện Lạng Giang ngày nay cùng các xã: Lan Mẫu của huyện Lục Nam; Lão Hộ, Song Khê, Tân Mỹ, Hương Gián, Lãng Sơn, Trí Yên, Đức La, Tam Kỳ, Tân An, Xuân Phú, Tân Tiến của huyện Yên Dũng; Thọ Xương, Dĩnh Kế, Mỹ Độ, Song Mai, Đa Mai của thành phố Bắc Giang ngày nay…

        Ngày 25/3/1948, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra Sắc lệnh số 148-SL, bãi bỏ các danh từ, phủ, châu, quận để thống nhất gọi là huyện. Thực hiện Sắc Lệnh của Chủ tịch nước, phủ Lạng Giang gọi là huyện Lạng Giang.
          Trong lịch sử chống giặc phương Bắc xâm lược, mảnh đất này là địa bàn chiến lược quan trọng, nằm trên con đường thiên lý Bắc – Nam, là phên dậu cho thành Thăng Long, Đông Đô. Chiến thắng Cần Trạm-Hố Cát- Xương Giang năm 1427, đánh tan 10 vạn quân xâm lược nhà Minh, là thắng lợi rực rỡ nhất trong cuộc chiến tranh giành độc lập của nhân dân ta chống lại sự xâm lược của phong kiến phương Bắc, góp phần cùng với quân dân cả nước chấm dứt 20 năm đô hộ tàn bạo của Nhà Minh, mở ra những trang mới trong lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc.

         Phát huy truyền thống anh hùng cách mạng, Phủ Lạng Giang cũng là nơi sớm tiếp thu ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin và con đường cách mạng vô sản do đồng chí Nguyễn Ái Quốc lựa chọn và truyền bá về nước. Cuối năm 1938, chi bộ Phủ Lạng Thương được thành lập. Chi bộ Phủ Lạng Thương được coi như một Ban cán sự Đảng của tỉnh Bắc Giang, lãnh đạo phong trào cách mạng trên địa bàn tỉnh.

          Trong những năm thực hiện chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh, phong trào cách mạng ở Phủ Lạng Giang đã trưởng thành nhanh chóng, tạo điều kiện bảo vệ và củng cố cơ sở cách mạng tiến tới giành chính quyền. Bằng cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân các dân tộc Phủ Lạng Giang đã cùng nhân dân cả nước đập tan xiềng xích của thực dân, phong kiến, mở ra kỷ nguyên nhân dân lao động thực sự làm chủ đất nước; nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, là Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.

         Trong 02 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ, huyện Lạng Giang đã có 2.745 liệt sỹ, 1.475 thương binh, 603 bệnh binh bỏ lại một phần xương máu của mình ở chiến trường vì độc lập tự do của Tổ quốc; 57 bà mẹ được phong tặng và truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, 09 xã, thị trấn và 04 cá nhân được Đảng, Nhà nước phong, truy tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân huyện được phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Lực lượng Công an huyện được phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng Công an nhân dân”.

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây