Nguyễn Minh Châu và quan niệm về nhà văn

Nguyễn Minh Châu và quan niệm về nhà văn - Văn Học- vansudia.net

Nguyễn Minh Châu và quan niệm về nhà văn

Tác giả Vương Trí Nhàn

Năm 1968, khi tôi được chuyển về công tác ở tạp chí Văn nghệ quân đội thì bộ phận nghiên cứu phê bình ở đây còn rất yếu ớt, trước tôi chỉ có nhà phê bình Nhị Ca, dù có cố gắng đến đâu thì hai chúng tôi không thể lo hết việc. Bởi vậy ở toà soạn mới đặt ra cái lệ là chính các nhà văn chuyên sáng tác cũng phải tham gia viết cho mục này, đọc sách, phê bình, trình bày kinh nghiệm sáng tác và suy nghĩ về nghề nghiệp thế nào cũng được miễn sao một năm có đủ hai bài.

Phải nói thật gọi là quy định thế thôi chứ bọn tôi cũng biết là nhiều anh em trong cơ quan không thích thú gì với việc này. Hoặc các anh khất lần không viết hoặc có viết cũng chỉ hươu vượn cho qua.

Riêng có hai người hào hứng viết, chỉ cần bọn tôi ới một tiếng là có bài đúng hẹn, chẳng những thế theo tôi là còn viết với nhiều ý đồ rõ rệt, đó là Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu.

Không phải chỉ bằng bản năng

Xin tạm gọi những bài sổ tay viết văn, hoặc đọc sách phê bình của Nguyễn Minh Châu là một thứ tuỳ bút nghề nghiệp. Những bài viết này được viết theo kiểu những chiêm nghiệm của một nghệ sĩ đang trên đường tìm tòi. Tuy ở đó có những điều có phần sơ đẳng hoặc gần như ai cũng biết, song người ta vẫn thích được đọc nó, bởi một lẽ đơn giản tác giả đã sống với nó một cách chân thành, đã mang vào đây tất cả tâm huyết của một người cầm bút nó là những băn khoăn trăn trở thường trực của ông, và ông có nhu cầu phải viết nó ra để, trước khi chia sẻ với bạn đọc thì tự ông được đối diện với nó, cùng sống với nó mà làm văn chương.

Thơ Phạm Tiến Duật là hiện tượng được cả xã hội chú ý hồi chống Mỹ và nhiều nhà văn nhà thơ thường đã nêu ra nhiều vấn đề của sự sáng tác nhân đọc những bài thơ như Lửa đèn, Gửi em cô thanh niên xung phong…

Nguyễn Minh Châu cũng có bài viết Người viết trẻ và cánh rừng già. Mở đầu ông để một đoạn dài tả khá kỹ cái nơi Duật thường tá túc những khi từ chiến trường về Hà Nội, nào là để vào được căn phòng ấy ông đã phải “dắt chiếc xe đạp lách qua hàng dãy xe xích lô dãy hàng vỉa hè những dãy gà trống gà mái bày la liệt của những người đàn bà và những anh bộ đội phục viên mang từ thôn quê lên bán”, nào là “lối đi lên gác phải đi qua nhà dưới, một cái bậc thềm đổ xuống vỉa hè treo những sợi dây rút, bấc đèn dầu hoả và trên cánh cửa có cái biển đề ở đây lộn cổ áo sơ mi”.

Tác giả Dấu chân người lính tỏ ra đặc biệt thú vị khi nhận ra rằng Duật đã ngồi đấy để viết những câu thơ về chiến trường. Và ông khái quát:

– Không biết có thể gọi là một kinh nghiệm nhỏ được không, tôi nghiệm thấy rằng trong những năm qua tôi không thể viết nổi cái gì nếu không ra thoát khỏi cái thực tế mà tôi đã lấy tài liệu. Từ cái môi trường mới, ta có thể nhìn thấy mọi người mọi vật ở nơi cũ một cách bao quát hơn… Nếu xuống biển hay về thành phố chúng ta sẽ nghĩ về rừng sáng tỏ và khái quát hơn, tất nhiên trước đó phải có những ngày sống ở rừng sống lâu dài và hết mình.

Ở đây Nguyễn Minh Châu đã động đến một vấn đề mà lý luận văn học trong thế kỷ XX mới đề cập tới, đó là sự lạ hoá trong nhận thức và khám phá đời sống. Nhưng chỗ xuất phát của ông lại chính là hoàn cảnh sáng tác của ông, những điều ông phải đối phó hàng ngày, nó là cái cuộc sống long đong lật đật không sao lảng tránh nổi.

“Cách tốt nhất để tiêu hoá những khó khăn trong cuộc đời riêng là phải đưa được nó vào trang viết” – tôi nhớ có lần ông đã nói với tôi như vậy và sự thực là càng về sau ông càng tỏ ra hào hứng vì đã mang được cuộc đời quanh mình vào tác phẩm.

Sự đời có những chuyện rất lạ mà nếu nó không xảy ra thì chẳng ai dám hình dung là có. Chẳng hạn vào khoảng 1979-1980, nổi lên một cuộc tranh luận chung quanh bài viết của Hoàng Ngọc Hiến nhan đề Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật nước ta trong giai đoạn vừa qua, mà nội dung chủ yếu là phê phán cái gọi là chủ nghĩa hiện thực phải đạo do Hoàng Ngọc Hiến khái quát. Song có một điều nhiều người không để ý ấy là luận điểm này của Hoàng Ngọc Hiến được gợi ý từ một ý tưởng của Nguyễn Minh Châu.

Trong khi suy nghĩ chung quanh việc viết về chiến tranh, ông lờ mờ cảm thấy “Hình như trong ý niệm sâu xa của người Việt Nam chúng ta, hiện thực của văn học có khi không phải là cái hiện thực đang tồn tại mà là cái hiện thực mọi người đang hy vọng đang mơ ước”, bởi vậy các nhân vật trong các tác phẩm viết viết về chiến tranh “thường khi có khuynh hướng được mô tả một chiều thường là quá tốt, chưa thực”.

Ý Nguyễn Minh Châu muốn có một sự thay đổi và nói sao viết vậy, ông đã thực hành trong sự sáng tác của mình. Thử đọc lại những trang Cỏ lau của ông, người ta sẽ thấy ở đó có nhiều nhận xét về chiến tranh được phát biểu từ gan ruột của người trong cuộc, thực tế ở đó là cái đang tồn tại chứ không phải là cái người ta mơ ước.

Hoá ra, Nguyễn Minh Châu không chỉ là một nhà văn viết theo bản năng, một người rất có năng khiếu như mọi người thường nhận xét. Mà đấy còn là một nhà văn có nhiều suy nghĩ trước khi đặt bút viết và không thôi suy nghĩ khi nhìn vào sáng tác của các đồng nghiệp đồng đội khác.

Đôi khi cái thiện ý đưa mọi chuyện lên một tầm ý thức cần thiết có làm cho truyện của ông mang tính chất luận đề gò bó. Song sự nỗ lực của ông thì không ai có thể phủ nhận.

Sống giữa giới cầm bút

Khi một cây bút còn đang trong cảnh hàn vi, với anh ta chỉ có mỗi một việc duy nhất là viết, tác phẩm làm nên nhà văn, người ta có thể đọc văn anh mà không biết anh là ai. Còn sau khi đã cho in ra những tác phẩm được xã hội thừa nhận thì những việc phải giải quyết bề bộn hơn nhiều. Không những phải lo viết tiếp mà còn phải lo sống sao như một nhà văn – cái đó mới khó.

Thời đại này không chấp nhận loại nhà văn ở ẩn, nhà văn sống riêng ra theo cái cách sống riêng của mình. Nói ra thì nghe có vẻ to tát nhưng sự thực là có cả mối quan hệ trực tiếp của anh với xã hội và nó phải được giải quyết đúng với tầm vóc nhà văn đang có. Ngoài ra, mối quan hệ với những người cùng nghề là một mắt xích quan trọng trong công việc mà anh phải liệu, trước tiên là trong khuôn khổ cái hội nghề nghiệp mà anh là một bộ phận.

Từ sau Dấu chân người lính, vấn đề này bắt đầu đặt ra với Nguyễn Minh Châu và ông đã chứng tỏ bản lĩnh của mình trong việc theo đuổi một quan niệm về nhà văn vốn đã âm thầm tự hình thành nơi ông từ thuở mới cầm bút. Nếu như hồi đầu chống Mỹ, ông chỉ được coi như một người viết chăm chỉ và có năng khiếu thì vào những năm chiến tranh đi dần đến kết thúc, ông đã trở thành một trong những nhà văn nổi tiếng nhất của đời sống văn học Hà Nội.

Sau hơn hai chục năm đứt đoạn mãi tới 1983, Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ ba mới được triệu tập và tại đại hội này, Nguyễn Minh Châu mới được bầu vào Ban chấp hành. Nhưng từ khoảng 1974-1975 trở đi, ông đã thường được mời tham dự nhiều cuộc họp mở rộng của Ban chấp hành khoá hai, và được tham gia bàn bạc nhiều việc có ý nghĩa quyết định với đời sống văn chương ngay khi mọi người có trách nhiệm còn đang cùng nhau dò dẫm tính toán.

Ông có mặt trong ban giám khảo các cuộc thi. Rồi ông nhận hướng dẫn cho một vài bạn trẻ nào đó trong một trại viết do Hội nhà văn Việt Nam hoặc phòng Văn nghệ quân đội tổ chức.

Nếu hiểu danh và lợi theo nghĩa thông thường thì có vẻ như Nguyễn Minh Châu sớm tính chuyện tránh những cái đó. Thực thà là ông không có ham hố nào khác ngoài ham hố viết. Song có một cái vai mà hình như ông không ngại hơn nữa còn tự nguyện đảm nhận, đó là cái vai một nhà văn lý tưởng, một nhà văn nói lên tiếng nói của những người lương thiện, nhà văn như là tiêu điểm của cả nhân dân, đất nước.

Trở thành lương tri của xã hội – cái điều nhiều cây bút thời nay trong thâm tâm cũng thấy đúng, nhưng lại cho là xa vời cao siêu quá – chính là điều Nguyễn Minh Châu cảm thấy một cách máu thịt và muốn lấy cả đời văn của mình ra để thực hiện.

Những ngày cuối cùng của ông ít nhiều gợi lại không khí của một bi kịch hào hùng khi mà cái chết ập đến song cái chết đó chẳng có ý nghĩa gì với những tư tưởng đang bừng sáng trong lòng người. Từ Nguyễn Khải, Thái Bá Lợi tới Nguyễn Kiên, Nguyễn Trung Thu… người nào có dịp gặp Nguyễn Minh Châu trước khi chết đều ghi nhớ những lời căn dặn của ông về những việc phải làm cho cả nền văn học cũng như cho xã hội.

Nguyễn Đăng Mạnh từng ghi lại mấy câu tâm huyết ông nói trên giường bệnh: “Tư tưởng bảo thủ từ đất đùn lên, nó chủ yếu là nội sinh chứ không phải là ngoại nhập. Nó chi phối cả chính trị, triết học, khoa học văn hoá văn nghệ… Nghĩa là lắt nhắt, thiển cận, không nhìn xa, nước đến đâu thuyền dâng đến đấy.

Nông dân rất tình nghĩa nhưng cũng có lúc rất tàn bạo đấy. Nông dân rất thích vua, thích trời và thích cát cứ. To làm vua nhiều nước, cả thế giới. Bé, làm vua một tỉnh, một huyện, một xã, một phường, một nhà (…).

Nhà văn muốn có tầm cỡ thời đại thì lại phải ngụp sâu vào dân tộc mình, nhân dân mình. Nhưng phải rất tỉnh không được sướt mướt. Tôi ghét cái lối tình cảm làng xóm không biết gì đến thiên hạ, chỉ tâng bốc lẫn nhau, con hát mẹ khen hay. Marquez rất thời đại, rất lớn mà Colombia rất nhỏ…”

Có thể xem đây là một dịp cho thấy cái tầm vóc nhà văn mà theo Nguyễn Minh Châu, mỗi người cầm bút phải vươn tới và bằng cuộc đời của mình ông đã vươn tới.

Cũng nên nói thêm là thời gian Nguyễn Minh Châu gặt hái được nhiều kinh nghiệm trong sáng tác cũng là những năm mối quan hệ văn học Việt Nam – Liên Xô được mở rộng. Nguyễn Tuân và Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khải… những nhà văn hàng đầu của Việt Nam có tác phẩm dịch ra tiếng Nga và sau đó thông qua tiếng Nga được dịch in ở Hungary, Ba Lan, Bungari…

Nhiều người cầm bút ở Việt Nam chỉ đơn giản tự hào rằng như thế tức là văn học Việt Nam có được đường ra với thế giới. Song cũng có một số người trong đó có Nguyễn Minh Châu muốn đẩy ý nghĩ đi xa hơn: Luôn luôn ông băn khoăn tự hỏi sách của mình dịch ra có ai đọc, liệu những trang sách ấy có giúp bạn đọc ở những phương trời xa xôi kia sống tốt hơn và có ý nghĩa hơn. Ông thừa hiểu rằng một số dịch phẩm ra đời chỉ để làm chứng cho tình hữu nghị, và ông không muốn cái đặc ân đó rơi vào đầu mình.

Có những lần đi công tác nước ngoài trở về, ông tỏ ý không vui, vì hình như các nhà văn bên nước bạn người ta chỉ đón mình như một nhà văn Việt Nam nói chung mà không ai biết mình đã viết những gì. Bởi vậy khi nhà văn Xuân Sách tỏ ý khen Khách ở quê ra, xem như một “truyện cỡ thế giới” thì Nguyễn Minh Châu còn cố gặng hỏi lại “Có thật ông Sách khen tôi như vậy không?”.

Có thể dự đoán trong khi viết nên thiên truyện này tác giả của nó cũng đã thoáng cảm thấy không chừng lần này mình đạt tới cái đích cao vời mà mình hằng ao ước và khi nghe điều đó toát lên từ miệng một người đọc sành sỏi như Xuân Sách thì ông vui sướng vô hạn.

Năm 1978, sau khi cùng Nguyễn Minh Châu đi thăm Liên Xô trở về, nhà thơ Xuân Quỳnh chỉ kể với tôi một chi tiết nhỏ. Là cái ông Châu này buồn cười lắm, chả biết lạ là gì cả, gặp ông Tây bà đầm nào cũng trò chuyện tự nhiên y như là cánh đồng nghiệp mình ở nhà vẫn đùa với nhau mà tự nhiên thế đâm ra Tây họ lại thích”.

Tôi hiểu rằng như vậy là với Nguyễn Minh Châu, cái điều gọi là “gia nhập vào đời sống văn học thế giới” (lời ông nói với Nguyễn Kiên) hoặc “hoà đồng cùng nhân loại” (tên một bài viết cuối cùng của ông) không phải chỉ là lời kêu gọi chung chung mà là những điều tự ông cảm nhận một cách sâu sắc, ông sống như ông đã nghĩ.

V.T.N
     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây