Giới thiệu khái quát huyện Trấn Yên

huyện Trấn Yên - Tỉnh Yên Bái

Giới thiệu khái quát huyện Trấn Yên

Trấn Yên là một huyện vùng thấp nằm ở phía Nam tỉnh Yên Bái, trên toạ độ địa lý từ 21031’48’’ đến 21047’38’’ vĩ độ Bắc; từ 104038’37’’ đến 104059’00’’ kinh độ Đông. Phía Bắc Trấn Yên giáp với huyện Văn Yên và huyện Yên Bình, phía Nam giáp với huyện Văn Chấn, phía Tây giáp huyện Văn Chấn và huyện Văn Yên, phía Đông giáp huyện Yên Bình và thành phố Yên Bái và tỉnh Phú Thọ.

1. Đặc điểm tự nhiên

Huyện Trấn Yên có diện tích tự nhiên là 628,58 km2. Trấn Yên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình từ 23,1 – 23,9 độ, nhiệt độ cao nhất là 38,90C, thấp nhất là 3,30C.

Trung tâm huyện là thị trấn Cổ Phúc nằm trên tỉnh lộ 161, cách thành phố Yên Bái 15km về hướng Tây Bắc, cách Hà Nội gần 200km. Có hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ rất thuận lợi cho việc đi lại và trao đổi  hàng hoá giữa các địa phương trong và ngoài huyện. Các ga Văn Phú, Cổ Phúc và Ngòi Hóp của tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai – Côn Minh nằm tại huyện này.

Trấn Yên là địa bàn chuyển tiếp về địa hình từ trung du lên miền núi, phía Đông Bắc là đường sông núi của dãy Púng Luông, thung lũng sông Hồng chạy giữa cắt huyện thành hai phần không đều nhau, hơi lệch về phía núi Con Voi.

Độ cao trung bình toàn huyện là 100m, nơi thấp nhất có độ cao là 20m. Địa hình cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc. Các xã phía Nam phần lớn có địa hình đồi bát úp, đỉnh bằng, sườn thoải. Các xã nằm dưới chân núi Con Voi là Púng Luông có địa hình phức tạp, độ dốc lớn, bị chia cắt mạnh.

Hệ thống sông ngòi Trấn Yên nằm trong hệ thống sông Hồng. Sông Hồng đoạn chảy trên địa bàn Trấn Yên dài 50km, chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Đây là tuyến giao thông đường thuỷ quan trọng nhất của huyện Trấn Yên, song về mùa lũ các diện tích canh tác của các xã ven sông thường hay bị ngập lụt. Trên địa bàn Trấn Yên có 32 ngòi suối đổ vào sông Hồng, phân bố tương đối đều trên địa bàn. Các ngòi suối đều ngắn và dốc, vào mùa mưa thường xảy ra lũ ống và lũ quét gây thiệt hại cho đời sống dân sinh và sản xuất nông nghiệp.

Huyện Trấn Yên có một số khoáng sản có giá trị kinh tế như: Quặng sắt phân bổ ở Việt Hồng, Lương Thịnh, Hưng Thịnh, Hưng Khánh, Hồng Ca, Kiên Thành với tổng trữ lượng trên 91 triệu tấn, riêng mỏ quặng sắt ở Kiên Thành có hàm lượng trên 60%, hiện đang được khai thác; đá thạch anh phân bố tại xã Hoà Cuông, Việt Hồng, Lương Thịnh, Kiên Thành, Y Can trữ lượng trên 52 nghìn tấn, chất lượng đạt yêu cầu cho sản xuất kính và sứ; Quặng Graphit phân bố tại xã Báo Đáp, Đào Thịnh, Nga Quán. Ngoài ra trên địa bàn huyện còn có các mỏ cao lanh tại Cường Thịnh trữ lượng 150.000 tấn; mỏ sét ở Bảo Hưng, Y Can, Đào Thịnh…

Vật liệu xây dựng như: đá xây dựng, cát sỏi, vật liệu sản xuất gạch có trữ lượng lớn được phân bố rộng trên địa bàn huyện; đá xây dựng tại Hang Dơi Minh Quán, Việt Cường, Việt Hồng, Kiên Thành.

2. Quá trình hình thành

Trấn Yên mảnh đất cửa ngõ miền Tây Bắc Tổ quốc, một miền núi vùng thấp của tỉnh Yên Bái. Cộng đồng dân tộc Trấn Yên cư trú trên mảnh đất này từ nhiều đời nay. Sự phát hiện di chỉ Đào Thịnh (năm 1959) với hàng trăm hiện vật: Đồng thau, gốm thô và những công cụ đá mài đã khẳng định di chỉ Đào Thịnh là di chỉ đá đồng. Thạp đồng tìm thấy ở Đào Thịnh có tuổi 3000 + 120 năm và những hiện vật khác cho phép ta kết luận cộng đồng dân tộc Trấn Yên đã cư trú và khai phá vùng đất này- từ buổi các vua Hùng dựng nước.

Theo “Hưng hoá phong thổ lục” của Hoàng Trọng Chính: Huyện Trấn Yên nguyên là đất Châu Đăng thời Lý. Tên huyện đặt từ thời Lê, đời Gia Long (1802) vẫn như thế. Đến năm Minh Mệnh thứ 17, đổi trang làm xã, lãnh 4 tổng, 30 xã, thuộc Phủ Quy Hoá, Trấn Hưng Hoá.

Diện tích đất đai của huyện Trấn Yên thay đổi theo quá  trình phát triển của lịch sử. Sau cách mạng tháng 8 toàn huyện có 52 xã trong đó thị xã Yên Bái là tỉnh lỵ lại vừa là huyện lỵ. Cuối năm 1953 tỉnh cắt xã Nguyễn Phúc và 4 dãy phố của thị xã Yên Bái ra khỏi Trấn Yên để xây dựng thị xã thành đơn vị hành chính độc lập. Tháng 3 năm 1965 lại tiếp tục cắt 19 xã thuộc vùng thượng huyện từ Ngòi Hóp lên tới Ngòi Hút để thành lập huyện Văn Yên mới. Đầu năm 1980 tỉnh quyết định chuyển 4 xã: Tuy Lộc, Nam Cường, Minh Bảo, Tân Thịnh về thị xã để xây dựng thị xã mới hoàn chỉnh kinh tế nông, lâm, công nghiệp.

Năm 2008 thực hiện Nghị định 87/2008/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Trấn Yên để mở rộng thành phố Yên Bái và huyện Yên Bình. Huyện Trấn Yên còn lại 21 xã và 01 thị trấn.

Là miền đất có bề dày về lịch sử văn hoá, trong huyện có 6 dân tộc anh em đã sinh sống nhiều đời, nhiều thế kỷ sát cánh bên nhau, phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ quê hương đất nước.

3. Địa lý hành chính

Hiện nay huyện Trấn Yên hiện có 22 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 1 thị trấn và 21 xã: Vân Hội, Tân Đồng, Hưng Khánh, Đào Thịnh, Hồng Ca, Việt Cường, Lương Thịnh, Hòa Cuông, Báo Đáp, Cường Thịnh, Minh Quán, Nga Quán, Quy Mông, Kiên Thành, Y Can, Minh Tiến, Việt Thành, Bảo Hưng, Việt Hồng, Minh Quân, Hưng Thịnh và thị trấn Cổ Phúc.

Lịch sử văn hóa

Trấn Yên là một huyện miền núi, nằm ở vùng thấp của tỉnh Yên Bái. Từ ngàn đời nay cộng đồng các dân tộc trên quê hương Trấn Yên, đã bảo tồn, phát huy giá trị  và phát triển nền văn hóa phong phú đa sắc tộc. Theo suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, nhân dân Trấn Yên luôn phát huy những truyền thống tốt đẹp: cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, anh dũng, kiên cường trong đấu tranh cách mạng. Ngay từ buổi đầu dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, nhân dân đã đoàn kết và anh dũng chiến đấu chống thực dân Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương của thủ lĩnh Nguyễn Quang Bích, tiếp theo là cuộc đấu tranh trong phong trào Giáp Dần nổi tiếng năm 1914, Khởi nghĩa Yên Bái của Quốc dân Đảng và các phong trào khởi nghĩa yêu nước khác. Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo, truyền thống đó càng được khơi dậy và phát huy mạnh mẽ, góp phần viết nên những trang sử đầy tự hào của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện.

Ngày nay trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, Đảng bộ huyện Trấn Yên đã và đang quán triệt sâu sắc đường lối cách mạng của Đảng để lãnh đạo và động viên nhân dân tiếp tục phát huy cao nhất truyền thống văn hóa, truyền thống cách mạng của mình vào sự nghiệp: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Là miền đất có bề dày văn hóa, trong huyện có 6 dân tộc anh em đã sinh sống nhiều đời, nhiều thế kỷ sát cánh bên nhau, phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ quê hương, đất nước.

Dân số tính đến năm 2015 là 83.500 người. Mật độ dân số 133 người/km2, tỷ lệ tăng dân số 1,17%/năm.

1. Về thành phần dân tộc.

 Người Kinh: Năm 2015, có 55.332 người chiếm 66,62%, sinh sống chủ yếu ở các xã vùng ngoài và các xã phía Nam của huyện. Vùng hai bên bờ sông Hồng đã được người Kinh khai khẩn từ lâu đời, lập nên làng xóm đông đúc trù phú như vùng trung du Bắc bộ. Người Kinh ở Trấn Yên sinh cơ lập nghiệp vào các thời kỳ: Thời kỳ đầu di thực từ Phú Thọ, Việt Trì theo sông Hồng đến khai phá những vùng đất phù sa ven sông và cửa các con ngòi lớn, sau đó trở thành người bản địa đã sinh sống nhiều đời trên mảnh đất này. Tiếp đó là các đợt di thực vào thời kỳ thuộc Pháp, họ gồm phu kíp xây dựng đường sắt Yên Bái – Lào Cai, nông dân được mộ lên làm trong các đồn điền, một số bị thực dân mộ đi khai thác hầm mỏ, làm các công trình quân sự, số khác đi khai thác lâm thổ sản… chủ yếu là người ở các tỉnh đồng bằng như Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Hà Đông, Sơn Tây. Người Nam Định, Thái Bình, Hà Nam đến sinh sống tại các vùng Bách Lẫm, Yên Lương, Bình Trà, Bình Phượng, Phú Thọ, Dao Viễn, Lan Đình, Đại An, Yên Thái, Kiên Lao, Phú Nhuận, Trái Hút và dọc đường sắt Yên Bái – Lào Cai. Năm 1932 người Kinh ở Trấn Yên có 9.541/20.071 người dân số toàn huyện.

Những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước có chủ trương điều chỉnh dân cư ở những vùng đồng bằng đông dân, đến miền núi dân cư thưa thớt lập nghiệp trong cuộc vận động đi xây dựng kinh tế văn hóa miền núi. Năm 1962, huyện đón nhận nhân dân của các tỉnh Hưng Yên, Hà Nam và Hà Nội lên lập nghiệp. Các năm 1973, 1974 lại tiếp tục nhận thêm 10.000 dân từ tỉnh Hà Nam Ninh lên xây dựng vùng kinh tế mới. Họ được định cư ở các xã Hưng Khánh, Hưng Thịnh, Hồng Ca, Lương Thịnh, Việt Thành, Đào Thịnh, Hòa Cuông, Quy Mông, Bảo Hưng. Bên cạnh đó, còn có một lượng lớn cán bộ lực lượng vũ trang, công nhân các lâm trường, xí nghiệp sau khi hoàn thành nhiệm vụ cũng ở lại định cư tại huyện. Buổi đầu định cư đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới thành lập hợp tác xã, huyện và các xã giao đất, giao rừng để họ canh tác với việc thâm canh lúa là chủ yếu. Có hợp tác xã chuyên canh cây chè đạt hiệu quả kinh tế cao. Người Kinh từ miền xuôi lên định cư ở Trấn Yên mang theo những đặc điểm về văn hóa làng xã, dòng họ như các tỉnh miền xuôi, có nơi mang theo cả nghề truyền thống và xây dựng những làng nghề tại quê hương mới.

Cuộc vận động chuyển dân để xây dựng nhà máy thủy điện Thác Bà, cũng chuyển một lượng đáng kể người Kinh từ thung lũng sông Chảy sang định cư ở Quy Mông, Tân Đồng, Vân Hội. Đây là những gia đình đã di thực từ miền xuôi lên định cư tại huyện Yên Bình, nay được chuyển đến định cư tại Trấn Yên.

 Người Tày: Năm 2015 có 5.025 hộ 18.419 khẩu, chiếm 19,55% dân số, sống chủ yếu ở các xã vùng sâu có các bồn địa và ven suối lớn. Họ sống tập trung thành bản, ở nhà sàn, thâm canh lúa nước, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Đây là bộ phận đã định cư lâu đời ở các xã Hồng Ca, Hưng Khánh, Lương Thịnh, Việt Hồng, Vân Hội, Việt Cường, Kiên Thành, Đào Thịnh, Báo Đáp, Tân Đồng. Nhà sàn của người Tày rất rộng, thường thì ba bốn hế hệ cùng sinh sống trong một ngôi nhà. Người Tày đoàn kết thân ái với người Kinh và các sắc tộc khác. Trong quá trình sinh sống luôn giữ gìn môi trường sinh thái. Người Tày ở Hưng Khánh, Hồng Ca, Lương Thịnh là chủ nhân của các làn điệu then với đàn tính rộn ràng trong các ngày lễ tết.

Người Tày ở Tân Đồng, Báo Đáp, Đào Thịnh đã chuyển sang xây dựng nhà đất để tiện sinh hoạt và giảm việc chặt gỗ làm nhà sàn với khối lượng lớn. Người Tày vùng Việt Hồng, Vân Hội có truyền thuyết và truyện cổ tích kể về Nàng Nả chung thủy với người mình yêu là anh nghè họ Phạm.

 Người Dao: Theo điều tra và phân loại, người Dao thuộc nhiều nhánh như Dao Tiền, Dao Quần Trắng, Dao Đại Bản…Người Dao trong huyện định cư sau người Tày, họ có tập quán sống ở các sườn núi cao từ 300 – 400 m so với mặt biển. Năm 2015 có 1.684 hộ 7120 khẩu, chiếm 7,73% dân số .

Trước những năm 1970, người Dao sống chủ yếu trên vùng núi, ở các ngọn suối, canh tác cơ bản là phát rừng làm nương, rẫy. Trong cuộc vận động xây dựng hợp tác xã, huyện đã kiên trì vận động và tổ chức các điều kiện hạ sơn để người Dao xuống núi làm ruộng nước. Những khu khai hoang vận động hạ sơn điển hình là khu Bát Lụa, Vực Tròn (Lương Thịnh), Minh An (Y Can). Đến giữa những năm 1970 người Dao đã hạ sơn, định canh định cư xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp ở các xã Việt Cường, Lương Thịnh, Y Can, Kiên Thành, Tân Đồng.

Người Dao có tập quán trồng bông dệt vải, nhuộm chàm, họ có những điệu nhảy trong lễ lập tĩnh, cấp sắc và những ngày hội cầu mùa. Hiện nay, tập quán kéo sợi dệt vải không còn, nhưng thay vào đó là một truyền thống mới là trồng quế làm của hồi môn cho con khi xây dựng gia đình. Thời kỳ thuộc Pháp vào năm 1932, đã có một cuộc khảo sát về người Dao (người Mán), theo kết quả khảo sát người Dao sống chủ yếu ở thượng nguồn sông Hồng từ Bảo Hà, Trái Hút tới các xã phía Tây nam của huyện Trấn Yên với nhiều ngành khác nhau.

Người Mường: Năm 2015 có 881 hộ 2.905 khẩu, chiếm 2,36% dân số. Người Mường có nguồn gốc từ tỉnh Hòa Bình di cư lên huyện Thanh Sơn (Phú Thọ), sau đó đã di thực theo sông Hồng lên cư trú tại xã Quy Mông cách đây khoảng 150 năm. Họ sống thành cộng đồng trong làng Mường. Sản xuất chủ yếu là trồng cấy lúa nước, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Về trình độ canh tác và tập quán trong sinh hoạt cộng đồng có những nét tương đồng với người Kinh. Người Mường ở Quy Mông ăn tết Nguyên đán. Hiện nay vẫn còn giữ được một số nét đặc biệt về văn hóa truyền thống, như dựng cây đu đầu xuân, trồng cây nêu vào ngày tết. Điệu múa ‘mỡi’ rộn ràng, sôi động thường sử dụng vào các lễ hội cầu mùa.

 Người Mông: Trong những năm đầu miền Bắc mới được giải phóng, huyện Trấn Yên cơ bản không có người Mông. Theo điều tra năm 1932 của thực dân Pháp, toàn huyện chỉ có 77 người Mông sống rải rác ở các xã vùng cao miền thượng huyện. Từ những năm tám mươi của thế kỷ XX, người Mông du cư từ Trạm Tấu, Văn Chấn đến ở các xã giáp ranh của huyện, sau đó họ về ở tập trung ở Hồng Lâu (Hồng Ca), Đồng Ruộng (Kiên Thành).

Đến năm 2015, toàn huyện có 1.923 người chiếm 2,22.%, sống ở 05 thôn, đó là Hồng Lâu, Khuôn Bổ, Khe Tiến, Khe Ron của Hồng Ca và Đồng Ruộng của Kiên Thành. Người Mông hiện đã sống định canh, định cư trồng cấy lúa nước, trồng rừng và chăn nuôi gia súc, gia cầm không trồng thuốc phiện. Khèn bè và sáo Mông là 2 nhạc cụ độc đáo thường được sử dụng vào các lễ hội. Kèn lá được thanh niên nam nữ sử dụng để gọi bạn tình và trao duyên.

 Người Cao Lan: Năm 2015 có 325 hộ, 1.101 nhân khẩu chiếm 1,5% dân số, sống chủ yếu ở các xã phía đông của huyện như Minh Quán, Hòa Cuông, Tân Đồng, đồng bào người Cao Lan định cư trồng lúa nước làm nương rẫy chăn nuôi phát triển kinh tế, người Cao Lan có các điệu múa pănglóng, xúc tép, chim gâu rất duyên dáng và giàu hình tượng. Họ có nhiều cố gắng xóa bỏ những tập tục lạc hậu, như phá rừng, du canh du cư, mê tín dị đoan để đoàn kết cùng các dân tộc xây dựng quê hương .

Ngoài 6 dân tộc chính đã nêu, trên địa bàn huyện còn có các dân tộc khác cùng sinh sống là Thái, Nùng, Hoa… chiếm 0,32% dân số toàn huyện.

2. Các di sản văn hóa.

Đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng các dân tộc huyện Trấn Yên rất phong phú, chủ yếu là văn hóa phi vật thể bao gồm văn hóa tinh thần của người Kinh, với những tinh hoa văn hóa đồng bằng và trung du Bắc Bộ, văn hóa tinh thần giàu bản sắc của đồng bào Tày, Dao, Mường, Cao Lan, Mông. Đặc biệt, đây là vùng giao thoa văn hóa giữa vùng miền núi Đông bắc với vùng miền núi Tây bắc, giữa miền xuôi với miền ngược, đã tạo nên vườn hoa văn hóa phong phú sắc màu.

Văn hóa tinh thần của cộng đồng dân tộc Trấn Yên, được hình thành từ lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước, phản ánh quá trình chế ngự thiên nhiên và mối quan hệ giữa con người với con người trong đời sống xã hội. Là một bộ phận của nền văn hóa Sông Hồng, yếu tố cơ bản của nền văn minh lúa nước.

Những di sản văn hóa chính:

* Các cổ vật đồ đồng:

Thạp đồng Đào Thịnh được ông Phạm Văn Phúc phát hiện ở thôn Đồng Gianh xã Đào Thịnh vào ngày 14/9/1961. Xã Đào Thịnh nằm bên phía tả ngạn sông Hồng cách thị xã Yên Bái 20km về phía Bắc. Chiếc thạp tìm thấy trong khối đất lở do nước sông xói mòn nằm cách mặt nước chừng 2m. Đây là một hiện vật cổ, tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn, có niên đại cách ngày nay khoảng 2.500 năm. Nếu kể cả lớp đất trồng trọt phủ ở trên, chiếc thạp nằm ở độ sâu 5m. Thạp đồng Đào Thịnh có chiều cao 0,98m, đường kính đáy 0,6m, đường kính miệng 0,61m, đường kính thân nơi phình to nhất là 0,7m; được biết đến là chiếc thạp nặng nhất từ trước đến nay và nặng khoảng 76kg. Đây là chiếc thạp lớn nhất Việt Nam trong số những chiếc đã tìm thấy. Xung quanh thạp và trên nắp thạp đều trang trí các loại hoa văn, bao gồm hoa văn kỷ hà, hoa văn bện thừng, các đường hoa văn gạch chấm mô tả các sinh hoạt xã hội và sinh vật. Ngày 01/10/2012, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 1426-QĐ-TTg về việc công nhận bảo vật quốc gia đợt 1, trong đó có thạp đồng Đào Thịnh là bảo vật quốc gia số 3, trong 30 bảo vật được công nhận.

Trống đồng Đào Thịnh được ông Doãn Văn Thực phát hiện ngày 24/9/1962, Trống đồng Đào Thịnh chỉ còn phần mặt và phần thân. Đường kính mặt trống đo được 49cm, phần thân còn lại cao 30cm. Toàn thân trống bị phủ một lớp gỉ đồng khiến hoa văn bị mờ nhạt. Mặt trống đồng không chờm khỏi tang, chính giữa là ngôi sao nổi 12 cánh, xen giữa các cánh sao là hình tam giác lồng nhau. Từ trong ra ngoài mặt trống có 4 vành hoa văn, thân trống đồng cũng được trang trí bằng hoa văn vạch song song, hoa văn răng cưa khá đơn giản.

Thạp đồng Hợp Minh được tìm thấy ngày 04/6/12995, tại đồi Chọi phía hữu ngạn sông Hồng gần đầu cầu Yên Bái, trong một buổi dân quân Hợp Minh luyện tập đào công sự. Thạp Hợp Minh nhỏ hơn thạp đồng Đào Thịnh, cao 47,4cm, đường kính miệng 33,6cm, đường kính đáy 34,9cm, nặng 13,5kg. Thân trên của thạp hơi phình, phía dưới hơi thót, chân đế thẳng, dáng cân đối, có hai quai hình chữ u ngược. Trong lòng thạp có một số hiện vật như: đĩa đồng 3 chân, rìu đồng, dao găm đồng, quả nhạc đồng, khuyên tai 4 mấu, 3 mảnh gốm miết láng đen. Đặc biệt, là tìm thấy dấu vết của sợi dệt, nan đan; điều đáng chú ý là lần đầu tiên đã thấy một di cốt người còn nguyên vẹn chôn trong thạp. Di cốt này được giám định là một em bé gái khoảng từ 4 – 5 tuổi. Những mô típ văn hóa trên thân thạp Hợp Minh cũng rất tiêu biểu. Trên nắp thạp có 4 tượng dạng “chim vịt” gần rìa nắp, có 4 vòng hoa văn chính. Trên cùng là một đàn chim 21 con đang bay, dưới cùng là một dàn động vật hình hươu gồm 16 con. Hai vòng trung tâm, một vòng mô tả cảnh lễ hội cầu mùa trên cạn, một vòng tả cảnh lễ hội trên sông với 4 chiếc thuyền nối nhau, trên thuyền có người hóa trang lông chim, dưới nước có cá, trên không có chim. Đây là những cảnh trang trí rất hài hòa, sinh động ít thấy trên các thạp đồng khác ở Việt Nam. Đồi Chọi nơi tìm thấy thạp đồng Hợp Minh, có độ cao khoảng 80m so với mặt biển, nằm trong dãy đồi chạy sát bờ sông Hồng. Thạp được tìm thấy trên đỉnh đồi, chiều sâu 0,5m, còn nguyên vẹn.

Cùng với trống đồng, thạp đồng Đào Thịnh, Hợp Minh trên địa bàn huyện còn tìm thấy nhiều hiện vật của thời kỳ đồ đá, đồ đồng như: bình lọ, tượng cóc, quả cân, giáo, dao găm, lưỡi qua và các đồ trang sức bằng đá, cùng nhiều đồ vật khác. Ngoài ra, còn phát hiện được ở Quy Mông, Báo Đáp, Yên Hưng, Yên Hợp nhiều rìu đồng, giáo đồng, các rìu lưỡi xẻo, rìu xòe chân, nhiều đồ gốm thuộc giai đoạn Phùng Nguyên, Đồng Đậu.

Các di chỉ khảo cổ đã tìm thấy với nhiều công cụ, hiện vật của thời đại Hùng Vương, chứng tỏ vùng đất Trấn Yên ngay từ thời tiền sử con người ở đây đã biết rời hang động đến cư trú ở vùng đồi gò và bờ bãi ven sông Hồng. Họ khai thác đất đai ven sông, các vùng đất trũng cạnh đầm, hồ, gò đồi để canh tác theo lối ‘đao canh thủy nậu’ hoặc ‘đao canh hỏa chùng’. Họ đã dùng rìu đá, rìu đồng để chặt cây, cuốc đất. Khi kỹ thuật luyện kim phát triển, xuất hiện thêm lưỡi cày, lưỡi cuốc trong sản xuất. Cây lúa là nguồn cung cấp lương thực chủ yếu của cư dân Trấn Yên trong thời đại Hùng Vương. Nhiều hoa văn trang trí trên trống đồng, thạp đồng có hình tượng bông lúa, hình ảnh săn bắn và hái lượm. Như vậy có nhiều khả năng dân cư Trấn Yên đã biết chăn nuôi, đánh cá và trồng trọt một số cây ăn quả, cây lấy sợi từ rất sớm. Nghề đúc đồng đã phát triển, hoa văn trên thạp đồng Đào Thịnh chứng tỏ người thợ thủ công có tay nghề cao. Để có được những thạp đồng với hoa văn trang trí tinh xảo người thợ thủ công phải dựng lên nhiều lò nấu đồng, tạo ra nhiều khuôn đúc bằng đất phức tạp. Cùng với đúc đồng, nghề gốm cũng phát triển, nhiều dụng cụ gia đình và đồ trang sức được chế tạo ra từ các nguyên liệu có sẵn ở địa phương.

Qua những di vật tìm thấy, cho biết trình độ nghệ thuật của cư dân Trấn Yên thời Hùng Vương đã khá cao, không chỉ là nghệ thuật điêu khắc, chế tác mà còn là giá trị nghệ thuật thuộc lĩnh vực tinh thần như ca múa, hội hè. Những bức tượng người trên nắp thạp đồng Đào Thịnh của các nghệ nhân thời đại Hùng Vương, vừa thể hiện những khát vọng của con người về cuộc sống phồn thực, vừa để lại những chuẩn mực về chủ nghĩa hiện thực ngay từ buổi sơ khai của lịch sử.

Từ những di vật tìm thấy ở các di chỉ trong huyện, cho chúng ta nhận biết về một chặng đường dài trong lịch sử dựng nước của cộng đồng các dân tộc huyện Trấn Yên, từ cuối thời kỳ đồ đá mới đến thời đại kim khí, điều đó khẳng định Trấn Yên là mảnh đất quan trọng của quốc gia Văn Lang thời đại các vua Hùng.

* Tín ngưỡng tôn giáo:

Nhìn chung tín ngưỡng của cư dân Trấn Yên là thờ cúng tổ tiên, thờ mẫu, thờ thần và những người có công. Mỗi tộc người có cách thể hiện khác nhau nhưng đều có điểm chung là hậu thế luôn hoài vọng, nhớ về cội nguồn, về các thế hệ đã sinh thành, dưỡng dục, về chính quê hương bản quán của mình.

Hai tôn giáo có vị trí đáng kể trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân là đạo Phật và đạo Công giáo.

Đạo Phật vào Trấn Yên từ thời Trần và phát triển trong thời Lê, thời Nguyễn. Đến kháng chiến chống Pháp, hầu hết đình chùa bị tàn phá, nhiều nơi đình đền đã thành phế tích, số được khôi phục lại không đáng kể. Chùa ở Trấn Yên hầu hết là nhỏ, làm theo kiểu nhà thông thường, phân biệt các cung thờ bằng ban bệ xây gạch hoặc làm bằng gỗ. Chùa thờ Phật theo Phật giáo Đại Thừa, ý nghĩa như một cỗ xe lớn có thể chở được nhiều chúng sinh tới cõi Niết Bàn. Đại thừa chủ trương tự giác (giác ngộ cho bản thân) và giác tha (giác ngộ cho người khác).

Từ cuối thế kỷ XVIII, việc mở rộng truyền đạo lên vùng Tây bắc của các giáo sỹ phương Tây được thực hiện cùng với việc đặt ách thống trị của quân đội viễn chinh Pháp, vì thế đối với người Trấn Yên đạo Công giáo mới được du nhập vào khoảng 1 thế kỷ. Những nhà thờ được xây dựng sớm từ năm 1898 đến 1930 là các nhà thờ Yên Bái, làng Sặt, Bảo Long, Nụ Điền, Âu Lâu, Nga Quán, Cổ Phúc, Đào Thịnh, Nhoi…Những nhà thờ này đều làm bằng tre nứa lá, sau đó một số nhà thờ được xây dựng bằng gạch ngói như nhà thờ Yên Bái, nhà thờ Nga Quán. Giáo dân chủ yếu là người các tỉnh dưới xuôi có đạo được mộ lên Yên Bái khai khẩn, làm phu và tá điền trong các đồn điền.

Năm 2000, toàn huyện có 10 nhà thờ rải rác trong 8 xã với 6.154 giáo dân. Cuộc vận động chuyển dân để xây dựng nhà máy thủy điện Thác Bà (1965), Trấn Yên nhận thêm một bộ phận giáo dân từ huyện Yên Bình chuyển sang, một số nhà thờ họ được xây dựng như nhà thờ Quy Mông. Nhà thờ Nhân Nghĩa (Báo Đáp) được xây dựng lớn trở thành nhà thờ xứ và có linh mục quản nhiệm. Đọc kinh, cầu nguyện, đi nhà thờ là một nhu cầu thuộc về đời sống tâm linh của đồng bào theo đạo Công giáo. Hiện nay, các họ đạo đều tham gia phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Mỗi gia đình, mỗi người theo đạo đều sống theo mục tiêu “Tốt đời đẹp đạo”, họ đoàn kết gắn bó với người ngoài đạo để cùng nhau phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng quê hương giàu đẹp.

Đình, đền trong tín ngưỡng dân gian ở Trấn Yên, không chỉ có ý nghĩa thờ những người có công khai sáng xây dựng nên làng bản, trang xã, thờ thần và những nơi con người coi là thâm nghiêm linh ứng. Đình ở Trấn Yên cũng đã từng là nơi dạy bình dân học vụ, diệt giặc dốt, đã từng là nơi họp chi bộ, nơi kết nạp đảng viên mới, nơi khai hội của Việt Minh…Tại đình làng Vần (xã Việt Hồng) đã diễn ra cuộc tế cờ xuất quân của lực lượng vũ trang chiến khu Vần đi giành chính quyền ở Hạ Hòa (Phú Thọ) ở Văn Chấn, Than Uyên, Phù Yên, Văn Bàn. Tại đình Xuân Lan cuối năm 1948, đồng chí Vũ Tuân – Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái giao nhiệm vụ cho tổ cán bộ của đồng chí Hoàng Kim Bảo vào chiến đấu trong hậu địch ở Than Uyên.

Đối với nhân dân các dân tộc huyện Trấn Yên từ xa xưa, đình, đền, chùa, nhà thờ là không gian, là cơ sở hoạt động tín ngưỡng – tôn giáo của đời sống văn hóa tâm linh biểu hiện những giá trị thiêng liêng của cuộc sống đời thường và biểu hiện niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo. Trong đời sống văn hóa tinh thần có những tín đồ suốt đời mang nặng niềm tin về Chúa, về Phật. Có những người không theo một tôn giáo chính thống nào nhưng vẫn đến chùa lễ Phật để cầu bình yên hoặc đến nhà thờ Thiên Chúa để xem hành lễ như những sinh hoạt văn hóa bình thường.

Người Mường có tục thờ Phật (ông Bụt); người Tày cổ thờ vật linh giáo (cây cổ thụ, hòn đá lớn) thờ thổ công, thổ điạ và các vị thánh trong vùng. Người Dao có nhiều tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp, có tục thờ cúng gia tiên, Bàn Vương, cấp sắc… ngay tại giữa nhà. Người Mông tổ chức “lống sáng” ở một khu rừng để thờ thần sơn lâm.

Sau các cuộc chiến tranh kéo dài, đình và đền bị tàn phá do bom đạn của chiến tranh, nhiều thiết chế tôn giáo – tín ngưỡng, bị mai một vì thời gian, nhiều nơi chưa có điều kiện khôi phục và trùng tu, một số nơi nhân dân đã tự đóng góp tiền của xin phép chính quyền sửa chữa lại những ngôi đình, ngôi đền đổ nát, hiện nay một số chỉ còn là phế tích, số khác đã bị hủy hoại hoàn toàn chỉ còn tồn tại trong ký ức của nhân dân.

Đến nay, hệ thống các cơ sở tôn giáo gồm đình, đền, chùa và nhà thờ trong toàn huyện có: 11 đình – đền, trong đó có 01 đình được xếp hạng di tích cấp quốc gia là Đình Chung (xã Việt Hồng) và 10 đình, đền được xếp hạng di tích cấp tỉnh gồm: đình Làng Dọc (xã Việt Hồng), đình Hòa Quân (xã Minh Quân), đình đền Quy Mông (xã Quy Mông), đình Yên Lương (xã Minh Tiến), đình Kỳ Can (xã Y Can), đình Làng Xây (xã Báo Đáp) và đền Minh Phú (xã Vân Hội), đền Cửa Ngòi (TT Cổ Phúc), đền Việt Thành (xã Việt Thành), đền Hóa Cuông (xã Hòa Cuông). Có 05 chùa, trong đó có 03 chùa được công nhận di tích lịch sử cấp tỉnh gồm chùa Linh Thông, chùa Cường Thịnh và chùa Y Can với 1.600 tín đồ. Có 17 nhà thờ tại 12 xã, trong đó có 3 nhà thờ xứ gồm: nhà thờ xứ Nhân Nghĩa, nhà thờ xứ Mỹ Hưng, nhà thờ xứ Bảo Long. Có một tu viện thuộc dòng Mến thánh giá tại giáo xứ Nhân Nghĩa.

Theo “Lịch sử Đảng bộ huyện Trấn Yên (1930 – 2015)”

Tiếm năng thế mạnh

Huyện Trấn Yên có tổng diện tích tự nhiên là 62.914,3 ha, chiếm 9,1% diện tích toàn tỉnh Yên Bái, hệ thống giao thông khá thuận lợi. Từ Trấn Yên có thể đi tới các huyện Văn Yên, Lục Yên, Văn Chấn, Nghĩa Lộ, Thành phố Yên Bái và các tỉnh bạn như: Phú Thọ, Hà Nội …. Hệ thống giao thông đường bộ đã đóng góp tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xây dựng nông thôn mới.

Đường sắt Hà Nội – Lào Cai đi qua địa phận của huyện Trấn Yên với chiều dài 30 km, thuộc địa giới hành chính của 6 xã, có 2 nhà ga trung tâm chuyển hàng hoá và hành khách là ga Cổ Phúc và ga Ngòi Hóp. Đường sắt là mạch máu giao thông quan trọng nối Trấn Yên với mạn thượng du và vùng trung du đồng bằng Bắc Bộ.

Đường thuỷ trên sông Thao, đoạn chạy qua địa phận huyện Trấn Yên dài 40 km. Đây là tuyến đường thuỷ cho các loại tàu thuyền trọng tải nhỏ từ Minh Quân tới Ngòi Hóp và Mậu A. Trên sông có 24 bến đò ngang và một số tuyến đò dọc từ thành phố tỉnh lỵ đi Văn Phú – Minh Quân, từ Cổ Phúc đi Quy Mông – Ngòi Hóp.

Trấn Yên có hệ thống ao hồ tương đối phong phú với tổng diện tích là 700 ha, điển hình trong số đó là hồ Đầm Hậu, hồ Vân Hội … có giá trị cho khai thác tiềm năng du lịch.

Huyện Trấn Yên đã ưu tiên cho việc cứng hóa các tuyến đường giao thông. Đến nay, 100% các tuyến đường giao thông đến trung tâm các xã được cứng hóa; phần lớn các tuyến đường liên xã, liên thôn từ vùng thấp đến vùng cao được mở rộng nền đường, trong đó trên 30% đường liên thôn bản được cứng hóa mặt đường, nhiều cầu cống, ngầm tràn qua đường được xây dựng vĩnh cửu. Điển hình trong phong trào này là các xã Tân Đồng, Báo Đáp, Việt Thành, Việt Cường, Hưng Khánh…

* Tài nguyên đất của huyện là đất feralit và đất phù sa bồi đắp ven sông. Theo số liệu thống kê đến năm 2015: Đất nông nghiệp có 10.963,7 ha. Đất lâm nghiệp 51.737,5 ha. Đất ở 1902,9 ha. Đất chưa sử dụng 4,2 ha. Rừng và đất rừng là một trong những tiềm năng và thế mạnh của huyện. Diện tích rừng có 46.522,7 ha. Rừng phòng hộ 8.653,5 ha. Rừng sản xuất 31.867,5 ha. Tập trung ở các xã Việt Hồng, Kiên Thành, Hồng Ca, Lương Thịnh, Minh Quán, Hòa Cuông, Tân Đồng, Cường Thịnh.

* Tài nguyên khoáng sản của huyện không lớn, các loại khoáng sản không tập trung, khối lượng và hàm lượng không cao. Những khoáng sản chủ yếu là: Thạch cao ở một số xã như Cường Thịnh, Minh Quán. Phấn chì (cácbon graphit) có ở Minh Quán, Báo Đáp. Than nâu ở một số xã như Quy Mông, Minh Tiến, Việt Cường. Quặng sắt có nhiều ở Kiên Thành kéo sang Hưng Khánh, Hưng Thịnh, Lương Thịnh. Đá thạch anh ở Hồng Ca, Lương Thịnh, Hòa Cuông. Đất sét ở một số xã ven sông. Mỏ đá quý hồng ngọc kéo dài từ Lục Yên, tới Yên Bình qua một số xã của Trấn Yên như Tân Đồng, Hòa Cuông nhưng chưa lập được bản đồ khoáng sản và xác định được trữ lượng.

* Ngoài ra, tiềm năng về thủy điện tiềm tàng ở các dòng suối lớn nhưng chưa có điều kiện khai thác, như Ngòi Vần với Thác Quẽ, Ngòi Lâu có một số ghềnh, Ngòi Rào có đát Rào, Ngòi Hóp với đát Lòng Mo. Đây là nguồn năng lượng sạch, nếu được khai thác  sẽ có hiệu quả vào đời sống và phục vụ sản xuất.

* Sản xuất chế biến Nông – Lâm sản: Với lợi thế nằm dọc theo hai bên bờ sông Hồng, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các  xã ven sông hình thành các cánh đồng rộng và màu mỡ. Hệ thống thuỷ lợi đã và đang được kiên cố hoá, đây là tiền đề cơ bản để Trấn Yên phát triển ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, gắn với công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Cùng với đó, người dân đã tăng cường đầu tư thâm canh, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới để nâng cao năng suất, chất lượng các loại cây trồng.

Vùng thâm canh lúa nước với diện tích canh tác là 2.600ha, chủ yếu tập trung ở các xã dọc sông Hồng với những cánh đồng phù sa màu mỡ và ở các xã vùng trong với những bồn địa đất đai phì nhiêu. Cùng với cây lúa, nghề trồng dâu nuôi tằm đã phát triển ở các xã dọc hai bờ sông Hồng, đến nay, diện tích dâu của huyện là trên 200ha, sản lượng kén tằm đạt trên 200 tấn/năm, đạt giá trị trên 20 tỷ đồng/năm.

Là một trong những địa phương có diện tích chè lớn của tỉnh, với gần 2.180ha chè kinh doanh trong đó có tới trên 1.000ha chè chất lượng cao như: Bát Tiên, Phúc Vân Tiên, mỗi năm tổng sản lượng chè búp tươi của huyện đạt 16.000 tấn. Huyện đang hướng cho các địa phương xây dựng thương hiệu chè theo tiêu chuẩn VietGAP.

Một loại cây trồng không thể không nhắc đến ở Trấn Yên là tre măng Bát Độ. Hiện nay  diện tích măng tre Bát Độ đã lên đến 2.100 ha tập trung chủ yếu ở 10 xã như: Kiên Thành, Tân Đồng, Hồng Ca… trong đó, xã Kiên Thành chiếm 50% diện tích. Trung bình mỗi hec-ta tre măng Bát Độ cho thu nhập từ 30 – 40 triệu đồng/năm, cao gấp 3 – 4 lần so với cây nguyên liệu khác; mỗi năm huyện thu 25 – 30 tỷ đồng từ cây tre măng Bát Độ. Sản phẩm tre măng Bát Độ được xuất khẩu sang thị trường Đài Loan, Nhật Bản và một số nước trong khu vực.

* Công nghiệp: Thời gian qua, huyện Trấn Yên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chế biến tại Khu công nghiệp tập trung Minh Quân, Cụm công nghiệp Hưng Khánh, Báo Đáp, nhà máy may xuất khẩu với trên 3.000 công nhân tại thị trấn Cổ Phúc. Hiện, toàn huyện có trên 1.000 công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh phần lớn là đăng ký kinh doanh, sản xuất chế biến nông, lâm sản; tuy sản phẩm chỉ là các mặt hàng sơ chế nhưng đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế giải quyết việc làm, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm sản cho nông dân các địa phương trong huyện, nâng cao tỷ trọng sản xuất công nghiệp – xây dựng.

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây