Trong 12 tác phẩm thơ của Đông Trình đã xuất bản, có 03 tập thơ thiếu nhi: Những chiếc xe màu lửa – NXB Đà Nẵng, 1992 (50 bài); Nếm mật – NXB Đà Nẵng, 1995 (33 bài); Giữa thực và mơ – Tuyển tập thơ thiếu nhi, NXB Đà Nẵng – 2009 (110 bài). Trong tuyển tập này, có 82/83 bài đã in ở 02 tập trước, bổ sung vào 28 bài. Như vậy, trước sau có 110 bài thơ được tác giả xếp vào “thơ thiếu nhi”, phần lớn được sáng tác từ sau năm 1975, có 05 bài viết từ những năm 1969-1973. Với một tác giả không chuyên viết về thiếu nhi, số lượng thơ như vậy là khá nhiều…
Khái niệm văn học thiếu nhi, thơ thiếu nhi nói riêng, chưa có một kiến giải tường minh. Giới nghiên cứu cũng chỉ xem xét trên các đặc điểm nhận diện cơ bản về các yếu tố: người đọc (thiếu nhi – đối tượng tiếp nhận), nội dung (đề tài, cuộc sống được mô tả, phản ánh) và hệ thống nghệ thuật (tư tưởng, thủ pháp,… nhất là điểm nhìn trần thuật).
Các phân định vừa nêu trên có tính tương đối và không thuyết phục, ví dụ, trẻ con muốn đọc thơ Nguyễn Bính và người lớn vẫn thích thú với Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài; Doraemon của Fujiko F. Fujio, Harry Portter của J.K. Rowling được mọi lứa tuổi trên khắp thế giới say mê… Jan Susina – GS. văn học thiếu nhi và văn hóa của Đại học Illinois State, cho rằng: “Văn học thiếu nhi bao gồm những văn bản được viết riêng cho trẻ em, những văn bản được trẻ em lựa chọn, ranh giới giữa văn học trẻ em và văn học người lớn rất mong manh.”.
Từ đó, có thể sơ bộ thấy rằng, thơ thiếu nhi thường xuất hiện nhân vật trữ tình và đối tượng trữ tình là trẻ con; hình tượng và chi tiết nghệ thuật được nhìn bằng tư duy và xúc cảm của trẻ thơ, dù là do trẻ thơ viết hay người lớn sáng tác, dù là thơ viết về trẻ thơ hay viết cho trẻ thơ.
So sánh những đặc điểm về thơ thiếu nhi vừa nói với nhận xét khi đọc tuyển thơ thiếu nhi của Đông Trình, ta thấy Nguyễn Khắc Viện đã nhận xét khá tinh tế: “Chỉ có trong giấc mơ, chim mới biết nói, hoa mới biết cười, và con người có thể bay lên với mây với gió. Người thường không ai ngây dại đến mức lấy mơ làm thực. Thế mà trẻ em và nghệ sĩ cùng một tính ngây thơ rất dễ biến thực thành mơ để thấu cho hết lý tình của cái thực. Đọc thơ Đông Trình nhiều lúc bắt gặp những chuyện mơ mơ thực thực như vậy.” (1)
Thơ thiếu nhi của Đông Trình là những sáng tác cho “trẻ em và nghệ sĩ”. Đó không phải là thơ của thiếu nhi viết (như Trần Đăng Khoa với Góc sân và Khoảng trời, Khánh Chi với Gửi gió về cho nội,…) mà là thơ của người lớn, người già, người đã đi qua đổi thay thời cuộc, lúc còn trai trẻ với Câu thơ lửa cháy, lời thề máu sôi (Đường con), đến khi nhận ra Còn đây cay đắng mình tôi khẩu phần (Khúc hát người ngậm ngãi), và một ngày Để anh thương xót câu thơ thật lòng (Bụi),…
Thế giới thơ thiếu nhi của Đông Trình, như nhiều nhà thơ cùng thời, được sáng tạo trước hết thông qua cái nhìn, kiểu tư duy hồn nhiên, ngộ nghĩnh trên cơ sở quan sát sự vật rồi tìm ra nét tương đồng – tương phản để bất ngờ phát hiện điều thú vị.
Hình ảnh Hoa trong Hoa và cỏ (Những chiếc xe màu lửa) là quan sát theo tầng bậc: Hoa vào tranh họa sĩ/ Hoa trong thơ nhà thơ/ Hoa chưng trên bàn thờ/ Hoa vẽ nền vải áo/ Gạo nở trong bát cháo/ Cháo thành tên cháo hoa/ Chiếc nơ trên gói quà/ Tạo hình bông hoa nở…
Đến bài Sợi tóc (Những chiếc xe màu lửa) có điều suy ngẫm: Sợi tóc rơi xuống đất/ Năm tháng không đổi màu/ Sợi tóc mọc trên đầu/ Qua thời gian điểm bạc/ Bùi ngùi nhìn sợi tóc/ Bé cảm thương Ông Bà/ Những lo toan khó nhọc/ Tóc trên đầu trắng ra…
Chủ thể và đối tượng trữ tình trong thơ thiếu nhi của Đông Trình không đơn nhất, không “đóng vai” mà chuyển hóa, khi thì đối thoại lúc lại độc thoại; điều đó giúp cho việc vừa miêu tả nhẹ nhàng vừa có ý nghĩa khái quát. Bài thơ Nét riêng (Những chiếc xe màu lửa) là một ví dụ:
Buổi chiều nghe con bò kêu ngoài đồng (Giữa thực và mơ, tháng 02/1981, tập thơ thứ hai của tác giả) cho thấy một kiểu cấu tứ vốn là thế mạnh của thơ Đông Trình. Nghe tiếng bò kêu nếu có giàu tưởng tượng lắm cũng là nhắc chuyện quê, chuyện xưa, làm giật mình thương nhớ, như mấy khổ thơ có dòng mở đầu: Con bò mày nhắc chuyện gì?…/ Con bò mày nhắc chuyện xưa…/ Con bò mày nhắc phải không? v.v… Rồi thương nhớ đồng quê hiển hiện: Trái sim chín mọng, chiều vàng rực lúa, Tiếng đàn cá nhỏ quẫy trong ruộng bùn,… Và thương cảm cả không gian mơ màng: Người về nhặt nắng hoàng hôn, Tai nghe tiếng đập trái tim rộn ràng,… Thế thôi đã đủ chùng lòng con trẻ, gây xáo trộn trái tim người lớn. Nhưng tác giả không dừng ở kể lể mà muốn nói một điều gì sâu hơn cho tâm hồn thơ trẻ và ngôn ngữ thơ ca:
Thi ảnh độc đáo ở dòng kết không phải để cho khác thường mà nhằm biểu lộ liên tưởng trong tâm tưởng từ tiếng Con bò kêu giữa một buổi chiều kỳ lạ.
Ở hai bài thơ Trong tình đầy thanh tâm (10/1969) và Tâm sự với con đầu lòng (1971) – chọn in lại trong tập Giữa thực và mơ – người đọc gặp một Đông Trình ngày trai trẻ đã chọn yêu thương làm bệ phóng, muốn gấp giọng buồn vào ngăn kéo, Xếp đau thương để Nghe quê hương thành máu chảy trong người... Đem về câu thơ ngày đó cho hôm nay là réo gọi thanh xuân chứng giám kẻ lỡ có vong thân cũng không bao giờ quên thề ước: Vạch lối sương mù, nhìn trời bể rộng/ Và sẵn sàng cho một chuyến ra khơi…
Bên cạnh một Đông Trình viết cho thiếu nhi với tấm chân tình sâu lắng còn có một Đông Trình hóa thân vào thiếu nhi để nhìn ngược vào thế giới con người ở những thời khắc đổi thay, thậm chí đảo lộn không kém phần khốc liệt.
Bắt đầu là nỗi buồn. Đây là nỗi buồn của Bà được đứa cháu cảm thấy và nhà thơ nghe thấy:
Dòng cuối nói lên tất cả! Nhưng tôi thấy bài thơ có chút kịch tính: Tại sao Ông lại phấn khởi và đối nghịch cảm xúc với người bạn trăm năm của mình như vậy? Một bì kịch gia đình và xã hội đang nhen nhóm tinh vi giữa cái máy bơm xa lạ và tiếng gàu rơi thân thuộc đó chăng? Sự đối chọi hình ảnh và ngôn ngữ khiến bức tranh “tả thực” 28 chữ chen ngang một vệt màu ngỡ ngàng rạn vỡ!…
Và không chỉ biết Bà buồn…, đứa bé đang lớn ấy tiếp tục phát hiện có cái gì dang dở đang Nhấp nhô trong nắng Xuân (Nếm mật):
Chữ nghĩa tối giản, dòng thơ 5 chữ đều đặn như nếp gấp chiếc khăn đóng cũ, thầm thĩ về một “nhân vật” đang lạc loài giữa nón mũ người ta. Đâu chỉ riêng Ông, cả bàn thờ Tổ tiên/ Lung linh màu hương khói… phút chốc cũng hóa thành bơ vơ!
Không dừng ở đó, Đông Trình cầm tay bọn trẻ vốn chỉ quen với thế giới thần tiên bước sang một trạng thái “kinh khủng” nhất của con người. Mà Ông lại dắt dẫn tự nhiên, vẫn theo logic tâm lý trẻ con qua bài Đom đóm cô đơn (Những chiếc xe màu lửa):
Một con đom đóm cô đơn, con đom đóm độc thân, con đom đóm lạc bay,… ngoài hàng hiên, dưới bóng đèn, nơi phố chật người đông,… Thử hỏi không gọi là lạc loài lạc lối, là sắp chấm dứt một môi trường tồn tại, là đích thực cô đơn thì gọi là cái gì?! Chủ thể bài thơ, may mắn thay, đã nhận ra, đã nhắc nhở: Quê mày là rặng tre xanh đầu làng. Đó là hoài niệm, mà hoài niệm cũng có hiệu ứng phục hồi và có khả năng chống lại sự cô đơn. Nỗi cô đơn ấy đâu phải từ con đom đóm mà căn nguyên từ sự cô đơn trong đời sống vốn đã đóng một vai trò tối quan trọng trong quá trình sáng tạo thi ca.
Ngoài hiên đom đóm lẻ loi trong giăng mắc điện đèn thì trong nhà cũng có một người ngồi im như pho tượng khi chiếc Ti-vi xuất hiện:
Đứa bé đêm ấy đã bỏ xem Ti-vi và được nhà thơ kéo đến bên bà để cả ba người sẻ chia, an ủi. Làm cho người đọc lớn nhỏ đều rưng rưng trong cái đẹp sắp tan biến cũng là hướng tiếp cận của một nhà thơ thiếu nhi tài năng.
Lạc loài như vừa nói trên dẫu sao cũng còn thấy nhập nhòe bóng dáng, còn mang tên đom đóm; và tuy thừa thãi nhưng Bà vẫn còn nguyên đó một nhân dạng. Đến cái Dao cau thì mới là câu chuyện tiếc thương:
Dao cau đã thành dao thái rau, bị dao Thái (Lan) thay thế mất rồi! Thời công nghệ khiến sự vật mau chóng cũ đi, biến hình, mất dạng,… âu cũng là lẽ sinh diệt vô thường. Tình thế của dao cau bấy giờ đâu phải thời kỳ cái rựa mà đem dùng mãi cả ngàn năm! Vĩnh viễn hóa cái tan biến chính là sứ mệnh của nghệ thuật, nó có khả năng níu giữ vĩnh hằng. Bảo tàng thơ ca bảo tồn được mọi thứ, không bằng hiện vật mà bằng năng lực sử dụng chất liệu ngôn ngữ đặc trưng của người cầm bút.
Trong các tập thơ thiếu nhi của Đông Trình, tôi phát hiện ra 03 bài khá đặc biệt. Vẫn là thơ viết về thiếu nhi nhưng gửi thông – điệp – của – một – nhà văn! Thông điệp gì mà mượn trẻ để giãi bày?
Đứa bé nhìn thấy, đúng hơn là phát hiện, hành động của bố lặp lại mỗi ngày một lần đều đặn và đều đặn mỗi ngày chất lên tâm trạng một nỗi buồn xâm lấn:
Hóa ra là nỗi đợi mong, là cuộc đuổi bắt, là khắc khoải thời cuộc, mang mang niềm hoài vọng chưa kịp đặt tên! Nói với trẻ con điều khó đến vậy mà Ông vẫn làm được. Ông đã dấn thêm một bước để nói về triết lý căn cốt của nghệ sĩ:
Vẫn giữ kiểu diễn đạt ngạc nhiên, hỏi han ngây ngô và muốn được trả lời rõ ràng của con trẻ, Ông gửi vào trang giấy cuộc kiếm tìm không đích cuối khi bước trên “con đường đau khổ” của sáng tạo thi ca. Tôi không tin câu thơ tài năng được viết ra dễ dàng bởi những tài năng. Như một tình yêu vĩnh quyết, thơ luôn đi liền, hay ít nhất cũng liên đới với máu và nước mắt!… Vì thế, bất cứ một nhà thơ lớn nào cũng đều có tuyên ngôn, cách này hay cách khác, dù khi viết về thiếu nhi hay người già, cả lúc gần như hóa thân thành con trẻ. Trong Giữa thực và mơ, cuối cùng, Đông Trình không vĩnh viễn hóa thi ca, không đặt thơ lên ngôi vị của đấng tạo hóa. Ông nỗ lực sáng tạo để thơ ca tôn vinh theo cách âm thầm mà cao cả: Đó là âm-điệu-tâm-hồn con người mà gần như suốt đời Ông chung thủy và mãi mãi đi tìm. Đi tìm luôn đồng nghĩa với với tồn tại:
Đông Trình tiếp cận đề tài thiếu nhi theo một cách khác theo kiểu “trần thuật” và “trần tình”. Ông làm thơ theo “đơn hàng” mà tác giả tự kê ra trong từng giai đoạn, trong mỗi tập thơ và mang đến như một món nợ đời phải trả cho rốt ráo không thể để muộn màng hơn. Vậy nên, khi nào đó thuận tiện, hãy nói thật với độc giả trẻ thơ rằng, thơ này không dành riêng cho các con đâu…
Thơ thiếu nhi của Đông Trình là một sự nhất quán và khác biệt – nhất quán với tư tưởng và phong cách thơ Đông Trình hơn nửa thế kỷ qua; khác biệt giữa thơ thiếu nhi của Ông với người viết cùng thời. Người đọc tìm thấy trong thơ thiếu nhi của Ông những điều không dễ nói với một “thể loại” gần như được mặc định; đó là những điều sâu kín của đời thơ được chuyển tải nhẹ tênh vào từng trang mà không thấy sự gán ghép, đóng vai, làm dáng,… Trong sắp đặt ý tứ, từng đoạn, từng câu, từng hình ảnh, người đọc nhìn Đông Trình cũng có nét giống với Võ Quảng ở sự bình dị, gần gũi cuộc sống thường ngày; thấy gần với Phạm Hổ ở lòng yêu trẻ, ái mộ tạo vật; có sự gặp gỡ với Quang Huy ở phát hiện tinh tế trong miêu tả thiên nhiên; và có chút giống Xuân Quỳnh ở tình cảm gia đình nồng ấm và ít nhiều trở trăn,… Nhưng nét riêng và điểm mạnh của Đông Trình chính là chất suy tư chớm lên từ tâm hồn con trẻ, nghĩa là tâm hồn những đứa trẻ không dừng lại ngơ ngác trong thơ mà đang lớn khôn tự nhiên giữa cuộc đời. Và không chỉ dừng lại ở sự “vượt khung” đó, Ông còn táo bạo “hiện hình” là một Đông Trình luôn thao thức với thời cuộc, với con đường, với đích đến và sứ mệnh thơ ca. Như Ông đã thổ lộ: “Tôi viết tặng một người lớn trong trẻ con và một trẻ con trong người lớn”(2). Điều này rất hiếm thấy ở những nhà thơ viết cho thiếu nhi cùng thời. Đặc biệt, điều ấy ẩn kín trong cấu trúc ngôn ngữ vốn là đặc điểm không lẫn vào ai khác của Đông Trình.
Thơ ca cận hiện đại và đương đại Việt Nam có nhiều nhà thơ viết về thiếu nhi, viết cho thiếu nhi, viết từ khi còn là thiếu nhi. Nếu chọn ra một người khác biệt với những bài thơ khác biệt thì người ấy là Đông Trình. Thơ Đông Trình còn lại trước hết là ở sự khác biệt đó.
—————–
Chú thích:
(1)Nguyễn Khắc Viện, 03/3/1992, in trang đầu tập Những chiếc xe màu lửa.
(2)Lời nói đầu trong Nếm mật.
![](https://vansudia.net/wp-content/uploads/2024/01/vansudia.net-Online-800x469.jpg)