Du xuân trên quê Bùi Giáng – Tác giả: Nguyễn Nhã Tiên

Tin Xuân - Câu lạc bộ Văn học nghệ thuật Liên Chiểu thành phố Đà Nẵng

Du xuan tren que Bui Giang min - Du xuân trên quê Bùi Giáng - Tác giả: Nguyễn Nhã Tiên

Theo ngọn gió Bùi Giáng thi sĩ dẫn đường “Gió Lệ Trạch thổi qua Cổ Tháp” tôi về làng quê Duy Xuyên giữa một ngày xuân tưng bừng thơ dại. Ngược chiều với câu thơ, nghĩa là theo hướng đông- tây,từ Cổ Tháp qua An Lâm rồi mới đến Lệ Trạch. Lên xa hơn nữa là Cù Bàn, Kiểm Lâm. Và rồi cả một vùng Tây – Duy Xuyên mênh mông những An Hòa, Mỹ Sơn, Mỹ Lược, Thu Bồn, Phú Đa… Thời đánh Tây năm xưa, gia đình Bùi Giáng và hầu hết họ Bùi tộc chuyển lên định cư ở hẳn vùng Trung Phước. Giữa bạt ngàn đồi núi nhấp nhô này, nơi nào Bùi thi sĩ từng một thời “Anh lùa bò vào đồi sim trái chín”. Cũng chẳng rõ nữa, nhưng chắc chắn rằng trên những lối đi này đã mòn nhẵn bước chân thời hoa niên của ông. “Vĩnh Trinh Lệ Trạch Thanh Châu. Thi Lai Hà Mật nhìn đâu dáng người”. Thơ ấy là cách thi sĩ gọi tên đất tên làng cho… hả nhớ, nó như một phản xạ từ vô thức chẳng mong đạt tới một ý nghĩa nào ghê gớm. Làm sao cắt nghĩa nhớ, làm sao cắt nghĩa yêu, làm sao cắt nghĩa một thứ tình bát ngát căng đầy trong máu huyết châu thân, ví như khi bàn tay người mẹ chạm vào sợi tao nôi là lập tức khúc hát ru ầu ơ từ tim phổi trào ra:“Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng. Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi” !

Giữa một trạng huống, một tâm thế phiêu bồng nhẹ tênh, ngẫu nhiên ngày xuân cám dỗ tôi có mặt trên xứ sở thi sĩ Bùi Giáng.

Lên đường từ buổi xưa xa
Về nguyên thủy giục giang hà dội âm

Một xứ sở như thế thì đã vượt xa tầm của một địa lý, mà là cội nguồn, là quê hương của giống loài: “Con chim thì ta biết nó bay, con cá thì ta biết nó lội…”. Vậy mà đôi bàn chân trần ai của tôi, hữu hạn của tôi, lại xiêu lệch mon men tới bờ cõi này để tưởng ra người xưa đâu đó trong nắng sớm mưa chiều bất tuyệt những âm vang.

Hỏi tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa

Du xuân trong một làng quê nghe rõ “biển xanh dâu” thế kia thì chẳng thể khuôn vào trong cái giới hạn vài cây số đường dài từ Cổ tháp đến Lệ Trạch nữa rồi, mà là cái làng quê của sông cạn đá mòn, cái làng quê vô tận giữa bát ngát ý nghĩa thời gian. Trong cái di sản đồ sộ thơ văn Bùi Giáng để lại, tôi nhớ mãi một câu chuyện ông đã viết. Có thể đấy là chuyện Bùi thi sĩ tưởng tượng ra hoặc cũng có thể là hoàn toàn hiện thực, nghe cứ thấy trong ngần một niềm thơ dại. Nhân vật đối thoại cùng thi sĩ trong ngày ông về thăm quê là một cô Thôn nữ. Kẻ hỏi người đáp, vừa như tưng tửng đùa chơi vừa như tiếng vang ngân ấu thơ có khả năng làm động vọng thấu tận sâu thẳm nguồn cội,cảnh báo về sự vong thân đâu đó bên trong mỗi con người. Trả lời cô Thôn nữ hỏi ông về thăm quê bằng phương tiện gì và đi trong bao lâu, ông trả lời rằng: Từ Sài Gòn đi bộ về quê ròng rã suốt hai tháng trời. Tranh Bui Giang min - Du xuân trên quê Bùi Giáng - Tác giả: Nguyễn Nhã TiênĂn uống thì quán xá dọc đường, còn ngủ thì tựa gốc cây bên đường, thiu thiu nhắm hai con mắt lại mà ngủ. Nhưng, đây mới là trọng tâm, mới là hàm lượng ý tưởng của câu chuyện. Thôn nữ hỏi: “-Sao anh không đi xe đò cho mau chóng tới nơi?”. Hãy nghe Bùi Giáng hồn nhiên trả lời: “-Anh muốn từ từ thong thả. Vừa đi vừa ngắm phong cảnh dọc đường. Và cũng cố ý kéo dài ra để dành”. Và cái mà Bùi Giáng để dành đó là “-Cái quí trọng. Tỉ như đứa bé để dành cái bánh, cây kẹo của người ta cho mình”, còn ông thì: “Để dành cuộc gặp gỡ sau nhiều năm xa cách. Đừng gặp vội…”. Cách trả lời như vậy không phải là của một đứa bé đang rong chơi trong cái thiên đường tuổi thơ của mình, trong quê nhà vĩnh cửu của mình. Dường như ý niệm này tôi đã có lần gặp trong sách “Nẻo về của ý” của Nhất Hạnh. Đoạn ông kể về một thằng bé đang ngồi trên bậu cửa nhà vừa ăn cơm vừa ngắm cảnh mưa ngoài đường, ngắm đến quên cả ăn bởi thích thú mê say cái cảnh ngoài kia. Nào là hai đứa trẻ đẩy một chiếc xe mây, bánh gỗ, trên xe có em bé ngồi, tất cả đều ở truồng. Nào là chiếc xe lăn trong mưa gặp những vũng nước tung tóe… Và cho đến khi thằng bé bị cha mẹ gọi vào nhà. Vậy là chấm dứt cái giấc mơ thiên đường của nó. Nhất Hạnh viết tiếp: “Người ta không biết được rằng những phân biệt, những mừng tủi, những toan tính giết chết thiên đường. Xin đừng la mắng ánh sáng, đừng la mắng suối trong, đừng la mắng những con chim mùa xuân bé nhở”. Chuyện kể của Bùi Giáng khác câu chuyện của Nhất Hạnh ở chỗ, Bùi Giáng tự nhiên như nhiên là một trẻ thơ trong cái thiên đường quê nhà vĩnh cửu không ai có quyền tước đoạt. Gọi đó là đạo hạnh (éthique) thì đấy là nơi mà nghệ thuật và đời sống đã hòa hợp như một tôn giáo, nơi thời gian đến hoặc đi đều bất lực trước “Tâm hồn như lộc trang đời như điên”.

Du xuân trên quê hương Bùi Giáng là đi giữa đôi bờ hư-thực, khi thì những làng quê trong trẻo thanh bình rất cụ thể: “Vĩnh Trinh Lệ Trạch Thanh Châu” với những con người cũng mười mươi xương thịt “-Ủa,phải anh Sáu Giáng đó không? – Và cô, cô có phải cô Bông năm nào?”, lúc thì siêu hình “Về nguyên thủy giục giang hà dội âm”. Nhưng, quả thực đi trên những lối gập ghềnh đường quê này, có lúc mình quên khuấy chính mình, quên sự hiện hữu này để nhớ tới một hiện hữu khác. Mà kể cũng lạ, không dưng mà tôi gặp ai cũng mang chút dáng dấp hình hài Bùi thi sĩ. Chẳng phải họ làm dáng hoặc đánh bóng cái tâm hồn mình cho nó lộ ra cốt cách gì đâu. Tất cả cũng đều hồn nhiên trong trẻo, thơ dại thực lòng. Họ là nông dân, anh thợ cắt tóc, em thợ may vá, chú sửa xe đạp… Lam lũ, lam lũ và lam lũ. Chiều chiều, sau giờ nhọc nhằn cơm áo (dù có Tết rượt sau lưng), kéo ra ngồi quành tròn ở cái quán cóc nào đó để véo von thơ Bùi Giáng. Khi thì bay bổng chín tầng mây: “Mưa có tạnh nhưng chân trời còn mãi. Những giọt sương là lệ ở trong mây”. Lúc thì cất tiếng òa vỡ niềm hoan lạc: “Làm con gấu con beo con bò rừng con hổ. Làm con chồn lùi lũi chạy vào hang”… Đừng lầm tưởng, rượu mới là chủ đề chính cho những cuộc như thế, mà là chính bởi thơ Bùi thi sĩ thúc giục. Và rồi cũng chẳng phải say đâu, bỗng dưng gương mặt nào cũng trẻ thơ ra, cũng đa tình sướt mướt: “Em ở lại với đời ta em nhé / Em đừng đi. Cho ta nắm tay em/.Ta muốn nói bằng thơ bay nhè nhẹ/ Vào trong mơ em mộng giấc êm đềm”.

Làm sao tôi có thể đứng bên ngoài những cuộc ấy. Và vì thế, du xuân trên làng quê của Bùi thi sĩ, thoạt đầu cũng chỉ khơi vơi bắt chước thi sĩ mà “Sơ khai du mục tầm phương thảo”, nhưng hương cỏ người xưa đâu để mà du mục đi tìm, nên cũng sà vào cái quành tròn thơ dại ấy cho thỏa niềm mong ước “Mai sau hẹn với ban đầu. Chờ nhau ngõ khác ngó màu Nguyên xuân”. Và thưa thi sĩ, làng trên xóm dưới của Người ngày xuân đang tưng bừng thanh tân cái đẹp “Liên tồn trong ngọc ngoài ngà. Tình yêu tái lập giang hà hồi sinh”… Những tiếng nói thơ dại quanh đây, những con mắt trong veo chứa chan niềm hoan lạc quanh đây, ngẫu nhiên làm sao cũng kịp kỳ hẹn trở về:

“Với xuân xanh vẫn cùng nhau hẹn ngày” !

 

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây