Giới thiệu khái quát huyện Pác Nặm
Huyện Pác Nặm được thành lập năm 2003 theo Nghị định số 56/2003/NĐ-CP ngày 28/5/2003 của Chính phủ.
Theo đó, huyện Pác Nặm được thành lập trên cơ sở 47.364ha diện tích tự nhiên và 26.131 nhân khẩu của huyện Ba Bể (Hiện nay, huyện Pác Nặm có 30.724 nhân khẩu). Huyện Pác Nặm có 10 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm các xã: Công Bằng, Giáo Hiệu, Nhạn Môn, Bằng Thành, Bộc Bố, Cao Tân, Nghiên Loan, An Thắng, Xuân La, Cổ Linh.
Vị trí địa lý
Địa giới hành chính huyện Pác Nặm: Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng; Tây giáp tỉnh Tuyên Quang; Nam giáp huyện Ba Bể; Bắc giáp tỉnh Cao Bằng. Cụ thể các xã như sau:
Xã An Thắng
– Diện tích tự nhiên: 3.320,4ha
– Phía Bắc giáp xã Mai Long, tỉnh Cao Bằng
– Phía Nam giáp xã Nghiên Loan Pác Nặm và xã Bành Trạch, huyện Ba Bể
– Phía Đông giáp xã Phan Thanh của huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng
– Phía Tây giáp xã Xuân La, huyện Pác Nặm
Xã Bằng Thành
– Diện tích tự nhiên là 8.609.77ha
– Phía Bắc giáp xã Sơn Lộ và xã Đình Phùng, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng
– Phía Nam giáp xã Bộc Bố và xã Xuân La, huyện Pác Nặm
– Phía Đông giáp xã Ca Thành và xã Mai Long, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng
– Phía Tây giáp xã Nhạn Môn, xã Bộc Bố, huyện Pác Nặm
Xã Bộc Bố
– Diện tích tự nhiên là 5.336.53ha
– Phía Bắc giáp xã Nhạn Môn, xã Bằng Thành, huyện Pác Nặm
– Phía Nam giáp xã Cổ Linh, huyện Pác Nặm
– Phía Đông giáp xã Bằng Thành và Xuân La, huyện Pác Nặm
– Phía Tây giáp xã Nhạn Môn và xã Giáo Hiệu, huyện Pác Nặm
Xã Cao Tân
– Diện tích tự nhiên là 4.116.43ha
– Phía Bắc giáp xã Cổ Linh, huyện Pác Nặm
– Phía Nam giáp xã Cao Thượng, huyện Ba bể
– Phía Đông giáp xã Nghiên Loan, huyện Pác Nặm
– Phía Tây giáp xã Đà Vị và xã Hồng Thái, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang
Xã Cổ Linh
– Diện tích tự nhiên là 3.968.32ha
– Phía Bắc giáp xã Bộc Bố, xã Công Bằng, huyện Pác Nặm
– Phía Nam giáp xã Cao Tân, huyện Pác Nặm
– Phía Đông giáp xã Xuân La, xã Nghiên Loan, huyện Pác Nặm
– Phía Tây giáp xã Hồng Thái huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang
Xã Công Bằng
– Diện tích tự nhiên là 5.335.21ha
– Phía Bắc giáp xã Nhạn Môn huyện Pác Nặm và xã Yên Thổ, huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng
– Phía Nam giáp xã Cổ Linh và hai xã Hồng Thái, Yên Hoa, huyện Na Hang tỉnh Tuyên Quang
– Phía Đông giáp xã Giáo Hiệu, huyện Pác Nặm
– Phía Tây giáp xã Thượng Giáp, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang
Xã Xuân La
– Diện tích tự nhiên là 3.967.56ha
– Phía Bắc giáp xã Bộc Bố và xã Bằng Thành, huyện Pác Nặm, xã Mai Long huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng
– Phía Nam giáp xã Nghiên Loan, huyện Pác Nặm
– Phía Đông giáp xã An Thắng, huyện Pác Nặm
– Phía Tây giáp xã Bộc Bố và xã Cổ Linh huyện Pác Nặm
Xã Nhạn Môn
– Diện tích tự nhiên là 4.434,51ha
– Phía Bắc giáp xã Sơn Lập, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng
– Phía Nam giáp xã Bộc Bố, xã Giáo Hiệu, huyện Pác Nặm
– Phía Đông giáp xã Bằng Thành, xã Bộc Bố, huyện Pác Nặm
– Phía Tây giáp xã Giáo Hiệu, Công Bằng (huyện Pác Nặm), xã Yên Thổ, huyện Bảo Lâm và xã Sơn Lập, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng
Xã Giáo Hiệu
– Diện tích tự nhiên là 2.705.18ha
– Phía Bắc giáp xã Nhạn Môn, huyện Pác Nặm
– Phía Nam giáp xã Bộc Bố và xã Công Bằng, huyện Pác Nặm
– Phía Đông giáp xã Bộc Bố và xã Nhạn Môn, huyện Pác Nặm
– Phía Tây giáp xã Công Bằng, huyện Pác Nặm
Xã Nghiên Loan
– Diện tích tự nhiên là 5.745,09ha
– Phía Bắc giáp xã Xuân La, xã An Thắng, huyện Pác Nặm
– Phía Nam giáp xã Thượng Giáo và xã Cao Trĩ, huyện Ba Bể
– Phía Đông giáp xã Bành Trạch huyện Ba Bể
– Phía Tây giáp xã Cao Thượng, huyện Ba bể và các xã: Cao Tân, Cổ linh, huyện Pác Nặm.
Địa hình, khí tượng thủy văn
Với đặc thù là huyện miền núi, Pác Nặm có địa hình phức tạp, có độ dốc lớn ( trung bình từ 400 – 1.200m so với mặt nước biến), chia cắt mạnh.
Huyện Pác Nặm nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia thành 02 mùa trong năm: Mùa khô thường xảy ra từ tháng 10 năm trước đén tháng 4 năm sau. Do ảnh hưởng khí hậu vùng núi cao nên vè mùa khô thường xảy ra rét đậm, rét hại kéo dài. Mùa mưa từ tháng 5 – tháng 9 trong năm; do ảnh hưởng bởi địa hình phức tạp, độ dốc lớn nên thường xảy ra lũ ống, lũ quét và sạt lở đất.
Nhiệt độ trung bình năm từ 220C đến 280C. Độ ẩm không khí trung bình từ 84-85%.
Lượng mưa trung bình năm của huyện là 1.346mm, thuộc vùng mưa ít của tỉnh. Các tháng có lượng mưa lớn là tháng 4,5,6,7 với tổng lượng mưa của 4 tháng này lên tới 90% tổng lượng mưa cả năm; các tháng còn lại có lượng mưa nhỏ. Do sự phân bố lượng mưa không đều và chênh lệch lớn nên đã gây khó khăn (sạt lở đất, lũ quyets, hạn hán…) trong việc phát triển nông – lâm nghiệp trên địa bàn huyện.
Sông ngòi
Huyện Pác Nặm có hệ thống sông ngòi khá dày đặc, có 3 con sông lớn: Sông Năng, sông Công Bằng, sông Nghiên Loan. Hệ thống suối bao gồm trên 40 con suối lớn nhỏ: Suối Nặm Khiếu (Nhạn Môn), suối Khuổi Tuốn (Nghiên Loan), suối Nà Lại, Khuổi Mạn (Bằng Thành), suối Khuổi Khiêu (Bộc Bố), suối Khuổi Trảng (Giáo Hiệu)…/.
Huyện Pác Nặm được thành lập năm 2003
Huyện Pác Nặm được thành lập năm 2003 theo Nghị định số 56/2003/NĐ-CP ngày 28/5/2003 của Chính phủ.
Theo đó, huyện Pác Nặm được thành lập trên cơ sở 47.364ha diện tích tự nhiên và 26.131 nhân khẩu của huyện Ba Bể (Hiện nay, huyện Pác Nặm có 30.724 nhân khẩu). Huyện Pác Nặm có 10 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm các xã: Công Bằng, Giáo Hiệu, Nhạn Môn, Bằng Thành, Bộc Bố, Cao Tân, Nghiên Loan, An Thắng, Xuân La, Cổ Linh.
Khái quát về tình hình kinh tế – xã hội
Là một huyện vùng cao, mới được thành lập, trong thời gian qua, Đảng bộ và nhân dân huyện Pác Nặm luôn nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh trật tự địa phương.
Trong lĩnh vực phát triển kinh tế, huyện Pác Nặm luôn chỉ đạo các địa phương phát huy những tiềm năng, lợi thế về sản xuất nông – lâm nghiệp; các cấp, các ngành tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân khai thác triệt để diện tích đất 01 vụ có khả năng sản xuất 2 vụ, khai hoang và phục hóa ruộng nước nhằm tăng hệ số sử dụng đất, nâng cao sản lượng lương thực có hạt. Chính vì vậy, trong những năm qua, diện tích và sản lượng lương thực có hạt của huyện Pác Nặm đều tăng. với việc triển khai hiệu quả các hoạt động khuyến nông, diện tích gieo trồng lúa, ngô của huyện được mở rộng qua các năm. Năm 2004, toàn huyện thực hiện được trên 1.600ha lúa, năng suất chỉ đạt 30%, sản lượng đạt 49.590 tấn thì đến năm 2012, toàn huyện thực hiện được trên 2.240ha lúa, năng suất bình quân đạt 47 tạ/ha, sản lượng đạt trên 105.000 tấn. Đối với cây ngô, năm 2004 chỉ thực hiện được trên 1.800ha với năng suất 26 tạ/ha, sản lượng đạt gần 49.000 tấn thì đến năm 2012, toàn huyện thực hiện được gần 3.000ha, năng suất đạt bình quân 35 tạ/ha, sản lương đạt trên 102.000 tấn.
Chăn nuôi đại gia súc là ngành kinh tế đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho người dân nơi đây. Với những lợi thế sẵn có về điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội, huyện Pác Nặm đã chỉ đạo các đơn vị, địa phương trên địa bàn huyện thực hiện nhiều giải pháp phát triển đàn trâu, bò như: Tổ chức vận động cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang và nhân dân trong huyện mạnh dạn vay vốn đầu tư phát triển đàn gia súc, đồng thời chỉ đạo Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đóng trên địa bàn huyện tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người dân vay vốn thực hiện đề án. Do đó, chăn nuôi đại gia súc hiện đã trở thành ngành sản xuất mang lại thu nhập chính cho đồng bào nơi đây; nhiều hộ gia đình nhờ chăn nuôi đại gia súc đã thoát nghèo, vươn lên làm giàu.
Cùng với việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, huyện đã tập trung chỉ đạo và triển khai thực hiện nhiêu dự án trồng rừng mới, giao khoán, khoanh nuôi bảo vệ rừng trên địa bàn huyện.
Hiện nay, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện Pác Nặm chưa phát triển; hoạt động sản xuất chính chỉ là khai thác vật liệu xây dựng và gia công đồ gỗ gia dụng; các sản phẩm làm ra chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng tại địa phương, chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
Cùng với việc chỉ đạo phát triển sản xuất, công tác thu ngân sách trên địa bàn huyện được các cấp Ủy đảng, chính quyền tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường công tác quản lý, khai thác triệt để mọi nguồn thu, thu đúng, thu đủ các sắc thuế. Do đó, kết quả thu ngân sách của huyện luôn hoàn thành kế hoạch giao; riêng năm 2008, huyện thu được 3.729,3/3.000 triệu đồng, đạt 124% kế hoạch đề ra.
Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế được huyện Pác Nặm quan tâm chỉ đạo thực hiện. Từ các nguồn vốn hỗ trợ như: Các chương trình mục tiêu Quốc gia, Chương trình 134, 135, Chương trình 30a, Dự án 3PAD… kết cấu hạ tầng kinh tế huyện từng bước được đầu tư xây dựng. Chỉ tính riêng từ năm 2005 – 2009, toàn huyện đã có 489 dự án, công trình được triển khai với tổng số vốn 300.239 triệu đồng; tập trung vào các cơ sở hạ tầng thiết yếu như: Giao thông, thủy lợi, công trình nước sinh hoạt… Các công trình được hoàn thành, đưa vào sử dụng có hiệu quả đã góp phần tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân các dân tộc trên địa bàn huyện.
Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội: Công tác lao động, thương binh – xã hội, giải quyết việc làm, xóa đói – giảm nghèo được huyện Pác Nặm triển khai thực hiện tốt. Huyện luôn thực hiện kịp thời việc trợ cấp cứu đói trong dịp tết, cứu đói giáp hạt, cứu trợ khó khăn đột xuất cho những gia đình bị thiên tai, hỏa hoạn xảy ra trên địa bàn; thường xuyên quan tâm giải quyết các chế độ chính sách cho các đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, những đối tượng chính sách xã hội khác.
Các hoạt động văn hóa, văn nghệ từ cấp huyện đến cấp xã được duy trì tổ chức thường xuyên nhân dịp chào mừng các ngày lễ lớn của dân tộc. Hoạt động thể dục, thể thao luôn được duy trì thường xuyên với các môn thể thao thông thường như: Bóng đá, bóng chuyền, cầu long, bóng bàn cùng các môn thể thao dân tộc như: Kéo co, đẩy gậy, tung còn, bắn nỏ… Huyện đã thành lập được đội thông tin lưu động và duy trì hoạt động có hiệu quả, kịp thời tuyên truyền các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đến mọi tầng lớp nhân dân. Việc thông tin, tuyên truyền về chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng như thông tin về tình hình phát triển kinh tế – xã hội của địa phương luôn được triển khai thực hiện thường xuyên, kịp thời.
Công tác giáo dục và đào tạo trên địa bàn huyện Pác Nặm hiện nay đang có nhiều chuyển biến tích cực. Mặc dù còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, cơ sở vật chất các trường học từng bước được đầu tư xây dựng từ nhiều nguồn vốn khác nhau; đặc biệt là các điểm trường lẻ được xây dựng trên cơ sở sự đóng góp của người dân địa phương, thể hiện công tác xã hội hóa giáo dục trên địa bàn đã có có sự tham gia tích cực của các cấp, các ngành, chính quyền địa phương cũng như quần chúng nhân dân, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học trên địa bàn. Năm 2005, huyện được công nhận phổ cập giáo dục Trung học cơ sở.
Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được duy trì thực hiện tốt. Với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, đến nay, mạng lưới y tế trên địa bàn huyện Pác Nặm ngày càng được củng cố, hoàn thiện và phát triển, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân: Trung tâm Y tế huyện đã được xây dựng khang trang; hàng năm, các trang thiết bị chuyên môn, dụng cụ y tế được bổ sung đầy đủ, đáp ứng nhu cầu khám – chữa bệnh tại tuyến cơ sở. 10/10 Trạm Y tế xã đã được nâng cấp, đầu tư xây dựng mới theo mô hình Trạm chuẩn Quốc gia. Đội ngũ cán bộ y tế của huyện được quan tâm bồi dưỡng nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn; nếu như năm 2003 Ngành Y tế huyện chỉ có 03 bác sỹ tham gia điều trị thì đến năm 2011 đã có 12 bác sỹ tuyến huyện và 5/10 xã có bác sỹ hoạt động thường xuyên tại Trạm Y tế; 119/119 thôn, bản của huyện đều đã có nhân viên y tế được đào tạo bài bản và có cộng tác viên dân số hoạt động. Năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ y tế trên địa bàn huyện ngày càng được nâng cao, luôn chủ động phối hợp với các ban, ngành đoàn thể từ huyện đến cơ sở tích cực thực hiện công tác phòng, chống dịch bệnh; phát hiện và xử lý kịp thời các loại dịch bệnh ngay từ khi mới phát hiện. Chính vì vậy, trong những năm qua, trên địa bàn huyện Pác Nặm không có dịch bệnh xảy ra; số lượt khám chữa bệnh tăng qua các năm; công tác khám chữa bệnh cho người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi ngày càng được chú trọng; gần 100% dân số trên địa bàn huyện được khám chữa bệnh miễn phí bằng thẻ bảo hiểm y tế tại các cơ sở y tế.
Từ khi được thành lập đến nay, tình hình an ninh chính trị – trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện Pác Nặm luôn được giữ vững./.
Sản xuất nông nghiệp
Với quỹ đất, nguồn nhân lực dồi dào và trên 90% dân số lao động sản xuất thuần nông nên sản xuất nông – lâm nghiệp của huyện Pác Nặm có nhiều điều kiện để phát triển.
Thời điểm huyện Pác Nặm được thành lập, nông dân trên địa bàn huyện chủ yếu canh tác đất 01 vụ. Trong thời gian qua, cùng với sự nỗ lực của các cấp, các ngành trong việc đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân khai thác đất 1 vụ thành 2 vụ, khai hoang, mở rộng diện tích trồng lúa, nhận thức của nhân dân các dân tộc trên địa bàn huyện về sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh tăng vụ đã có nhiều chuyển biến rõ rệt; diện tích gieo trồng được mở rộng, sản lượng lương thực tăng qua các năm. Nếu như năm 2003, tỷ lệ dùng giống lúa, ngô lai năng suất cao vào sản xuất chỉ đạt 20% thì đến nay đạt trên 70%. Năm 2004, toàn huyện thực hiện được trên 1.600ha lúa, năng suất chỉ đạt 30%, sản lượng đạt 49.590 tấn thì đến năm 2012, toàn huyện thực hiện được trên 2.240ha lúa, năng suất bình quân đạt 47 tạ/ha, sản lượng đạt trên 105.000 tấn.
Đối với cây ngô, năm 2004 chỉ thực hiện được trên 1.800ha với năng suất 26 tạ/ha, sản lượng đạt gần 49.000 tấn thì đến năm 2012, toàn huyện thực hiện được gần 3.000ha, năng suất đạt bình quân 35 tạ/ha, sản lương đạt trên 102.000 tấn.
Chăn nuôi đại gia súc đem lại nguồn thu nhập chính cho đồng bào các dân tộc
So với các địa phương khác trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn, huyện Pác Nặm có lợi thế về điều kiện tự nhiên cũng như điều kiện xã hội để phát triển chăn nuôi đại gia súc. Về điều kiện tự nhiên, với tiềm năng đất đai sẵn có của huyện có thể quy hoạch bãi chăn thả tập trung, đất đồi nhiều có thể mở rộng diện tích trồng cỏ. Khí hậu nơi đây có 2 mùa rõ rệt: Về mùa mưa, cỏ tự nhiên nhiều; mùa khô, bà con đã tận dụng sản phẩm từ thân cây ngô, chuối, rơm rạ… bổ sung nguồn thức ăn dồi dào cho đàn gia súc.
Về điều kiện xã hội, nhân dân địa phương đã có truyền thống và kinh nghiệm chăn nuôi đại gia súc từ ngàn đời nay. Đối với mỗi hộ nông dân, con trâu, con bò là tài sản quý giá không chỉ phục vụ sức kéo trong mỗi thời vụ mà còn trở thành hàng hóa giúp hộ gia đình tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống.
Pác Nặm là địa phương có nhiều chợ trâu, bò như: Chợ trâu, bò Nghiên Loan, Chợ Bộc Bố, chợ Công Bằng… Đây chính là lợi thế cho việc giao lưu, trao đổi hàng hóa không chỉ thu hút các hộ dân trong huyện với các hộ chăn nuôi ngoài huyện, tỉnh về trao đổi, mua – bán đã tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân địa phương.
Với những lợi thế trên, huyện Pác Nặm đã xác định phát triển chăn nuôi đại đa súc là ngành sản xuất thế mạnh của huyện. Chỉ tiêu phát triển đàn trâu, bò đã được đưa vào Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ nhất nhiệm kỳ 2005 – 2010 và Nghị quyết HĐND huyện các năm. Hàng năm, huyện đều có sự chỉ đạo đồng bộ từ huyện đến cơ sở về thực hiện chỉ tiêu phát triển đàn trâu, bò đã đề ra. Hiện nay, số lượng trâu bò của huyện là 14.590 con (theo số liệu điều tra 1/4/2012).
Thực hiện đề án phát triển đàn trâu, bò, đưa chăn nuôi đại gia súc trở thành nghành sản xuất chính, nâng cao thu nhập, góp phần xóa đói, giảm nghèo của huyện, Ban Thường vụ Huyện ủy, UBND huyện Pác Nặm đã chỉ đạo sát sao các địa phương thực hiện nhiều giải pháp để đàn gia súc đạt được chỉ tiêu kế hoạch đề ra như: Huy động cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang trên địa bàn huyện vay vốn đầu tư mua trâu, bò, phối hợp với nhân dân địa phương tạo mô hình kết hợp cùng có lợi, góp phần tăng tổng đàn trâu, bò của huyện; chỉ đạo Ngán hàng chính sách xã hội và Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn chi nhánh huyện Pác Nặm tạo điều kiện thuận lợi để các hộ gia đình vay vốn phát triển đàn trâu, bò; hỗ trợ kinh phí mua trâu, bò từ ngoài tỉnh theo quy định; khuyến khích, nhân rộng mô hình chăn nuôi trâu, bò vỗ béo tại các hộ gia đình – đây là một trong những giải pháp rút ngắn thời gian giao dịch, luân chuyển trâu bò thành phẩm, giúp người dân tăng nhanh vòng quay vốn, tăng thu nhập cho gia đình.
Cùng với định hướng chung của huyện là phát triển chăn nuôi đại gia súc mang lại thu nhập chính cho đồng bào địa phương, đến nay trên địa bàn huyện đã có nhiều hộ có thu nhập ổn định, nhiều hộ vươn lên làm giàu, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo chung của huyện (72,79% năm 2006 xuống còn 52,08% năm 2009 theo chuẩn cũ).
Tại Đại hội lần thứ II, nhiệm kỳ 2010 – 2015, Đảng bộ huyện Pác Nặm đề ra chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2012, đàn trâu, bò của huyện đạt 23.000 con. Để thực hiện thắng lợi chỉ tiêu đó, huyện Pác Nặm xác định triển khai các giải pháp, cơ chế chính sách thúc đẩy phát triển đàn trâu, bò gồm:
Phát triển chăn nuôi trâu, bò theo hình thức trang trại quy mô vừa và lớn, hình thành các vùng chăn nuôi hàng hóa tập trung, đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính, xác định chăn nuôi là một hướng xóa đói, giảm nghèo và làm giàu cho nông dân;
Pác Nặm hiện đang được thụ hưởng nhiều chương trình, dự án hỗ trợ phát triển sản xuất như: Chương trình 135, Dự án 3PAD, Chương trình 30a… Do đó, thực hiện tốt việc kết hợp các nguồn vốn thuộc các chương trình, dự án để vận động và hỗ trợ nhân dân đặc biệt là các hộ nghèo mua trâu, bò; xây dựng chuồng trại, cải tạo chất lượng đàn sẽ là giải pháp hữu hiệu đạt chỉ tiêu tổng đàn gia súc của huyện theo kế hoạch Đại hội Đảng bộ lần thứ II đề ra 23.000 con.
Hiện nay, đồng cỏ tự nhiên tại các địa phương dành chăn nuôi đang bị thu hẹp lại. Do đó, các địa phương tiếp tục vận động nhân dân mở rộng diện tích trồng cỏ phục vụ chăn nuôi; đồng thời chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân về phương pháp tận dụng sản phẩm dự trữ từ rơm, rạ và thân lá ngô để ủ chua làm thức ăn dự trữ trong mùa đông cho đàn gia súc, coi đây là giải pháp quan trọng để phát triển chăn nuôi trong những năm tới;
Trong thời gian tới, huyện Pác Nặm tiếp tục đẩy mạnh công tác tập huấn, nâng cao trình độ chuyên mộ cho đội ngũ thú y viên cơ sở và việc tổ chức các lớp truyền thông về công tác thú y cho nông dân; chỉ đạo các thú y viên thường xuyên bám sát cơ sở, nắm bắt tình hình dịch bệnh để sớm phát hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời; tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, hướng dẫn để bà con hiểu về công tác thú y, tích cực hưởng ứng công tác tiêm phòng, bảo vệ an toàn sức khỏe cho đàn gia súc, gia cầm; đồng thời tăng cường kiểm soát chặt chẽ về công tác kiểm dịch và vận chuyển gia súc để hạn chế dịch bệnh lây lan từ nơi khác đến; thực hiện thường xuyên công tác kiểm soát giết mổ, xử lý nghiêm khắc những sản phẩm không đủ tiêu chuẩn vệ sinh thú y;
Tăng cường công tác tập huấn chuyển giao khoa học – kỹ thuật cho người nông dân, đồng thời hướng dẫn nhân dân chăm sóc và nuôi dưỡng tốt đàn gia súc; hướng dẫn các hộ chăn nuôi xây dựng chuồng trại đảm bảo hợp vệ sinh để chủ động chống rét cho đàn gia súc trong mùa đông, đảm bảo đàn gia súc, gia cầm luôn ổn định và phát triển mạnh; từng bước khống chế, ngăn chặn dịch bệnh nguy hiểm như: lở mồm long móng, tụ huyết trùng; có chính sách khuyến khích phù hợp, tăng số lượng và thời hạn vay vốn để thúc đẩy người dân phát triển chăn nuôi trâu, bò tại địa phương, đưa chăn nuôi trở thành ngành chính trong sản xuất nông nghiệp của huyện, góp phần tăng thu nhập ổn định đời sống nhân dân, thoát nghèo một cách bền vững.
Phát triển lâm nghiệp
Là một huyện vùng cao, Pác Nặm có quỹ đất lâm nghiệp khá lớn. Do đó, công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng được cấp Ủy, chính quyền huyện Pác Nặm quan tâm chỉ đạo thường xuyên. Hàng năm, huyện đã chủ động phối hợp với các sở, ngành xây dựng dự án; đồng thời chỉ đạo triển khai thực hiện trồng rừng theo kế hoạch. Do đó, diện tích rừng trồng mới đều tăng qua các năm. Nếu như năm 2004, toàn huyện chỉ thực hiện được 137,8ha thì đến năm 2012, diện tích rừng trồng mới của huyện đạt trên 1.500ha./.