Tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển của đạo Tin lành ở Việt Nam

Tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển của đạo tin lành ở Việt Nam

Tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển của đạo Tin lành ở Việt Nam

Theo thống kê, ở Việt Nam hiện nay có khoảng trên 1 triệu người theo đạo Tin lành thuộc hơn 70 tổ chức, nhóm Tin lành khác nhau, đa số các tổ chức Tin lành hiện nay được hình thành chủ yếu sau khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế ở thập kỷ 80, 90 của thế kỷ trước. Hiện tại đã có 9 tổ chức Tin lành được Nhà nước công nhận về tư cách pháp nhân, số còn lại thường được gọi là hội thánh Tin lành tư gia với số lượng từ vài trăm cho đến vài ngàn tín đồ. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu, đề cập đến những vấn đề lịch sử của Hội thánh Tin lành Việt Nam thành lập năm 1927 (nguồn gốc CMA, tên gọi trước năm 1954) – tiền thân của Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) và Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) hiện nay.

Đạo Tin lành được truyền vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX nhưng phải đến đầu năm 1911 mới hình thành được tổ chức (chi hội) đầu tiên ở Đà Nẵng sau một thời gian dài nỗ lực của các nhà truyền giáo phương Tây, là dấu mốc mở đầu trong lịch sử của đạo Tin lành. Được hình thành do một Hội Truyền giáo của Hoa Kỳ (gồm nhiều giáo phái họp lại) đặt nền tảng, đó là Hội Truyền giáo Phước âm Liên hiệp, gọi tắt là Hội Truyền giáo (The Christian and Missionary Alliance – CMA).

  1. Giai đoạn trước khi thiết lập tổ chức

Vào năm 1884, những mục sư đầu tiên là người Pháp đã đến Việt Nam để truyền giáo và đã hình thành một Hội thánh cho các tín hữu Tin lành Âu Châu đang sinh sống tại Việt Nam lúc bấy giờ. Năm 1894 nhà thờ Tin lành đầu tiên được xây dựng, tiếp đó có thêm 2 Hội thánh khác được thành lập tại Hà Nội và Sài Gòn (1902). Tuy nhiên sự truyền bá Tin lành đến người Việt Nam không được chú trọng vì các mục sư người Pháp chỉ tập trung cho tín đồ là người Pháp mà ít quan tâm đến việc rao truyền Tin lành cho người bản xứ. Năm 1902, Thánh Thơ Công hội (một tổ chức chuyên về phát hành, truyền giảng Kinh thánh) đã gởi ông Bonnet đến thành phố Tourane (Đà Nẵng), hoạt động.

Ngoài giáo hội Tin lành Pháp và Thánh Thơ Công hội đã có mặt tại Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, Hội Truyền giáo Phước âm Liên hiệp (The Christian and Missionary Alliance – CMA) cũng đã có tầm nhìn truyền giáo cho bán đảo Đông Dương. Năm 1892 và 1893, trong những chuyến đi du lịch, Tiến sĩ A. B. Simpson, người sáng lập Hội Truyền giáo Phước âm Liên hiệp đã đến Đông Nam Á tìm hiểu. Nhưng lúc bấy giờ chính quyền bảo hộ Pháp không muốn cho những nhà truyền giáo nào khác ngoài những nhà truyền giáo Công giáo La Mã, chính vì vậy ông Simpson quyết định thiết lập một trụ sở của Hội truyền giáo Phước âm Liên hiệp tại tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Đến năm 1898, một nhà truyền giáo khác của Hội Truyền giáo Phước âm Liên hiệp là ông R. A. Jaffray, đã đi dọc theo sông Hồng để đến Hà Nội. Nhưng ông cũng chưa tìm được điểm tựa để khởi sự hoạt động, ông nghĩ rằng có lẽ nếu có một người Pháp quốc tịch Canada hoạt động thì tốt hơn, vì vậy nhà truyền giáo Jaffray thuyết phục ông bà Silvian Dayan đến Việt Nam. Hai ông bà đã đến Hải Phòng năm 1902, nhưng sau một năm lưu ở đó, nhận thấy không thể làm gì khác hơn được, nên họ đã sang Hoa Nam. Không nản lòng, các nhà truyền giáo tại Hoa Nam đã thử một cách khác. Năm 1905, họ thiết lập một “trạm” truyền giáo tại Lung-Chow, một thị trấn của Trung Quốc nằm gần biên giới Việt Trung. Hội Truyền giáo hy vọng qua cửa ngõ này Tin lành sẽ xâm nhập được vào Việt Nam, tuy nhiên phương cách này cũng không đem lại hiệu quả gì, vì nhà chức trách Pháp kiểm soát thật gắt gao biên giới phía Bắc. Kết quả Tin lành vẫn chưa thể đến với dân chúng Việt Nam được.

  1. Giai đoạn thành lập về tổ chức

Vào mùa xuân năm 1911, R. A. Jaffray cùng hai nhà truyền giáo khác là ông Paul M. Hosler và G. Lloyd đến Đà Nẵng, thành phố cảng lớn nhất tại miền Trung. Sau khi trao đổi về nhu cầu truyền giáo tại Việt Nam, ông Bonnet bằng lòng chuyển nhượng lại cho Hội Truyền giáo cơ sở của Thánh Thơ Công Hội tại Đà Nẵng, đánh dấu việc thành lập chi hội đầu tiên ở Việt Nam. Sau đó tiến sĩ Simpson lập tức kêu gọi những người tình nguyện đến vùng đất mới, có một nhà truyền giáo người Anh, hai người Na Uy, bốn người Canada và hai người Mỹ hưởng ứng lời kêu gọi. Cuối năm 1911, ông Hosler báo cáo đã có người tin Chúa và bằng lòng chịu phép báp têm. Về người Việt Nam được kể là đầu tiên tin Chúa, người ta cho đó là – ông Nguyễn Văn Phúc, một nhân viên bán sách của Thánh Thơ Công Hội. Trong thời gian này ông Hosler cũng cố gắng phổ biến một số đoạn Kinh thánh ra tiếng Việt. Các nhà truyền giáo cộng tác với ông cũng đã mở thêm được một nhà thờ mới tại Hội An (Faifoo). Cho đến cuối năm 1914 thì có thêm nhà thờ Hải Phòng và Hà Nội. Mặc dù được hình thành trong sự khó khăn, nhưng Tin lành tại Việt Nam đã đặt được nền móng. Hội thánh đầu tiên đã được thành lập tại Đà Nẵng, nơi đây đã trở thành chiếc nôi của Hội thánh Tin lành Việt Nam. Sau những khó khăn buổi ban dầu, Tin lành lần lượt được truyền bá rộng rãi ra miền Bắc cũng như được rao giảng trong miền Nam.

  1. Giai đoạn củng cố và phát triển

Giai đoạn từ năm 1915 đến năm 1918, đây là thời gian Hội thánh gặp khó khăn sau khi đã được hình thành, nhà thờ mới mở tại Hội An bị đóng cửa, hai nhà truyền giáo tại đây là ông F. A. Soderberg và A. H. Birkel bị trục xuất. Tuy nhiên, trong giai đoạn này Hội Truyền giáo đã ghi nhận được những con số đáng chú ý. Năm 1916 đánh dấu sự khởi đầu tăng trưởng của Hội thánh Đà Nẵng, thêm 18 người chịu lễ báp têm trong năm này, nâng số tín đồ chính thức của hội thánh lên 25 người, một Trường Chúa nhật cũng được ổn định với tổng số học viên là 100. Đến cuối năm 1918 thì Hội thánh Đà Nẵng đã có số tín đồ chính thức là 58 người. Tại Hội thánh Hà Nội có thêm 4 người chịu lễ báp têm và cũng mở được một Hội thánh nhánh. Tổng số học viên Trường Chúa nhật của 2 Hội thánh Đà Nẵng là Hà Nội lên đến 400 người, đây là những con số thật được an ủi và khích lệ cho những người hầu việc Chúa lúc bấy giờ.

Giai đoạn 1918 đến 1921, sau khi cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất chấm dứt, hoạt động truyền giáo của Hội Truyền giáo Phước âm Liên hiệp tại Việt Nam được dễ dàng hơn. Một điểm cần ghi nhận trong giai đoạn này là nhiệt tâm của Hội Truyền giáo về sự phát triển của Hội thánh Tin lành Việt Nam. Nhằm đốc thúc việc truyền bá Tin lành và cũng để thực hiện chính sách tự trị cho Hội thánh địa phương, nên vào năm 1918, một chương trình dạy Kinh thánh nhằm huấn luyện cho người tín đồ Việt Nam, để họ sẵn sàng bước vào “công trường” thuộc linh đang rộng mở trước mắt đã được thực hiện. Đến tháng 9. 1921, nhà truyền giáo D. I. Jeffrey mới mở một trường Kinh thánh chính thức thức tại Đà Nẵng, theo khuôn mẫu của trường Thần đạo Nyack thuộc Hội Truyền giáo Phước âm Liên hiệp tại New York (Hoa Kỳ).

Giai đoạn 1922 đến 1927, năm 1922 hội nghị tại Đà Nẵng, Hội Truyền giáo đã đề ra chương trình tự trị tự lập cho Hội thánh Tin lành Việt Nam vì nhiều Hội thánh địa phương ở cả 3 miền Việt Nam đã được hình thành và bắt đầu lớn mạnh. Về hành chính của Hội thánh địa phương, được bầu cử các chức viên Chấp sự, Ban Trị sự tuỳ theo nhu cầu của Hội thánh như vẫn còn áp dụng đến hiện nay. Chỉ Hội thánh tự lập mới có quyền mời chủ tọa cho Hội thánh mình, chủ toạ các Hội thánh khác do Ban Trị sự Hội Truyền giáo tại Việt Nam bổ nhiệm. Quy định này được áp dụng cho đến năm 1927, là năm Đại hội đồng lần thứ nhất của Hội Thánh Tin lành Việt Nam được triệu tập. Tính đến cuối năm 1927, Hội thánh Tin lành Việt Nam đã có số tín đồ chính thức là 4.236 người thuộc 74 hội thánh chính và nhánh.

Giai đoạn 1927 đến 1941, sau 16 năm hình thành, Hội Truyền giáo Phước âm Liên hiệp tại Đông Dương đã thành lập ra tổ chức riêng cho người Việt Nam là hội thánh Tin lành Việt Nam Đông Pháp. Vào tháng 3-1927, Đại hội đồng đầu tiên của Hội thánh được triệu tập tại Đà Nẵng. Đại Hội đồng này quy tụ đại biểu của tất cả các Hội thánh địa phương đã được thành lập trên toàn cõi Đông Dương, trở thành Đại hội hành chính của Hội thánh và quyết định thành lập tổ chức riêng.

Giai đoạn 1942 đến 1954, là giai đoạn lịch sử đất nước có nhiều biến động, các hoạt động của Tin lành bị hạn chế bởi chính sách của chính quyền đô hộ Nhật, Pháp và hoàn cảnh xã hội. Ở Bắc hạt: Tái thiết 2 nhà thờ Hải Phòng và Nam Định, thêm 4 Hội thánh được mở lại (1948). Trung hạt: Có 17 Hội thánh tiếp tục bị đóng cửa vì còn ở trong vùng tranh chấp. Nam hạt: Có 38 Hội t thánh vẫn tiếp tục bị đóng cửa, nhiều nơi các tín hữu nhóm trong nhà riêng. Số tín hữu chính thức thuộc Nam hạt lên đến 7.759 người.

Giai đoạn (1951 – 1954) ở Bắc hạt có 12 Hội thánh chính và 7 hội thánh nhánh, 1.110 người chịu báp têm. Mục sư Trần Văn Đệ là chủ nhiệm từ 1952 – 1954. Tin lành phát triển mạnh tại Nam Định với khoảng 200 người tin Chúa. Trung hạt: Trong số 41 Hội thánh, chỉ còn 33 Hội thánh có sinh hoạt. Số Hội thánh này nằm trong cả hai khu vực Pháp và Việt Minh. Theo báo cáo của Mục sư Lê Văn Long là Chủ nhiệm thì trong năm 1951 có 3.275 người chịu báp têm. Nam hạt: Cuộc tranh chấp của các đảng phái chính trị tại miền Nam chưa ổn định, vì vậy các Hội thánh vẫn còn bị ảnh hưởng. Riêng khu vực Sài Gòn Chợ Lớn thì có phát triển. Nói chung các Hội thánh ở miền Nam đã thành công hơn các địa hạt khác, tổ chức được 13 Hội đồng bồi linh và truyền giảng Tin lành năm 1951 – 1953, ngoài ra cũng có hàng trăm ban chứng đạo trong các Hội thành hàng tuần đi ra để rao truyền Tin lành.

Giai đoạn 1954 – 1975, sau Hiệp định Giơnever 1954, đất nước Việt Nam tạm thời chia cắt làm 2 miền và Hội thánh Tin lành Việt Nam cũng bị phân chia ra 2 tổ chức là Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) và Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) hoạt động độc lập cho đến hiện nay.

Hội thánh tin lành Việt Nam (miền Bắc) do phần lớn tín đồ và chức sắc di cư vào miền Nam nên các hoạt động có phần chậm hơn lại. Đầu năm 1955, tín đồ Tin lành ở miền Bắc chỉ còn gần 1.000 người ở 20 chi hội và gần 20 mục sư, truyền đạo. Từ ngày 10 đến 12-4-1955 số mục sư truyền đạo đã tiến hành Đại hội đồng địa hạt Bắc kỳ với khoảng 200 đại biểu để bàn công việc của Hội thánh trong hoàn cảnh miền Bắc đã độc lập, mục sư Dương Tự Ấp làm chủ nhiệm địa hạt. Tuy Đại hội đồng mang tính chất địa hạt nhưng được coi là Đại hội đồng lần thứ nhất của hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc). Trụ sở của giáo hội đặt tại Nhà thờ số 2 Ngõ Trạm, Hà Nội. Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoạt động theo đường hướng tiến bộ “Kính Chúa và Yêu Nước”. Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) là tổ chức giáo hội được Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hướng dẫn, giúp đỡ có tư cách pháp nhân từ năm 1958, qua một thời gian soạn thảo và tu chỉnh Điều lệ đã chính thức thông qua tại Đại hội đồng lần thứ 8 họp tại Hà Nội từ ngày 13 – 15-3-1963. Bản Điều lệ này được sử dụng cho đến tháng 11-2004.

Ngược lại, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) được sự giúp đỡ của chính quyền miền Nam và các tổ chức bên ngoài đã có sự phát triển mạnh mẽ. Trong một buổi thuyết trình về Truyền đạo sâu rộng tại nhà thờ đường Trần Cao Vân (Sài Gòn). Mục sư Phạm Xuân Tín đã ví von rằng khi ông dự Hội đồng Truyền giáo Thế giới tại Tây Berlin, nghe Mục sư Billy Graham nói: “Người Mỹ nào cũng biết uống Coca Cola, thì người Mỹ nào cũng phải nghe Tin lành”, ông cũng có suy nghĩ với Hội thánh Tin lành Việt Nam rằng: “Người Việt Nam nào cũng biết ăn nước mắm thì người Việt Nam nào cũng phải được nghe Tin lành”. Tính đến năm 1975, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) có tổng số 150.000 tín đồ (58.000 tín đồ là người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên), có 530 chi hội, 190 mục sư, 167 truyền đạo, 155 truyền đạo sinh (42 mục sư, 91 truyền đạo, 50 truyền đạo sinh là người dân tộc thiểu số).

Giai đoạn sau 1975, hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) hoạt động hầu như cầm chừng, không phát triển thêm về số lượng tín đồ nhiều chức sắc tuổi cao và qua đời nên bộ máy tổ chức có lúc lâm vào khủng hoảng vì không có người kế cận. Các hoạt động về đào tạo bổ nhiệm, in ấn, đối ngoại… gặp nhiều khó khăn. Đến năm 2004, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) có hơn 6 ngàn tín đồ, 03 mục sư, 09 truyền đạo, 14 chi hội ở 10 tỉnh, thành phố (Lạng Sơn: 01 chi hội, Hà Nội: 02 chi hội, Hải Phòng: 03 chi hội, Nam Định: 02 chi hội, Hải Dương: 01 chi hội, Hà Tây: 01 chi hội, Vĩnh Phúc: 01 chi hội, Hà Nam: 01 chi hội, Thái Bình: 01 chi hộ, Thanh Hoá: 01 chi hội. Ngoài ra còn có các nhóm tín đồ nhỏ lẻ ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Thái Nguyên…

Từ khi thành lập, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) đã trải qua 31 lần Đại hội đồng. Điều lệ của Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) quy định xây dựng giáo hội có 2 cấp: Tổng hội và Chi hội, Tổng hội hoạt động mục vụ hoàn toàn tự trị, tự lập với Hội Truyền giáo CMA và tuân thủ pháp luật Nhà nước. Đại hội đồng lần thứ 32 (2004) sau 20 năm gián đoạn từ Đại hội đồng lần thứ 31 đã mở ra cho Hội thánh một giai đoạn mới với việc phục hưng Hội thánh, đặc biệt là mở rộng tín đồ bằng việc thu nhận số tín đồ người dân tộc ở khu vực miền núi phía Bắc. Đến nay Hội thánh có khoảng hơn 100.000 người tin theo, trong đó chủ yếu là người dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc, 12 mục sư, 14 chi hội và hàng trăm điểm nhóm, phạm vi hoạt động ở hơn 20 tỉnh, thành phố phía Bắc từ Quảng Bình trở ra. Trên cơ sở kế thừa truyền thống “Kính Chúa, yêu Nước”, Đại hội đồng lần thứ 32 đã tiếp bước xây dựng Điều lệ mới thay bản Điều lệ năm 1963 cho phù hợp với bối cảnh hiện tại.

Sau 1975 Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) chưa được Nhà nước công nhận về mặt tổ chức nhưng những sinh hoạt chủ yếu vẫn được thực hiện ở nhà thờ. Tuy vậy Hội thánh vẫn duy trì hoạt động tôn giáo và tăng trưởng về số nhà thờ. Năm 2000, Ban Vận động Đại hội đồng Tổng Liên hội lần thứ I được thành lập. Sau gần một năm chuẩn bị, tháng 02 năm 2001, Đại hội đồng Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) đã diễn ra trọng thể với 482 đại biểu chính thức (gồm 100 mục sư, 147 truyền đạo và 235 đại biểu) và 287 đại biểu không chính thức (các mục sự, truyền đạo hưu trí và vợ các mục sư, truyền đạo). Tiếp đến, ngày 16-3-2001, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân với hệ thống tổ chức gồm 2 cấp: Trung ương (Tổng Liên hội); cơ sở (chi hội) và hoạt động theo đường hướng “Sống Phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và Dân tộc”. Trụ sở tạm thời đặt tại nhà thờ Tin lành Sài Gòn, 155 Trần Hưng Đạo, quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Đến nay Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) có khoảng 600.000 tín đồ, 400 mục sư, mục sư nhiệm chức, truyền đạo đang hoạt động ở 34 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương từ Quảng Trị trở vào, là tổ chức Tin lành có số lượng tín đồ và chức sắc và thực lực lớn mạnh nhất trong các tổ chức Tin lành ở Việt Nam. Tiếp sau đó Hội thánh tiến hành Đại hội đồng lần thứ II (2005), lần III (2009) theo định kỳ 04 năm một lần. Đại hội đồng bầu Ban Trị sự Tổng Liên hội nhiệm kỳ 2005 – 2009 và nhiệm kỳ 2009 – 2013 gồm 23 thành viên và tiếp tục đường hướng hoạt động “Sống Phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và Dân tộc” đã được xác định từ Hiến chương năm 2001.

Được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, Ban Tôn giáo Chính phủ và chính quyền TP. Hà Nội, Đà Nẵng, Tp Hồ Chí Minh, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) và Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm Tin lành truyền đến Việt Nam vào các ngày từ 14 đến 16-6-2011 tại Đà Nẵng (nơi đạo Tin lành đặt tổ chức đầu tiên), ngày 20-6-2011 tại Hà Nội và ngày 24 và 25-6-2011 tại TP Hồ Chí Minh.

* Tài liệu tham khảo:

  1. Đỗ Hữu Nghiêm,Phương pháp truyền giáo của Tin lành giáo tại Việt Nam,Luận án cao học Sử học, Trường Đại học Văn Khoa, Sài Gòn, 1968.
  2. Lê Hoàng Phu,Lịch sử Hội thánh Tin lành Việt Nam.
  3. Lê Văn Thái,Bốn mươi sáu năm trong chức vụ,hồi ký, Cơ quan Tin lành xuất bản, Sài Gòn, 1971.
  4. Ms Bùi Hoành Thử,Lịch sử Hội thánh Tin lành Việt Nam,bản viết tay.
  5. Nguyễn Thanh Xuân,Bước đầu tìm hiểu Đạo Tin lành trên thế giới và Việt Nam,Nxb Tôn giáo, HN 2004.
  6. Nguyễn Thanh Xuân, (Chủ biên),Đạo Tin lành ở Việt Nam,Nxb Tôn giáo, HN 2008.
     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây