Ðồng chí Huỳnh Tấn Phát sinh ngày 15-2-1913 trong gia đình địa chủ phá sản tại làng Tân Hưng, quận An Hóa, tỉnh Mỹ Tho (nay là ấp Tân Hưng, xã Châu Hưng, huyện Bình Ðại, tỉnh Bến Tre). Nơi đây có đình Tân Hưng được lập nên từ sự tri ân của nhân dân đối với chí sĩ yêu nước Huỳnh Văn Thiệu, một bộ tướng thân cận của Bình Tây Ðại nguyên soái Trương Ðịnh. Ðồng chí Huỳnh Tấn Phát là cháu cố của anh hùng Huỳnh Văn Thiệu, nối bước tiền nhân ghi dấu lịch sử là nhà trí thức yêu nước, người chiến sĩ cộng sản kiên trung, mẫu mực.
Đồng chí Huỳnh Tấn Phát và người bạn đời, người đồng chí Bùi Thị Nga trong kháng chiến chống Mỹ. Ảnh tư liệu.
Thuở nhỏ, đồng chí Huỳnh Tấn Phát lần lượt tốt nghiệp tiểu học, trung học tại Trường dòng Laxan Tabe Mỹ Tho, Trường Trung học Mỹ Tho, Trường Trung học Pétrus Ký (nay là Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, TP Hồ Chí Minh). Năm 1933, ông thi đậu vào khóa 8 Khoa Kiến trúc, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Ðông Dương và tốt nghiệp thủ khoa năm 1938. Năm 1940, ông mở văn phòng kiến trúc sư tại số nhà 68-70 đường Mayer (nay là đường Võ Thị Sáu).
Trước tinh thần đấu tranh bất khuất của những chiến sĩ cộng sản và nhân dân trong Khởi nghĩa Nam Kỳ, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát đã chuyển hướng sang hoạt động cách mạng, làm chủ nhiệm Tuần báo Thanh niên, tích cực hoạt động trong phong trào “Truyền bá Quốc ngữ”, “Cứu trợ nạn đói Bắc Kỳ”. Tháng 3-1945, đồng chí Huỳnh Tấn Phát được kết nạp vào Ðảng Cộng sản Ðông Dương, tích cực hoạt động trong phong trào “Thanh niên Tiền phong” (do Xứ ủy Nam Kỳ lãnh đạo) chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tại Sài Gòn và Nam Bộ; tham gia lãnh đạo và đóng góp vào thắng lợi của tổng khởi nghĩa, giành chính quyền ở Sài Gòn ngày 25-8-1945.
Ngày 23-9-1945, khi Pháp trở lại xâm chiếm Sài Gòn, đồng chí bị địch bắt, rồi trả tự do sau 3 ngày giam giữ ở bốt Catinat vì đồng chí là kiến trúc sư tên tuổi. Tháng 10-1945, đồng chí Huỳnh Tấn Phát được cử làm Trưởng Ðoàn đại biểu Thanh niên Nam Bộ ra Hà Nội dự Ðại hội Thanh niên toàn quốc. Trở về Nam Bộ, đồng chí được giới thiệu ứng cử ở đơn vị bầu cử tỉnh Mỹ Tho và đắc cử Ðại biểu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ðầu năm 1946, đồng chí Huỳnh Tấn Phát bị địch bắt, kết án 2 năm tù. Trong Khám Lớn Sài Gòn, đồng chí đóng vai trò quan trọng thành lập “Liên đoàn Tù nhân Khám Lớn Sài Gòn” và được bầu làm Trưởng Ban đại diện. Tháng 11-1947, sau khi ra tù, đồng chí liên lạc ngay với tổ chức, được phân công phụ trách công tác trí vận, báo chí ở Sài Gòn, đồng thời là Bí thư Ðảng đoàn Ðảng Dân chủ Nam Bộ.
Ðầu năm 1949, đồng chí vào chiến khu Ðồng Tháp hoạt động; được cử làm Ủy viên Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ kiêm Giám đốc Sở Thông tin Nam Bộ, Bí thư Ðảng đoàn Ðảng Dân chủ Việt Nam. Năm 1950, Ðặc khu Sài Gòn – Chợ Lớn thành lập, đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành đảng bộ Ðặc khu, Trưởng Ban Tuyên huấn Ðặc khu, trực tiếp phụ trách Ðài Phát thanh Tiếng nói Sài Gòn – Chợ Lớn tự do. Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, đồng chí được phân công hoạt động ở Sài Gòn; đến cuối năm 1956, đồng chí được bổ sung vào Khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn, phụ trách Ban Trí vận và Chính quyền vận. Năm 1959, đồng chí hoạt động ở vùng Tam giác sắt (Củ Chi – Trảng Bàng – Bến Cát – địa bàn đứng chân của Khu ủy miền Ðông, Khu ủy Sài Gòn – Gia Ðịnh) và được phân công làm Khu ủy viên chính thức Khu ủy Sài Gòn – Gia Ðịnh.
Năm 1960, đồng chí tham gia thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, giữ trọng trách Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương lâm thời Mặt trận. Năm 1961, đồng chí được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng khu Sài Gòn – Gia Ðịnh. Năm 1962, được Ðại hội lần thứ nhất Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam bầu làm 1 trong 5 Phó Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận. Tháng 6-1969, Ðại hội đại biểu Quốc dân toàn miền Nam Việt Nam bầu đồng chí Huỳnh Tấn Phát, Phó Chủ tịch đoàn kiêm Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam làm Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và giữ chức vụ này cho đến ngày đất nước thống nhất.
Năm 1976, Quốc hội khóa VI bầu đồng chí Huỳnh Tấn Phát làm Phó Thủ tướng Chính phủ và năm 1977, đồng chí được phân công làm Trưởng Ban Chỉ đạo Quy hoạch đô thị. Năm 1979, đồng chí được phân công kiêm chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban xây dựng cơ bản Nhà nước và được chỉ định làm đại diện thường trực nước ta tại Hội đồng tương trợ kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa (SEV). Năm 1981, đồng chí được Quốc hội khóa VII bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; tháng 6-1982, đồng chí được bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Năm 1983, đồng chí được bầu làm Chủ tịch Ðoàn Chủ tịch ủy ban Trung ương MTTQVN tại Ðại hội lần thứ II MTTQVN, đồng thời được bầu là Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam. Ðồng chí Huỳnh Tấn Phát là đại biểu Quốc hội khóa I, II, III, VI, VII, VIII.
Ngày 30-9-1989, đồng chí Huỳnh Tấn Phát từ trần, thọ 76 tuổi. Ðồng chí được Ðảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huy hiệu 40 năm tuổi Ðảng; Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật; Huy chương Vì sự nghiệp đại đoàn kết.
***
Là kiến trúc sư sớm nổi tiếng ở Sài Gòn, đồng chí Huỳnh Tấn Phát đã tự nguyện gắn cuộc đời mình với sự nghiệp cách mạng của dân tộc và trong suốt chiều dài hoạt động cách mạng, đồng chí thể hiện rõ sức ảnh hưởng của nhà trí thức yêu nước lớn. Là lãnh đạo giữ nhiều cương vị quan trọng, đồng chí luôn thể hiện tinh thần, trách nhiệm cao trước Ðảng và nhân dân, nhất là ở những giai đoạn bước ngoặt của 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Sau khi đất nước thống nhất, đồng chí đã tham gia giải quyết những công việc trọng đại trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, cả về đối nội và đối ngoại. Ðồng chí Huỳnh Tấn Phát là tấm gương tiêu biểu cho đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Từ khi tham gia phong trào yêu nước cho đến khi làm Chủ tịch Ðoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQVN, đồng chí liên tục được phân công đảm nhiệm công tác vận động quần chúng; vừa là người tổ chức, chỉ đạo, vừa là người trực tiếp làm công tác phong trào.
Sự nghiệp của đồng chí Huỳnh Tấn Phát còn ghi dấu ấn là kiến trúc sư tài năng, sáng tạo. Từ năm 1938 đến năm 1943, đồng chí đã thiết kế nhiều công trình được xây dựng tại Sài Gòn, Gia Ðịnh, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên, Ðà Lạt… Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí vẫn dành thời gian thiết kế và chỉ đạo xây dựng nhiều công trình trong chiến khu. Nhiều phác thảo kiến trúc, quy hoạch các công trình dự định xây dựng tại Lộc Ninh, Thủ đô Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, của đồng chí trong điều kiện chiến tranh, đã thể hiện tầm nhìn lạc quan, tin tưởng vào tương lai. Sau ngày đất nước thống nhất, đồng chí đã để lại những công trình, tác phẩm xuất sắc như: bản quy hoạch Thủ đô Hà Nội năm 1981, bảo tàng các Vua Hùng, nhà hát Hòa Bình TP Hồ Chí Minh. Riêng bản thiết kế Bảo tàng Hồ Chí Minh 1979-1985 được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996. Ðồng chí chỉ đạo và góp ý nhiều dự án thiết kế quy hoạch nhiều đô thị và nhiều công trình kiến trúc, góp phần xây dựng nền kiến trúc Việt Nam hiện đại, giàu bản sắc dân tộc.
***
Ðồng chí Huỳnh Tấn Phát là một điển hình cả đời gắn bó với nhân dân, phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân với trí tuệ và tình cảm của một trí thức yêu nước, một nhà chính trị – nhà văn hóa – kiến trúc sư. Ở đồng chí, chính trị, văn hóa, đạo đức luôn hòa quyện.
——————-
Tư liệu tham khảo:
Bài viết sử dụng tư liệu Đề cương Tuyên truyền kỷ niệm 110 năm ngày sinh đồng chí Huỳnh Tấn Phát của Ban Tuyên giáo Trung ương; tư liệu từ Trang tin Đảng bộ TP Hồ Chí Minh.