Giới thiệu khái quát huyện Sơn Động

Giới thiệu khái quát huyện Sơn Động

Giới thiệu khái quát huyện Sơn Động

Huyện Sơn Động có địa hình dốc dần từ đông bắc xuống tây nam, độ dốc khá lớn, đặc biệt là các xã nằm ven dãy núi Yên Tử (bình quân trên 250). Độ cao trung bình của huyện là 450m so với mặt nước biển, cao nhất là đỉnh núi Yên Tử (1.068m), thấp nhất là 52m, cá biệt khu vực Ba Khe (Tuấn Đạo) chỉ cao hơn mực nước biển 24m. 

Do đặc điểm địa hình, ruộng đất phần lớn bậc thang xen kẽ giữa các triền núi, lớn nhất là cánh đồng Sầy (xã Tuấn Đạo) đã đi vào câu ca:

Thứ nhất là đồng Quảng La(1)
Thứ nhì đồng Biển(2), thứ ba đồng Sầy

Sông suối trong huyện chiếm 1,53% diện tích tự nhiên (1.292 ha). Trên địa bàn huyện có một sông chính chảy qua, đó là sông Lục Nam còn có tên gọi là Minh Đức. Trên địa phận Sơn Động, sông Lục Nam còn có các tên gọi sôngBè (hay sông An Châu). Sông Lục Nam bắt nguồn từ Đình Lập (Lạng Sơn), chảy vào Sơn Động ở Hữu Sản qua địa phận Sơn Động dài khoảng 40km. Sông Lục Nam hoà cùng núi rừng trùng điệp của vùng đông bắc tạo nên một thắng cảnh hùng vĩ “Một trường giang đẹp nhất Bắc Kỳ”(3). Từ Hữu Sản đến Khe Rỗ (An Lạc), sông chảy theo hướng đông bắc – tây nam, đến Lệ Viễn đổi hướng đông – tây chảy qua An Lập, An Châu, An Bá, Yên Định rồi hợp lưu với ba nhánh sông khác, đó là:

Sông Rãng bắt nguồn từ xã Long Sơn chảy qua xã Dương Hưu, một phần xã An Lạc, qua xã An Châu, gặp sông Lục Nam ở xã An Bá. Nhánh sông này dài khoảng 26km.

Sông Cẩm Đàn bắt nguồn từ khu vực xã Thạch Sơn hợp lưu với sông Thảo (huyện Lục Ngạn) ở Chiên Sơn rồi chảy qua các xã Phúc Thắng, Quế Sơn, Chiên Sơn, Cẩm Đàn theo hướng bắc – nam. Đến Cẩm Đàn, sông đổi hướng đông – bắc chảy qua xã Yên Định nhập với sông Lục Nam. Nhánh sông này dài khoảng 21km.

Sông Tuấn Đạo gồm hai nhánh: Một nhánh bắt nguồn từ khu vực tây bắc Yên Tử, một nhánh bắt nguồn từ xã Bồng Am chảy qua xã Tuấn Đạo ở Bãi Chợ nhập  vào sông Lục Nam ở Đồng Hả (xã Yên Định). Sông này dài khoảng 15km.

Nhìn chung, mật độ sông suối của huyện khá dầy, nhưng phần lớn là đầu nguồn nên lòng sông, suối hẹp, độ dốc lớn, lưu lượng nước hạn chế, đặc biệt về mùa khô.

Sơn Động ở cách biển không xa, nhưng do bị án ngữ bởi dãy núi Yên Tử ở phía nam nên có đặc điểm khí hậu lục địa vùng núi. Hàng năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mùa xuân và mùa thu là hai mùa chuyển tiếp, khí hậu ôn hoà; mùa hạ nóng, mưa nhiều; mùa đông lạnh, khô hanh, ít mưa. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 22,60C, nhiệt độ trung bình cao nhất là 32,90C, nhiệt độ trung bình thấp nhất là 11,60C. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.564mm, thuộc khu vực có lượng mưa trung bình trong vùng. Số ngày mưa trung bình trong năm là 128,5 ngày, những ngày có lượng mưa lớn nhất vào tháng 8, đạt 310,6mm. Do nằm trong khu vực che chắn bởi vòng cung Đông Triều nên huyện Sơn Động ít chịu ảnh hưởng của bão.

Đất đai của huyện khá đa dạng, phong phú với nhiều loại đất được phân bố ở cả địa hình bằng và địa hình dốc, cho phép phát triển hệ sinh thái nông – lâm nghiệp với nhiều loại cây trồng có giá trị, từ cây lương thực như lúa và rau màu trên các dải đất phù sa dọc theo các sông suối, đến việc khai thác đất dốc  trồng các loại cây ăn quả và cây lấy gỗ. Sơn Động có 59.273 ha rừng (năm 2010), trong đó diện tích rừng tự nhiên có 38.675 ha, diện tích rừng trồng có 20.598 ha. Rừng tự nhiên phân bố chủ yếu ở các xã An Lạc, Vân Sơn, Hữu Sản, Dương Hưu, thị trấn Thanh Sơn, Tuấn Mậu, Thanh Luận, Bồng Am, Tuấn Đạo… Đặc biệt trong Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử, thảm thực vật rừng có độ che phủ lớn (68%), chủ yếu là các loài cây bản địa và các loại gỗ quý như lim, lát, pơmu, thông tre, sến, táu, dẻ…Diện tích rừng trồng ngày càng tăng với các Chương trình 327, Chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, Dự án khu bảo tồn thiên nhiên tây Yên Tử… do đó diện tích rừng ở các vùng dự án ngày càng phát triển, không chỉ góp phần nâng độ che phủ của rừng, giữ gìn môi sinh, bảo tồn nguồn gien và tính đa dang sinh học mà còn phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế từ rừng, cải thiện cuộc sống người dân.   

Về động vật, trước đây khi diện tích rừng tự nhiên còn lớn, Sơn Động có rất nhiều loài chim, thú quý hiếm như: hổ, báo, hươu, gấu, lợn rừng, khỉ… Hiện nay, do môi trường sinh sống bị thu hẹp nên chỉ còn lại một số loài như khỉ, hươu, lợn rừng… Đặc biệt ở khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử có loài voọc đen là loài động vật quý hiếm ở Việt Nam cũng như trên thế giới.

Theo kết quả thăm dò, tài nguyên khoáng sản của Sơn Động có mỏ đá xây dựng ở An Lạc, mỏ đồng ở Cẩm Đàn, mỏ than đá ở Đồng Rì (thị trấn Thanh Sơn)… Một số mỏ đã được khai thác như mỏ đồng ở Cẩm Đàn, mỏ than ở Đồng Rì.     

Mạng lưới giao thông của huyện chủ yếu là đường bộ, được phân bố tương đối hợp lý. Toàn huyện có 1142km đường bộ (năm 2010), gồm: Đường quốc lộ có hai tuyến dài 65km, trong đó Quốc lộ 31 (trước đây là quốc lộ 13B) từ Cẩm Đàn qua thị trấn An Châu đến Hữu Sản sang Lạng Sơn dài 38km, Quốc lộ 279 từ thị trấn An Châu đi Quảng Ninh dài 27km. Đường tỉnh lộ có 2 tuyến: Đường 291 có điểm đầu tại ngã ba Yên Định, điểm cuối ở Nhà máy Nhiệt điện Đồng Rì, dài 23km; Đường 293 (đoạn qua Sơn Động) từ khu vực Đèo Bụt (xã Tuấn Mậu) nối với Quốc lộ 279 ở chân đèo Hạ Mi (xã Long Sơn), dài 21km. Đường tuyến huyện có tổng chiều dài 96km. Đường tuyến xã có tổng chiều dài 202km. Đường tuyến thôn, bản, nội đồng có tổng chiều dài 735km. 

Đặc điểm đất đai, khí hậu, thuỷ văn ở Sơn Động đã tạo cho huyện một thảm thực vật hết sức phong phú, đa dạng. Bên cạnh đó nguồn tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản dồi dào cũng là một tiềm năng, thế mạnh của huyện mà cán bộ và nhân dân các dân tộc Sơn Động đã và đang phát huy có hiệu quả phục vụ cho phát triển kinh tế, cải thiện cuộc sống người dân.

*Chú thích:

(1) Quảng La thuộc huyện Hoành Bồ (Quảng Ninh).

(2) Biển thuộc xã Biển Động, huyện Lục Ngạn.

(3) Trịnh Như Tấu: Bắc Giang địa chí

Thực trạng KT – XH của huyện Sơn Động

Bên cạnh những thuận lợi do được Nhà nước đầu tư các chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội đối với huyện đặc biệt khó khăn, nhất là Chương trình 30a của Chính phủ về giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo, Sơn Động còn nhiều khó khăn do xuất phát điểm nền kinh tế còn thấp, nguồn thu ngân sách hạn hẹp, hạ tầng kinh tế thấp kém, trình độ dân trí hạn chế và không đồng đều, thời tiết diễn biến phức tạp khó lường. Song được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước các cấp, trên hết là phát huy nguồn lực nội sinh và ý chí vươn lên mạnh mẽ, cán bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện đã đoàn kết vượt qua khó khăn, linh hoạt, sáng tạo trong lao động sản xuất và công tác, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển KT, VH, XH, đảm bảo ANQP, từng bước cải thiện và nâng cao cuộc sống người dân.

Về kinh tế, huyện luôn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, năm sau cao hơn năm trước, giá trị sản xuất tăng bình quân hàng năm 12,67%. Giá trị sản xuất của một số ngành chủ yếu năm 2012 đạt 613,991 tỷ đồng, tăng 11,5% so với năm 2011. Trong đó: nông, lâm nghiệp và thủy sản 270,481 tỷ đồng, tăng 2,24%; công nghiệp và xây dựng đạt 144,66 tỷ đồng, tăng 19,11%; thương mại và dịch vụ đạt 198,85 tỷ đồng tăng 20,76% so với cùng kỳ. Cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp- thủy sản chiếm 66,2%; Công nghiệp – xây dựng chiếm 18,9%; dịch vụ – thương mại chiếm 14,9%; thu nhập BQ đầu người trên 12 triệu đồng/năm,  đời sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt. 

Phát huy lợi thế về rừng và đất lâm nghiệp rộng lớn, những năm qua huyện đã tập trung cao chỉ đạo thực hiện Chương trình phát triển Nông, lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá. Phong trào trồng rừng kinh tế phát triển mạnh, giai đoạn 2006 – 2010, toàn huyện trồng mới được 8.426,3 ha rừng tập trung (trong đó, trồng rừng bằng vốn tự có của nhân dân được 4.984 ha), trồng cây phân tán được 446,4 ha, khoanh nuôi tái sinh rừng 3.478 ha. Đã chỉ đạo, tổ chức bàn giao được 4.504,24 ha rừng và đất lâm nghiệp của các tổ chức cho nhân dân quản lý. Quan tâm chỉ đạo chuyển đổi, cải tạo 510,6 ha rừng tự nhiên nghèo kiệt sang trồng rừng kinh tế,… độ che phủ của rừng đạt 62,2%, nhiều hộ gia đình ở các xã: Vân Sơn, Hữu Sản, Dương Hưu đã có thu nhập từ 200 đến 300 triệu đồng từ thu hoạch chu kỳ đầu rừng kinh tế, giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 43,11 tỷ đồng. Công tác quản lý bảo vệ rừng được quan tâm chỉ đạo. Đối với sản xuất nông nghiệp, huyện tập trung cao chỉ đạo nhân dân chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, đưa các loại giống cây, con mới và áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Năm 2012, Tổng sản lượng lương thực cây có hạt đạt 27.000 tấn, vượt mục tiêu nghị quyết ĐHĐB huyện lần thứ XXIV đề ra đến năm 2015.

Toàn huyện có 513 cơ sở sản xuất CN – TTCN với 1.730 lao động. Ngành nghề chủ yếu là sản xuất giấy, bột giấy, hương nến, khai thác cát sỏi, sản xuất giầy dép da, may mặc, sản xuất gạch, rèn, cơ khí, đồ mộc dân dụng, Giá trị sản xuất công nghiệp – TTCN năm 2012 ước đạt 50 tỷ đồng, tăng 18,76% so với năm 2011; trong đó kinh tế hợp tác xã đạt 7,092 tỷ đồng, tăng 9,28 %; kinh tế hỗn hợp đạt 16,834 tỷ đồng, tăng 10,09%; kinh tế cá thể ước đạt 19,997 tỷ đồng, tăng 10,84% so với năm trước. Nhìn chung các ngành sản xuất công nghiệp- TTCN đều tăng cả về số lượng và chất lượng.

Ngoài ra trên địa bàn huyện còn có 1 số doanh nghiệp lớn của Trung ương và Quân đội đang hoạt động sản xuất kinh doanh như: Nhà máy may Sơn Động thuộc Tập đoàn DMVN, Nhà máy Nhiệt điện SĐ, Nhà máy Luyện đồng, Công ty TNHH 1 thành viên 45, tạo việc làm ổn định cho hơn 2000 lao động là người địa phương, mỗi năm đóng góp khoảng 100 tỉ đồng vào ngân sách tỉnh Bắc Giang và huyện Sơn Động.

Hoạt động Tài chính – Ngân hàng và một số ngành dịch vụ thương mại: Giao thông – Vận tải, Bưu chính – Viễn thông, lưu chuyển hàng hoá, các dịch vụ phục vụ phát triển Công nghiệp – TTCN, Nông nghiệp… ngày càng phát triển, đáp ứng nhu cầu của nhân dân.Cơ sơ hạ tầng được quan tâm đầu tư, xây dựng. Giai đoạn 2006 – 2010,tổng vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn nhà nước do huyện quản lý đạt 727 tỷ đồng, bình quân hàng năm tăng 9,08%, năm 2011 = 130 tỷ đồng và năm 2012 là trên 132 tỉ đồng. Đầu tư làm mới và sử chưa hàng trăm công trình thuỷ lợi, đường giao thông, trường học, trạm y tế. Nhiều công trình trọng điểm được đầu tư xây dựng như: Trung tâm Thị trấn Thanh Sơn, chợ Trung tâm huyện, đường Cẩm Đàn – Thạch Sơn, đường Yên Định- Thanh Luận, đường trung tâm Thị trấn Thanh Sơn, Nhà làm việc liên cơ quan; các công trình nước sinh hoạt tập trung ở các xã, khu trung tâm huyện, nước sinh hoạt nhóm hộ được đầu tư xây dựng; 22/23 xã, thị trấn có điện lưới quốc gia (xã Thạch Sơn chưa có điện lưới quốc gia), 14/23 xã, thị trấn đã và đang đầu tư xây dựng trụ sở làm việc (Vĩnh Khương, An Lạc, Hữu Sản, Thị trấn An Châu, Cẩm Đàn,Phúc Thắng, Thạch Sơn, Tuấn Đạo, Yên Định, thị trấn Thanh Sơn, Tuấn Mậu, Long Sơn, Dương Hưu, An Lập ), tạo cho diện mạo nông thôn miền núi ngày thêm khởi sắc. 

Lĩnh vực văn hóa – xã hội luôn được quan tâm đầu tư phát triển. Hệ thống mạng lưới, quy mô và loại hình trường lớp tiếp tục được củng cố và phát triển, tỷ lệ phòng học kiên cố đạt trên 83%, cao hơn mức bình quân chung của tỉnh, Tỷ lệ trường học đạt chuẩn Quốc gia đạt 51,6%, chất lượng giáo dục toàn diện được nâng lên, số học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng tăng đều qua các năm, đã có học sinh thi đỗ thủ khoa Đại học (năm 2010), nhận học bổng toàn phần du học nước ngoài (năm 2012)…

Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân được tăng cường, Bệnh viện đa khoa Sơn Động với quy mô 120 giường bệnh đang được đầu tư mở rộng, nâng cấp, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế tại các tuyến được quan tâm đầu tư. Toàn huyện có 19/23 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế, 18/23 trạm y tế xã có bác sĩ, chất lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được nâng lên, đội ngũ cán bộ y tế được tăng cường cả về số lượng và chất lượng; tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên hàng năm bằng 1,2%.

Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” được các cấp, các ngành và nhân dân hưởng ứng tích cực, việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội đã được đưa vào quy ước, hương ước của bản, làng, thôn, khu phố và được nhân dân đồng tình hưởng ứng, một số Lễ hội văn hoá truyền thống mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc như Hội hát Soong Hao tại khu vực 6 xã Cẩm Đàn, Hội hát Then khu vực Vân Sơn, Hội bơi chải khu trung tâm huyện được khôi phục và duy trì hàng năm. Năm 2011, toàn huyện có 13.454/ 16.990 hộ = 79,1% được công nhận gia đình văn hóa (tăng 2,1% so với năm trước); 71/178 làng, bản, khu phố văn hoá, chiếm 40,%; có 159/172 cơ quan đạt danh hiệu văn hoá, đạt 92,44%, tăng 16 cơ quan so năm 2010, (có 7 làng và 16 cơ quan được công nhận văn hóa cấp tỉnh), có khoảng 14% dân số tham gia luyện tập thể dục thể thao thường xuyên.

Thực hiện tốt chính sách xã hội, giải quyết việc làm. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện về mọi mặt, số hộ khá và giầu tăng, hộ nghèo giảm còn 41,11%, huyện đã hoàn việc xóa nhà ở tạm cho các hộ nghèo theo chương trình 167 và 67 của Thủ tướng Chính phủ; tỷ lệ phủ sóng phát thanh đạt 95,4%, phủ sóng truyền hình đạt 90%. An ninh chính trị, TTATXH luôn ổn định và thường xuyên được giữ vững.

Lịch sử hình thành tên gọi và quá trình phát triển địa giới hành chính huyện Sơn Động:

Ngày 13/2/1909, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập huyện Sơn Động gồm ba tổng cắt ra từ huyện Lục Ngạn, gồm: Tổng Biển Động (được nhập thêm xã Phúc Thắng thuộc tổng An Châu, tỉnh Quảng Yên); Tổng Niêm Sơn (được sáp nhập thêm toàn bộ đất đai đồn điền Schnaider nằm ven bờ sông Lục Nam thuộc tổng Trù Hựu) và Tổng Hả Hộ, huyện lỵ đặt tại Biển Động.

Ngày 11/5/1917, Quyền Thống sứ Bắc Kỳ ra Nghị định bãi bỏ huyện Yên Bác (Quảng Yên). Đất đai huyện Yên Bác sáp nhập vào huyện Sơn Động.
Ngày 25/9/1919, huyện Sơn Động đổi thành châu Sơn Động.
Năm 1927, chính quyền thực dân Pháp tiến hành tổng điều tra dân số, châu Sơn Động khi đó có 8 tổng, 53 xã, 15.342 nhân khẩu.
Tổng Biển Động có 10 xã: Biển Động, Biển Động phố, Cẩm Đàn, Chiên Sơn, Giáo Liêm, Huân Vi, Phúc Thắng, Quế Sơn, Thảo Nhàn, Xa Lý, với 1.719 nhân khẩu.
Tổng Cấm Sơn có 6 xã: Cấm Sơn, Gia Lộc, Hộ Đáp, Linh Sơn, Ninh Phong, Văn Lung, với 3.156 nhân khẩu.
Tổng Đông Đoàn có 6 xã: An Lạc, Hữu Sản, Lâm Ca, Lệ Viễn, Thái Bình, Vĩnh Khương, với 1.713 nhân khẩu.
Tổng Hả Hộ có 7 xã: Gia Sơn, Hả Hộ, Hộ Đáp, Hữu Bằng, Kỳ Công, Phục Lạp, Xuân Trì, với 1.936 nhân khẩu.
Tổng Niêm Sơn có 11 xã: Đèo Gia, Hữu Tập, Mai Tô, Mỹ Động, Niêm Sơn, Phì Điền, Phú Nhuận, Sơn Lãng, Tam Đồng, Thích Xá, Vật Phú, với 2.030 nhân khẩu.

Tổng Tây Đoàn có 6 xã: An Bố, An Châu, An Châu phố, Nhân Định, Tiên Lý, Tuấn Đạo, với 2.505 nhân khẩu.
Tổng Tứ Trang có 3 xã: Bồng Am, Thanh Luận, Tuấn Mậu, với 594 nhân khẩu.
Tổng Vị Loại có 3 xã: Dương Hưu, Hạ Long, Thượng Long, với 1.689 nhân khẩu.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đơn vị hành chính cấp tổng bị bãi bỏ; 53 xã cũ hợp nhất lại thành 41 xã.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, để thuận tiện cho việc chỉ đạo, tháng 7/1947, Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu I quyết định cắt các xã phía đông huyện Sơn Động cùng 10 xã tả ngạn sông Lục Nam thuộc huyện Lục Ngạn sáp nhập với huyện Hải Chi (Hải Ninh) thành lập châu Lục Sơn Hải trực thuộc tỉnh Quảng Hồng. Tháng 12/1948, liên tỉnh Quảng Hồng chia thành tỉnh Quảng Yên và đặc khu Hòn Gai. Đầu năm 1949, châu Lục Sơn Hải giải thể, huyện Sơn Động và 10 xã huyện Lục Ngạn đưa về tỉnh Quảng Yên.

Ngày 17/2/1955, khu Hồng Quảng thành lập, huyện Sơn Động và 10 xã huyện Lục Ngạn trở lại tỉnh Bắc Giang.
Ngày 21/1/1957, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 24/TTg chia hai huyện Sơn Động, Lục Ngạn thành ba huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam.
Sau khi điều chỉnh địa giới huyện theo Nghị định 24/TTg của Thủ tướng Chính phủ, địa giới huyện và các xã huyện Sơn Động tiếp tục có sự điều chỉnh.
Ngày 21/8/1958, Bộ Nội vụ ra Nghị định số 254-NV chia xã Thanh Luận thành hai xã Thanh Luận, Thanh Sơn; xã Vĩnh Khương thành hai xã Vĩnh Khương và Phú Cường (nay là xã Vân Sơn).
Ngày 14/3/1963, Chính phủ ra Quyết định số 25-CP cắt xã Đèo Gia thuộc huyện Sơn Động sáp nhập vào huyện Lục Ngạn.
Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá II, Quốc hội đã ra Nghị quyết sáp nhập xã Hữu Sản thuộc huyện Đình Lập, tỉnh Hải Ninh vào huyện Sơn Động, tỉnh Hà Bắc.
Ngày 1/10/1964, sáp nhập xã Hữu Sản thuộc huyện Đình Lập (tỉnh Hải Ninh) vào huyện Sơn Động.
Ngày 30/1/1985, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 21-HĐBT giải thể xã Phúc Thắng để sáp nhập vào xã Quế Sơn và trường bắn TB1; giải thể xã Thạch Sơn để sáp nhập vào xã Vân Sơn và trường bắn TB1.
Ngày 11/12/1991, Chính phủ ra Quyết định số 642-CP thành lập thị trấn An Châu trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính hai xã An Châu và An Lập.
Ngày 19/10/1993, tái lập xã Phúc Thắng trên cơ sở 2 xóm đã cắt về xã Quế Sơn và phần diện tích còn lại do trường bắn TB1 bàn giao lại.
Ngày 19/10/1993, tái lập xã Thạch Sơn trên cơ sở 1 xóm đã cắt về xã Vân Sơn và phần diện tích do Trường bắn TB1 bàn giao lại.
Ngày 6/11/2008, Chính phủ ra Nghị định số 05/NĐ-CP thành lập thị trấn Thanh Sơn trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính hai xã Thanh Sơn và Thanh Luận và thành lập xã Tuấn Mậu.
Đến nay, huyện Sơn Động có 21 xã và 2 thị trấn: Thị trấn An Châu, Hữu Sản, An Lạc, Vân Sơn, Vĩnh Khương, Lệ Viễn, An Lập, An Châu, An Bá, Yên Định, Cẩm Đàn, Chiên Sơn, Giáo Liêm, Quế Sơn, Phúc Thắng, Thạch Sơn, Long Sơn, Dương Hưu, Thanh Luận, thị trấn Thanh Sơn, Tuấn Mậu, Bồng Am, Tuấn Đạo. 

Truyền thống chống giặc ngoại xâm 

Từ xa xưa, nhân dân các dân tộc Sơn Động đã có truyền thống đoàn kết đấu tranh với thiên nhiên, sát cánh bên nhau trong các cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông thế kỷ XIII, nhân dân các dân tộc Sơn Động đã cùng nhân dân lộ Bắc Giang tổ chức chặn đánh ở Xa Lý (Khả Lý), Nội Bàng, tiêu diệt một phần sinh lực địch, góp phần vào thắng lợi chung của quân, dân triều Trần.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh thế kỷ XV, tướng quân Vi Đức Lục được cử lên chốt giữ vùng Sơn Động hiểm yếu chặn đánh quân Minh. Ông dựng bản doanh tại An Châu, tổ chức xây dựng lực lượng, tích trữ lương thực, giữ yên một vùng, góp phần rất lớn vào thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn đánh đuổi quân xâm lược Minh ra khỏi bờ cõi. Để tưởng nhớ công lao của ông, nhân dân đã xây dựng đền thờ ông ở làng Chẽ (Bích Trĩ). Đền thờ ông nhân dân gọi là miếu Đức Vua Ông, hàng năm tổ chức lễ hội vào ngày 10 tháng tư âm lịch.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Thanh, tuy không trực tiếp tham gia chiến đấu, nhưng nhân dân các dân tộc Sơn Động đã đóng góp nhân lực, vật lực cùng nhân dân cả nước đánh bại cuộc xâm lược của triều đại phong kiến Mãn Thanh.

Từ khi có Đảng lãnh đạo, nhân dân các dân tộc Sơn Động một lòng theo Đảng, cùng nhân dân cả nước làm nên Cách mạng Tháng Tám, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, xây dựng Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. 

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngay từ những ngày đầu, nhân dân các dân tộc Sơn Động đã phải đương đầu với cuộc tiến công của thực dân Pháp. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân các dân tộc đã đoàn kết một lòng, đóng góp nhân lực, vật lực cho kháng chiến, góp phần vào chiến thắng trong các chiến dịch Biên giới (cuối năm 1950), đường 18 (năm 1951)… Cuối năm 1950, Sơn Động hoàn toàn được giải phóng. Từ đây, nhân dân các dân tộc Sơn Động vừa xây dựng cuộc sống mới, vừa chi viện cao nhất sức người, sức của cho kháng chiến, góp phần cùng cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, giải phóng hoàn toàn miền Bắc.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, nhân dân các dân tộc Sơn Động vừa hăng hái xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa anh dũng chiến đấu chống cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, chi viện cao nhất sức người, sức của cho cách mạng miền Nam với tinh thần Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người. Hợp tác xã Thượng (Cẩm Đàn) là hợp tác xã miền núi đầu tiên đạt 5 tấn thóc/ha; Tiểu đội dân quân xã Dương Hưu với bảy viên đạn súng trường hạ một máy bay phản lực A4E của đế quốc Mỹ, là đơn vị đầu tiên của tỉnh bắn rơi máy bay phản lực địch bằng súng bộ binh, được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân… 

Từ năm 1945 đến năm 2005, Sơn Động có 5996 người nhập ngũ, có 720 người hy sinh. Huyện Sơn Động và 2 xã Dương Hưu, Tuấn Đạo được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước; toàn huyện có 7 bà mẹ được phong tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng. 

Dân cư và bản sắc văn hóa 

Năm 1975, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ở thôn Khe Táu (xã Yên Định) 11 di vật bằng đá cuội quartriote. Đây là những công cụ chặt, đập được chế tác bằng đá cuội gồm công cụ có biên lưỡi theo chiều ngang, theo hình cánh cung, công cụ lưỡi vát hình chữ V. Ở thị trấn An Châu cũng thu được bốn công cụ bằng đá quartriote và đá cuội sa thạch dạng tam giác có rìa cạnh, rìa lưỡi, lưỡi và lưỡi vát. Những công cụ này thuộc thời đá cũ, cách ngày nay hàng vạn năm. Ở Mai Sưu, Vô Tranh (trước đây thuộc Sơn Động, ngày nay thuộc Lục Nam) các nhà khảo cổ học đã tìm thấy rìa đá thuộc thời đá mới, cách ngày nay từ năm nghìn năm đến một vạn năm. Những phát hiện của khảo cổ học trên chứng minh con người đã có mặt ở Sơn Động từ khá sớm.

Các di chỉ, di vật khảo cổ học cùng những huyền tích, thần phả còn lưu lại đã làm sống lại chuỗi dãy lịch sử liên tục về sự di trú của cư dân đất Sơn Động. Trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc, đến thời đất nước độc lập, tự chủ, nhiều luồng cư dân với những nguyên nhân, biến cố và nguồn gốc khác nhau vẫn tiếp tục tìm đến Sơn Động, tạo ra sự quần cư ngày càng có xu thế đông đúc trên vùng đất còn nhiều hoang hoá.

Trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, dân cư Sơn Động còn rất thưa thớt. Nguyên nhân của tình trạng này một phần do điều kiện sinh sống khó khăn, mặt khác ở vùng đất này là nơi hoạt động của nhiều toán thổ phỉ từ Trung Quốc tràn sang, chúng đốt phá, chém giết làm cho nhân dân phải phiêu bạt đi nơi khác. Đến thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế – văn hoá miền núi, nhiều gia đình từ các tỉnh miền xuôi đã lên khai hoang, lập nghiệp ở Sơn Động, làm cho dân số của huyện tăng nhanh. Năm 1960, dân số của huyện có 18.045 người, năm 1965 có 21.431 người, năm 1970 có 30.350 người, năm 1980 có 40.221 người, năm 1989 có 53.000 người, năm 1999 có 66.709 người và đến nay là trên 7,2 vạn người.

Tình hình trên đây nói lên đặc điểm dân cư Sơn Động là sự hoà quyện, hoà nhập giữa dân bản địa sống lâu đời ở địa phương với cư dân các địa phương khác chuyển đến xây dựng quê hương mới qua các thời kỳ lịch sử từ thời phong kiến, thời thực dân Pháp thống trị đến thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay.

Tính đến 1/4/2009, dân số huyện Sơn Động có 68.724 người, gồm 18 dân tộc anh em, trong đó dân tộc Kinh 35.892 người (52,2%), còn lại là các dân tộc thiểu số 32.832 người (47,8%); gồm dân tộc Tày 13.433 người (19,5%), dân tộc Cao Lan và Sán Chí 8.888 người (12,9%), dân tộc Nùng 5,534 người (8%), dân tộc Dao 3.695 người (5,4%), dân tộc Hoa 984 người (1,4%), dân tộc Sán Dìu 166 người (0,26%). Còn 11 dân tộc khác có số dân từ 1 đến 39 người: Hmông, Thái, Mường, Khơ me, Giáy, Ê đê, Thổ, Khơ mú, Hà nhì, Lào, Mảng.

Mật độ dân số trung bình của huyện là 81 người/km2. Dân số phân bố không đều, thị trấn An Châu và các xã An Lập, Chiên Sơn, Quế Sơn có mật độ dân số cao, các xã Thạch Sơn, An Lạc dân cư thưa thớt. Các làng của người Kinh, người Tày, người Nùng thường tập trung đông hơn và phân bố dọc theo các trục đường giao thông, ven các chợ, các trung tâm xã… Các thôn bản của người Dao, Sán Chí thường thưa thớt và nằm rải rác trong các vùng sâu, vùng xa của huyện.

Các dân tộc sống đan xen, trung bình mỗi xã có từ 6-7 dân tộc sinh sống, hai xã có tới 10 dân tộc sinh sống. Thị trấn An Châu, xã Long Sơn, xã Thanh Luận trên 90% là người Kinh; xã Hữu Sản trên 90% là người Tày; xã Chiên Sơn trên 50% là người Nùng…

Do những đặc điểm về vị trí, địa hình và do những biến cố lịch sử, Sơn Động trở thành một trong những nơi tụ hội của nhiều luồng dân cư đến sinh sống, lập nghiệp. Nhưng dù đến Sơn Động trong hoàn cảnh nào, họ đều sớm hoà nhập vào một cộng đồng, cùng nhau chung lưng đấu cật xây dựng làng bản, tương trợ, giúp đỡ nhau trong sản xuất và trong cuộc sống. Giữa các dân tộc có bản sắc riêng nhưng có nhiều phong tục, tập quán chung. Cuộc sống tinh thần của người Sơn Động vô cùng phong phú và đa dạng, biểu hiện qua các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng tôn giáo của mỗi dân tộc.

Kho tàng văn hoá, văn nghệ của các dân tộc Sơn Động mang đậm sắc thái dân tộc như: đàn tính và hát then của dân tộc Tày ở các xã khu vực Vân Sơn; hát, múa soong hao của dân tộc Nùng ở các xã khu vực Cẩm Đàn; kèn gọi bạn của người Dao ở Hữu Sản… Quán triệt Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, được sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các tổ chức xã hội, những đặc trưng văn hoá của mỗi dân tộc đang được bảo tồn, giữ gìn phục vụ cho sinh hoạt tinh thần của nhân dân và phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội./.

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây