Giới thiệu khái quát huyện Như Thanh

huyện Như Thanh - Tỉnh Thanh Hóa

Giới thiệu khái quát huyện Như Thanh

Theo quốc lộ 45A về phía nam, qua huyện Nông Cống là địa phận huyện Như Thanh. Với vị thế của một huyện miền núi, nằm ở phía tây tỉnh Thanh Hoá, Như Thanh tiếp giáp với huyện Triệu Sơn, Thường Xuân ở phía bắc; huyện Tĩnh Gia và tỉnh Nghệ An ở phía nam; huyện Nông Cống ở phía đông và huyện Như Xuân ở phía tây.

Diện tích tự nhiên: 588,29 km2 – Dân số: 85.629 người, với 3 dân tộc chủ yếu: Kinh, Thái, Mường – Ðơn vị hành chính: 1 thị trấn, 16 xã – Sản lượng lương thực (quy thóc): 26.418 tấn – Cơ cấu kinh tế: nông – lâm nghiệp: 74,2%, công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp: 11,4%, thương mại – dịch vụ: 14,4% – Thu nhập bình quân đầu người: 2,2 triệu đồng/năm – Bình quân lương thực đầu người: 335 kg/năm. Thực hiện Nghị định 72/CP của Chính phủ ngày 18-11-1996, Như Thanh được thành lập trên cơ sở tách ra từ huyện Như Xuân. Tên gọi Như Thanh là tên ghép từ hai địa danh Như Xuân và Thanh Hóa. Kể từ đó, Như Thanh bước vào giai đoạn phát triển mới, thời kỳ thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn bằng việc ứng dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật, đầu tư có trọng điểm để hình thành một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá; đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá huyện nhà nhằm hướng tới mục tiêu; “Dân giàu, huyện mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”

Sức trẻ Như Thanh
Ngay từ khi được thành lập, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng với một đội ngũ cán bộ trẻ, năng động được bố trí, sắp xếp hợp lý đã tạo cho Như Thanh nền tảng vững cho sự phát triển vượt bậc trong những năm qua. Theo đó, với mục tiêu đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế huyện, Ðại hội Ðảng bộ huyện Như Thanh lần thứ I (nhiệm kỳ 1997 – 2000) đã chỉ rõ: “Phát huy truyền thống đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, sáng tạo, tranh thủ thời cơ, vượt qua mọi khó khăn thách thức, tổ chức khai thác tiềm năng thế mạnh và các nguồn lực của địa phương; qua đó tạo bước phát triển mới và tăng trưởng nhanh, phát huy hiệu quả cao của nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần theo cơ cấu: nông – lâm, công nghiệp – thủ công nghiệp, thương mại – dịch vụ, là những ngành trọng tâm, hướng tới giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, thương mại – dịch vụ, tiến tới tăng nhanh cơ cấu về du lịch. Mục tiêu của huyện đề ra với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 14,5%/năm”.
Ðể đạt được những mục tiêu cơ bản đó, huyện đã nỗ lực phấn đấu với quyết tâm đưa Như Thanh lên một tầm cao mới. Nhờ đó, những mục tiêu này bước đầu đã được thực hiện thành công. Trong đó:
Về sản xuất nông nghiệp, thực hiện chủ trương, chính sách của tỉnh trong phát triển kinh tế các huyện miền núi, Như Thanh đã tập trung triển khai công tác khuyến nông trên phạm vi toàn huyện. Việc tích cực chuyển hướng cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đầu tư thâm canh, tăng năng suất cây trồng, ứng dụng các tiến bộ khoa học – kỹ thuật, thực hiện kiên cố hoá kênh mương (67km); tập trung canh tác các loại cây trọng điểm đã thu được nhiều kết quả khả quan.
Trong năm 2002, tổng diện tích gieo trồng đạt 12.415 ha, trong đó cây lúa chiếm 5.865 ha (lúa cạn: 150 ha), cây ngô 780 ha, cây khoai lang 1.080 ha, cây sắn 150 ha, cây lạc 600 ha, các cây rau, đậu, vừng 876 ha. Ðặc biệt, huyện đã tích cực xây dựng vùng cây công nghiệp tập trung, tạo nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Trong đó, diện tích trồng cây mía đạt 3.000 ha (năng suất bình quân đạt 60 tấn/ha), cây dứa đạt trên 700 ha, dâu tằm 150 ha và 1.000 ha cao su, cà phê… Những thành quả đạt được trên mặt trận nông nghiệp đã góp phần nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp trên địa bàn, chuyển nền nông nghiệp Như Thanh từ tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá.
Trọng tâm trong sản xuất nông – lâm nghiệp huyện Như Thanh thời gian qua là canh tác cây lúa nước. Việc đưa 50% lúa lai có năng suất cao, đủ sức chịu hạn trong thời tiết khắc nghiệt đã mang lại những kết quả khả quan, đưa tổng sản lượng (quy thóc) năm 2002 đạt 26.418 tấn, tăng 418 tấn so với năm 2001, trong đó sản lượng cây có hạt đạt 24.815 tấn. Bình quân lương thực tính theo đầu người năm 2002 đạt 335kg/năm.
Về chăn nuôi, tiếp tục được quan tâm đầu tư phát triển. Ðại hội Ðảng bộ huyện lần thứ II đã xác định: “Ðưa chăn nuôi phát triển ngang tầm với ngành công nghiệp”. Hiện nay, đàn gia súc của toàn huyện Như Thanh ngày một tăng, trong đó đàn trâu có 14.204 con, đàn bò 5.078 con, đàn lợn có 26.120 con. Ngoài ra, huyện đang triển khai dự án sind hoá đàn bò, từng bước cải tạo đàn bò hiện có và phát triển đàn bò sữa. Ðặc biệt trong những năm gần đây, ngoài chăn nuôi đại gia súc, nhân dân huyện Như Thanh cũng đưa thêm một số giống con khác vào chăn thả để đa dạng hoá vật nuôi như: chăn nuôi gia cầm, dê, ong. Ngoài ra, toàn huyện còn có 214 ha ao hồ nuôi cá với sản lượng cá ước tính đạt 406 tấn/năm. Huyện đã chú trọng thực hiện dự án phát triển chăn nuôi lợn hướng nạc xuất khẩu ở Yên Thọ và thị trấn Bến Sung (với 132 con lợn giống). Cho đến nay, huyện Như Thanh đang dẫn đầu các huyện miền núi trong tỉnh về triển khai nuôi lợn hướng nạc xuất khẩu. Ðể đạt được kết quả đó, huyện đã tổ chức cho bà con xã viên đi tham quan học tập mô hình chăn nuôi giỏi tại các huyện, tỉnh lân cận. Mô hình các gia đình, trang trại nuôi lợn hướng nạc xuất khẩu thành công (với quy mô 100 – 300 con), được xem như tiền đề thúc đẩy các hộ dân khác trong huyện chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá.
 Song, nét nổi bật trong sản xuất nông-lâm nghiệp huyện Như Thanh thời gian qua là phát triển nhanh mô hình kinh tế trang trại. Ðến nay, toàn huyện hiện có trên 1.200 trại rừng, trong đó có 144 trại rừng đạt tiêu chuẩn quy mô cấp tỉnh. Ðây chính là những động thái quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện, mở ra vùng nguyên liệu mía với khoảng 3.200 ha, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu sản xuất của Nhà máy Ðường Nông Cống; vùng nguyên liệu dứa quy hoạch được hình thành với gần 2.000 ha phục vụ cho nhà máy chế biến dứa xuất khẩu sẽ được xây dựng tại Như Thanh. Bên cạnh đó, dự án trồng 5 triệu ha rừng của Chính phủ cũng đang tiếp tục được huyện triển khai hiệu quả.
Những thành công trong phát triển kinh tế trang trại, vườn rừng đã và đang tạo ra cơ cấu kinh tế nông – lâm nghiệp hợp lý, thu hút hàng ngàn lao động, đồng thời khẳng định vai trò và tác dụng của các nhân tố mới trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tạo mối quan hệ hợp tác đồng bộ giữa các thành phần kinh tế, nâng cao vai trò chủ đạo của các lâm trường và tự chủ của kinh tế hộ, hình thành các tổ hợp tác trong sản xuất-kinh doanh. Hiện nay, huyện Như Thanh đã cơ bản hoàn thành việc giao đất lâm nghiệp cho các doanh nghiệp, tập thể, hộ gia đình với diện tích gần 44.000 ha rừng và đất rừng. Việc chuyển hướng nghề rừng sang nền lâm nghiệp xã hội với trọng tâm là khoanh nuôi tái sinh, chăm sóc, bảo vệ, kết hợp với trồng mới, nhất là đối với rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn đã mang lại những kết quả khả quan. Nếu năm 1997 có 37% độ che phủ của rừng thì đến năm 2002 đã đạt 51,3%.
Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp có những bước chuyển biến mạnh trong những năm gần đây, chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp chế biến. Sản phẩm ngày một phong phú và đa dạng, nhiều mặt hàng đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, như gia công kim loại, chế biến lương thực, thực phẩm, ươm tơ, đá xẻ,… Ðồng thời, với nguồn tài nguyên đá, quặng dồi dào đã tạo điều kiện cho ngành công nghiệp khai thác phát triển. Nhiều cơ sở mới được thành lập như khai thác phụ gia (Yên Lạc, Thanh Tân), quặng crôm (Mậu Lâm), quặng sắt (Thanh Kỳ), đá xẻ và đá xây dựng (Hải Vân, Hải Long, Xuân Khang). Năm 2002, sản lượng khai thác quặng crôm đạt 10.700 tấn, đá xây dựng các loại 32.500m3, khai thác phụ gia xi măng 5.200 tấn, quặng sắt 3.500 tấn, cát sỏi 24.000 m3,… Tốc độ phát triển ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp đạt xấp xỉ 16%/năm.
Hoạt động dịch vụ – thương mại đã mở rộng đến các thôn, bản, vùng sâu, vùng xa, đáp ứng nhu cầu trao đổi hàng hoá, cung cấp những nhu yếu phẩm cần thiết phục vụ cho đời sống của các dân tộc trong huyện. Giá trị dịch vụ – thương mại tăng bình quân 16%/năm, chiếm tỷ trọng 14,4% GDP (năm 2002). Giá trị hàng xuất khẩu năm 2002 tăng hơn 200% so với năm 1997 (năm 1997 đạt 220.000 USD).
Hoạt động ngân hàng, kho bạc đã thực sự góp phần thúc đẩy phát trển kinh tế – xã hội. Hệ thống ngân hàng, kho bạc huyện đã làm tốt công tác huy động vốn nhàn rỗi trong nhân dân, kết hợp nguồn vốn nhà nước, tăng vốn cho vay đầu tư phát triển sản xuất – kinh doanh, xoá đói giảm nghèo. Trong những năm qua, số vốn mà hệ thống ngân hàng, kho bạc huyện huy động đã tăng từ 14 tỷ đồng (năm 1997) lên 72 tỷ đồng (năm 2002). Tổng dư nợ cho vay xoá đói giảm nghèo đến nay là 12,5 tỷ đồng.
Những động lực góp phần phát triển kinh tế – xã hội
Ðể có được những thành tích trong phát triển kinh tế, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Việc phát huy nội lực, kết hợp vốn của nhân dân với nguồn vốn đầu tư nhà nước đã mang lại những kết quả đáng ghi nhận. Trong 6 năm qua, huyện đã đầu tư hơn 91,6 tỷ đồng, xây dựng 70 công trình phục vụ cho kết cấu hạ tầng, nâng cấp 25 km quốc lộ 45, tu sửa cải tạo 81 km đường liên xã, tạo thuận lợi cho giao lưu giữa các vùng miền, mở mang phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Kiên cố hoá 63,7 km kênh mương nội đồng, tu bổ làm mới nhiều công trình thuỷ lợi.
Sáu năm, một chặng đường không dài, nhưng hệ thống thông tin liên lạc huyện Như Thanh đã có bước phát triển nhảy vọt. Nếu năm 1997, mới có một trạm bưu điện huyện thì đến nay đã xây dựng thêm được 10 điểm bưu điện văn hóa xã; 12/17 xã, thị trấn có điện thoại. Ðến nay, toàn huyện đã có 630 máy hoà mạng, tạo điều kiện cho thông tin liên lạc thông suốt, kịp thời, phục vụ đắc lực cho công tác lãnh đạo, điều hành của các cấp, các ngành và các hoạt động dịch vụ thương mại, phát triển kinh tế – xã hội, giao lưu tình cảm của nhân dân. Bên cạnh đó, toàn huyện hiện có 79 làng xây dựng làng văn hoá, 4 cơ quan văn hoá, 8 trường văn hoá, trong đó có 25 làng được công nhận làng văn hoá cấp huyện và 3 làng công nhận làng văn hoá cấp tỉnh.

Ðể Như Thanh vững bước trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhất là trong khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn, trước tiên cần phải đẩy mạnh sự nghiệp phát triển giáo dục. Nhận thức được vấn đề này, huyện Như Thanh đã triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII). Nếu năm 1997, toàn huyện chỉ có 45 trường, 915 lớp và 24.000 học sinh, trong đó phòng học tranh tre, nứa lá chiếm gần 60% thì đến nay đã có 54 trường, 992 lớp và 29.470 học sinh. Hiện nay, toàn huyện chỉ còn 27% phòng học tranh tre, nứa lá. Chất lượng giảng dạy được tăng lên, chất lượng đại trà, chất lượng học sinh giỏi tăng đều qua các năm. Tính đến hết quý I-2003, toàn huyện có 100% xã được công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, 9 xã đã hoàn thành phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở đúng độ tuổi; 3 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia. Hàng năm, số học sinh tốt nghiệp các cấp đạt 97 – 98%; số học sinh phổ thông trung học thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp đạt trên 15%. Những kết quả đó thể hiện sự cố gắng, nỗ lực của Ðảng bộ, các ngành, đặc biệt là ngành giáo dục Như Thanh trong sự nghiệp “Vì lợi ích trăm năm trồng người”.

Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ của nhân dân được quan tâm đúng mức. Mạng lưới y tế được mở rộng từ cấp huyện đến cấp cơ sở; thiết bị khám, chữa bệnh được đầu tư mới. Nhờ vậy, số lượt người được khám, chữa bệnh đạt trên 20 người/vạn dân. Chất lượng khám, chữa bệnh được đảm bảo, công tác y tế dự phòng, vệ sinh an toàn thực phẩm và chương trình tiêm chủng mở rộng được thực hiện tốt. Ðến nay, toàn huyện đã có 85% số hộ gia đình được dùng nước sạch, trẻ em suy dinh dưỡng giảm còn 27%. Bên cạnh đó, công tác kế hoạch hoá gia đình được triển khai rộng khắp trên địa bàn huyện, nếu năm 1997 tỷ lệ tăng dân số là 2,3% thì đến năm 2002 đã giảm xuống còn 0,97%.
Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa đã trở thành phong trào rộng khắp trong toàn huyện. Bằng nguồn vốn đền ơn đáp nghĩa, phong trào đã xây dựng được 17 nhà tình nghĩa và sửa chữa hàng trăm nhà cho các đối tượng chính sách; xây dựng 01 đài tưởng niệm ở huyện và 05 nhà bia tưởng niệm liệt sỹ tại các xã. Chăm lo tốt cho các đối tượng cứu trợ xã hội do hậu quả chiến tranh, những người già cô đơn, tàn tật. Bằng nguồn vốn vay của các chương trình định canh định cư, kinh tế mới và các chương trình, dự án khác đã tạo thêm việc làm, khai thác tiềm năng đất đai, lao động, góp phần tích cực vào công tác xoá đói giảm nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 37% (năm 1997) xuống còn 13% (năm 2002). Ðời sống vật chất và tinh thần của phần lớn đồng bào các dân tộc trong huyện đã được cải thiện, tạo nên diện mạo nông thôn mới.
Công tác an ninh, chính trị – quốc phòng, nhất là trong công tác an ninh nông thôn, an ninh vùng miền núi, an ninh tôn giáo được giữ vững. Phong trào quần chúng bảo vệ Tổ quốc phát triển cả bề rộng và chiều sâu. Công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm, chống các tệ nạn xã hội được triển khai thường xuyên, đồng bộ, đã góp phần đảm bảo an toàn xã hội, giảm số vụ phạm tội phạm và các vụ trọng án, giữ vững sự bình yên cho nhân dân.
Sau 6 năm xây dựng và trưởng thành, sức trẻ Như Thanh đã được khẳng định là nhờ vào sự chỉ đạo, lãnh đạo, sáng suốt, năng động của Ðảng bộ, chính quyền, các tổ chức đoàn thể, xã hội và sự đoàn kết một lòng giữa các dân tộc trong huyện đã chung sức, chung lòng, quyết tâm dựng xây Như Thanh giàu về kinh tế, mạnh về chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Mặt khác, nhờ sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, cùng các ban, ngành chức năng, Như Thanh đã biết phát huy nội lực, khai thác tiềm năng, thế mạnh sẵn có, dần trở thành huyện miền núi dẫn đầu trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Như Thanh với những dấu tích lịch sử (Lê Lợi trước khi vào Nghệ An đã trú quân tại các xã Thanh Kỳ, Phượng Nghi, Xuân Khang, Xuân Thái,…), Ðồng Mười xã Hải Vân là căn cứ của phong trào Cần Vương chống Pháp do Tôn Thất Hàm lãnh đạo. Thời kháng chiến chống Pháp, lò cao Hải Vân được xây dựng để phục vụ kháng chiến. Vườn Quốc gia Bến En có diện tích 16.643 ha (dự kiến mở rộng thành 32.000 ha): bảo tồn rừng nguyên sinh với các nguồn gen động – thực vật quý hiếm như: voi, hổ, báo,… lim xanh, táu, sến, trắc, gụ,… kết hợp với hồ sông Mực có hơn 100 đảo nhỏ nổi trên mặt hồ tạo thành một quần thể du lịch sinh thái hấp dẫn; với Phủ Sung (thờ Bà chúa Thượng ngàn) ở xã Hải Vân, phủ Na (thờ Bà Triệu Thị Trinh) ở xã Xuân Du, hồ ông Quận ở thị trấn Bến Sung (chuyện về vị tướng nghĩa quân Lam Sơn). Những di tích, cảnh vật đó đã mở ra triển vọng to lớn cho sự phát triển của ngành du lịch Thanh Hoá.
Bảng vàng thành tích của huyện Như Thanh
         – Huân chương Lao động hạng Ba (năm 2001).
         – 04 năm liên tục (1998 – 2001) được tặng cờ thi đua của Chính phủ.
         – Bằng khen của Bộ Giao thông – Vận tải về phát triển mạng lưới giao thông (năm 1998).
         – Bằng khen của Bộ Công an về thực hiện Nghị quyết 09 và Quyết định 138 về phòng chống tội phạm (năm 2002).
         – Bằng khen của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (năm 2000).
         – Cờ thi đua tiên tiến của Bộ Văn hoá – Thông tin (năm 2002).
         – 02 xã Hải Vân, Cát Khê được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang.
         Ngoài ra còn nhiều bằng khen, giấy khen của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh và các sở, ban, ngành.

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây