Nhớ thầy Lê Trí Viễn – Tiến sĩ Huỳnh Văn Hoa

Tiến sĩ ngữ văn Huỳnh Văn Hoa

HUỲNH VĂN HOA

Huỳnh Văn Hoa làm thơ, viết văn từ hồi còn là học sinh trung học. Lĩnh vực mà anh bền bỉ theo đuổi và thành công nhất là lý luận phê bình văn học.
-Học vị: Tiến sĩ ngữ văn.
-Nguyên Giám đốc Sở Giáo dục – Đào tạo Thành phố Đà Nẵng

  • Tác phẩm:
    -Cảm nhận văn chương (Nhiều tác giả, NXB Hội Nhà văn, 2002)
    -Văn chương từ những góc nhìn (NXB Đà Nẵng, 2014)
    -Từ những trang văn (NXB Hội Nhà văn, 2017).
    Sau đây, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu một số bài viết của anh.

NHỚ THẦY LÊ TRÍ VIỄN

Thầy Lê Trí Viễn, người con của Quảng Nam, một gương mặt đẹp đẽ trong nghiên cứu và giảng dạy văn chương Việt Nam của thế kỷ XX. Thầy để lại cho đời nhiều dấu ấn, nhất là trong giảng dạy, trong biên soạn giáo trình, trong công tác đào tạo giáo viên. Thầy sinh ngày 10 – 03 – 1919, mất ngày 3 – 2 – 2012, tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 95 tuổi.

Tôi, người học trò cũ của thầy, đọc sách của thầy, nhớ những lời thầy dạy, thầy khuyên đối với việc tự học, tự rèn luyện trong lĩnh vực dạy – học văn, xin ghi lại những chuyện về thầy.

  1. Thầy Viễn giảng Kiều, viết sách về Kiều

Tôi vào học Đại học sư phạm Huế, khóa đầu, sau 1975. Lớp chung tôi, từ nhiều miền khác nhau, tề tựu về mái nhà chung Lớp Văn, khóa 1975-1979. Các giảng viên phần lớn thỉnh giảng từ các trường đại học phía bắc, trong đó có thầy Lê Trí Viễn. Tôi vẫn còn nhớ, cuối năm 1976, thầy Viễn được mời thỉnh giảng cho các lớp sinh viên Khoa Văn, Đại học sư phạm Huế. Hồi đó, sau 1975, các lớp Văn vẫn còn đang học tại cơ sở của trường Đại học Văn khoa (cũ), phía bên đường Trương Định (Bây giờ là Khách sạn Morin), một buổi sáng, thầy Nguyễn Văn Hạnh, Hiệu trưởng Đại học sư phạm Huế, đưa thầy Viễn đến lớp chúng tôi. Thầy Hạnh giới thiệu về thầy Lê Trí Viễn, đây là thầy cũ dạy tại trường Trung học Phan Châu Trinh-Cẩm Khê, Tam Kỳ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và là thủ trưởng, Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn – Đại học sư phạm Hà Nội I. Suốt 4 năm, chỉ lần duy nhất này, thầy Hạnh đưa một giảng viên đến tận lớp và trân trọng giới thiệu.

Hôm đó, thầy Viễn giảng đoạn Thúy Kiều thương mình, chỉ 12 câu, từ câu 1229 câu 1240, như sau:

                              Biết bao bướm lả ong lơi

                   Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm

                             Dập dìu lá gió cành chim

                   Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh

                             Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh

                   Giật mình, mình lại thương mình xót xa

                             Khi sao phong gấm rủ là

                   Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

                             Mặt sao dày gió dạn sương

                   Thân sao bướm chán ong chường bấy thân

                             Mặc người mưa Sở mây Tần

                   Những mình nào biết có xuân là gì !  

Lần đầu tiên, tôi nghe thầy giảng đoạn Kiều bi thảm này. Trước hết, thầy giảng kỹ các điển tích, nói nghĩa đen, nghĩa bóng của từ. Đến giờ, vẫn nhớ và biết hai nhân vật Tống Ngọc, Tràng Khanh, biết cảnh sống ô nhục của nàng Kiều, biết trái tim đầy thổn thức của người con gái khuê các bị ném vào cảnh lầu xanh. Theo thầy, đây là đoạn Kiều hay nhất, nói rõ nhất về tâm trạng tủi thân, phũ phàng, đau xót của Kiều. Một cái chết về thể xác chưa nặng bằng cái chết của tâm hồn: sớm đưa / tối tìm / khi sao / giờ sao / mặt sao /  thân sao / nào biết có xuân là gì !.  Nhiều chỗ, thầy nhập thân vào nhân vật, rồi khóc với thân thế nàng Kiều. Khóc như một người thân của gia đình Kiều khi chứng kiến cảnh “tan tác như hoa giữa đường” của Kiều. Giảng 4 câu: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh /           Giật mình, mình lại thương mình xót xa / Khi sao phong gấm rủ là / Giờ sao tan tác như hoa giữa đường, thầy lặng người trước mấy chữ “mình” đầy nỗi dày vò, thương cảm, thống thiết

Hơn bốn mươi năm trôi qua, 12 câu Kiều thuở ấy vẫn còn trong trí nhớ, cả khung cảnh lớp học và bài giảng của thầy. Từ đây, khi đọc Chương VI, về Nguyễn Du mà thầy đã viết trong Lịch sử văn học Việt Nam, tập III, NXB Giáo dục in năm 1976, mới thấy tấm lòng và tình yêu của thầy đối với Nguyễn Du và Truyện Kiều. Có thể nói không ngoa rằng, Chương viết về Nguyễn Du của thầy Lê Trí Viễn là chương hay nhất, tài hoa nhất, lãng mạn nhất trong bộ sách viết về văn học trung đại. Một giọng văn tha thiết, trữ tình, lắm chỗ bay bổng, có đoạn xót xa, dằn vặt, có lúc lạc vào một từ Quảng Nam (té ra) khi nói về đêm trăng tình yêu của Kim-Kiều.

Mới đây, bên một quán, cạnh sông Hàn, ba chúng tôi (Nguyễn Quốc Luân, Bùi Văn Tiếng, Huỳnh Văn Hoa) ngồi bàn tán nhiều chuyện, sang đến chuyện thầy Viễn. Câu hỏi đặt ra, sao thầy Viễn viết về Truyện Kiều hay thế, tinh tế thế ! Nguyên do từ đâu, nếu không có nỗi đau đời ?

images min - Nhớ thầy Lê Trí Viễn - Tiến sĩ Huỳnh Văn Hoa

  1. Những quyển sách của thầy

Trong tủ sách của tôi, sách của thầy Viễn khá nhiều. Bắt đầu từ bộ Lịch sử văn học Việt Nam đến những sách, bài giảng phục vụ cho cải cách giáo dục, cho bồi dưỡng thường xuyên bậc trung học.

Ba mươi năm qua, chương trình ngữ văn có nhiều thay đổi, từ nội dung bài học đến phương pháp giảng dạy. Cũng ngần ấy năm, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, thầy Viễn nhập cuộc tích cực vào đổi mới dạy và học ngữ văn.

Những năm giữa thập niện 80 của thế kỷ trước, cải cách giáo dục  các bộ môn bước vào chương trình trung học cơ sở. Dạy và học thơ ca dân gian do thầy Lê Trí Viễn chủ biên, Sở Giáo dục Nghĩa Bình (1986), phục vụ cho giáo viên các lớp 6,7 và 8 . Trong sách đó, thầy viết bài khái quát Văn chương dân gian ở nhà trường phổ thông. Bài ngắn trên 10 trang, nêu rõ tầm quan trọng của văn học dân gian, đặc trưng và cách giảng từng thể loại. Phần cuối, thầy viết: Tóm lại, văn chương dân gian có một vị trí quan trọng trong chương trình trường cơ sở và trường trung học. Dạy văn theo tinh thần cải cách giáo dục đã khó, dạy giảng văn càng khó hơn. Đi vào văn chương dân gian vốn có đặc thù lại có nhiều điều phải hiểu biết, dù ở mức tối thiểu. Trên đây mới nêu ra một đôi điều cần thiết bậc nhất giúp người đọc một chỗ dựa để từ đó tự mình nghiên cứu, thâm nhập, chiếm lĩnh bài văn một cách có căn cứ, sau đó mới sư phạm hóa các điều thu nhận được để có bài dạy thích hợp, đạt kết quả.”

Năm 1988, thầy chủ biên Những bài giảng văn chọn lọc, tập I và II, phục vụ Chương trình cải cách giáo dục, NXB Long An. Bộ sách đã giúp giáo viên trung học cơ sở có tài liệu tham khảo soạn giảng những bài mới đưa vào chương trình.  

Năm 1995, theo chu kỳ, việc thay sách lên đến cấp trung học phổ thông, một lần nữa, thầy Viễn tham gia biên soạn tài liệu bồi dưỡng giáo viên. Thầy cùng với giáo sư Phan Trọng Luận, giáo sư Phùng Văn Tửu viết Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên trung học phổ thông, môn Văn và Tiếng Việt, 2 tập, do Vụ Giáo viên – Bộ Giáo dục – Đào tạo ấn hành (1995).

Trong tài liệu đó, đáng chú ý là bài Quá trình chuẩn bị một bài giảng văn (32 trang). Đây là tài liệu quan trọng, dùng nhiều năm, phục vụ thay sách bộ môn ngữ văn. Một bài viết công phu, tâm huyết, đúc kết kinh nghiệm dạy văn một đời của thầy. Không chỉ nêu lý thuyết, vận dụng kiến thức liên môn, để minh họa, thầy Viễn soạn thêm phần Phụ lục. Thầy nói rõ, “Sau đây, tôi sẽ vận dụng những điều trình bày ở trên để giảng bài thơ Sự dở dang của Hồ Xuân Hương và truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam”.

Đến với thơ hay, một tuyển tập những bài bình thơ, phân tích thơ thuộc chương trình trung học cơ sơ và trung học phổ thông, từ ca dao, dân ca đến văn học hiện đại, dày gần 300 trang, do NXB Giáo dục in (1998). Những bài thơ mới đưa vào chương trình như Trao duyên (Nguyễn Du), Mời trầu (Hồ Xuân Hương) Hương Sơn phong cảnh (Chu Mạnh Trinh), Qua Đèo Ngang (Bà Huyện Thanh Quan), Chí nam nhi (nguyễn Công Trứ), Đây thôn Vỹ Dạ (Hàn Mặc Tử), Đây mùa thu tới (Xuân Diệu), Bên kia sông Đuống (Hoàng Cầm),…được giáo sư Lê Trí Viễn giới thiệu, phân tích.

Năm 2004, 2005, bộ sách trên 500 trang, có tên Đến với thơ hay, 2 tập, do NXB Giáo dục in và phát hành. Số lượng đến 5000 bản (tập 2). Bộ sách bổ sung những tác giả mới đưa vào sách giáo khoa môn Văn như Bài ca ngất ngưởng  (Nguyễn Công Trứ), Thương vợ (Trần Tế Xương), Tương tư (Nguyễn Bính), Các vị La Hán chùa Tây Phương (Huy Cận), Tiếng hát con tàu (Chế Lan Viên),… Thích nhất, bài Đôi nét về bình thơ, một bài viết công phu, kiến giải khoa học, tình cảm về công việc bình thơ. Những năm phụ trách bộ môn Văn của Sở Giáo dục tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng, sau này làm công tác quản lý ngành, tôi luôn nhắn gửi thầy cô giáo dạy văn về những bài giảng, những kinh nghiệm dạy văn, bình văn, viết sách văn của thầy Lê Trí Viễn. Thầy khuyên: Dạy văn lấy cảm làm đầu / Một đời tôi chỉ một câu dặn mình / Dạy văn dạy nghĩa dạy tình / Dạy văn mà cũng dạy mình dạy ta…

Có thể nói, những chặng đường đổi mới căn bản về dạy và học môn Văn, thầy Viễn có nhiều công lớn. Hai mảng đề tài thầy quan tâm suốt một đời, đó là, nghiên cứu và đi tìm các đặc điểm có tính quy luật của văn học Việt Nam và giảng văn, bình thơ. Thầy để lại các thế hệ nghiên cứu văn chương, dạy văn chương nhiều chuyên luận, nhiều trang viết, khó có ai thay thế. Những quyển sách Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1987, sau này, sách được bổ sung, in lại với tên Quy luật phát triển Lịch sử văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999, đến Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, 1996… vẫn là những quyển sách vô cùng quý giá, cần thiết cho những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy.

  1. Thầy Viễn, Tiên Phước và “Chuyện 22 ông già”

Khi làm chuyên viên tại Sở Giáo dục tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, rồi làm quản lý ngành tại thành phố Đà Nẵng, tôi thường xuyên đi công tác các quận huyện. Nghe anh em bảo rằng, thầy Viễn có thời gian dạy ở Tiên Phước. Sau đó, biết cụ thể, vào những năm 1941 đến 1943, thầy Viễn dạy tiểu học tại đây. Năm 1943, thầy quyết định rời trường sau 3 năm gắn bó, khăn gói ra Huế tiếp tục sự nghiệp đèn sách. Đất và người Tiên Phước đã trở thành một phần máu thịt trong cuộc đời dạy học của thầy. Theo PGS.TS Ngô Văn Minh (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – Khu vực III – Đà Nẵng), thầy giáo Võ Kim Tương ở Tiên Mỹ, nhớ lại buổi chia tay ấy, thầy Lê Trí Viễn đọc một bài thơ chữ Hán:

                             “Lưỡng tam giáo chức tựu đình tiền

                             Tạm biệt nhân tình thiết tửu diên

                             Tâm sự thủy chung bằng nguyệt hạ

                             Ly trung mạt hận biệt miên miên”

                             Dịch nghĩa: 

                             Đôi ba ông giáo quây quần trước sân

                             Chia tay nhau bằng tiệc rượu

                             Tâm tình với nhau có ánh trăng chứng giám

                             Trong sự chia ly chớ xem là xa nhau mãi mãi.

Hơn năm mươi năm sau, trở về chốn cũ, thầy trò ngày xưa đã trên 80 tuổi, găp lại nhau, mừng mừng tủi tủi. Bao đổi thay của thời cuộc.  Bao biến thiên của lịch sử. Bao buồn vui của mỗi số phận. Mọi cái đều thay đổi, chỉ một điều không bao giờ thay đổi, đó là tình thầy trò, nghĩa sư đệ. Phút giây xúc động đó, thầy Viễn ứng tác bài thơ, tặng trò cũ, có tên Chuyện 22 ông già:

                             Cuộc họp chi mà kỳ lạ!

                             Hai mươi hai ông già

                             Ôm một ông già khác

                             Khóc

                             Có họ hàng thân thiết chi đâu 

                             Chỉ là thầy trò, năm mươi năm xa cách

                             Nay

                             Mới gặp nhau, mừng bằng nước mắt.

Bài thơ ngắn, chỉ 41 từ, ít hơn số năm xa cách. Hai tuyến nhân vật, một ông già – thầy cũ và 22 ông già – học trò cũ, giữa họ là khoảng thời gian vời vợi, gần hai mươi nghìn ngày của hơn năm mươi năm. Niềm vui của ngày gặp gỡ, chỉ và chỉ: Nước mắt. Nước mắt, giọt lệ của tuổi già, nói như Nguyễn Khuyến, hạt lệ như sương, đã rơi xuống gò má – thời gian, những giọt lệ mừng, dù “có họ hàng thân thiết chi đâu”. Thảo nào, khi nhận tin trường Trung học Huỳnh Thúc Kháng, huyện Tiên Phước, tổ chức kỷ niệm thành lập trường, không về dự được, thầy gửi thư cảm ơn, lời lẽ chân tình, xiết bao xúc động:

Thầy Nguyễn Khánh từ Tiên Phước vào tận TP.Hồ Chí Minh, đến gặp tôi, đem quà quê nhà tặng và tin cho hay trường THPT Huỳnh Thúc Kháng sắp tổ chức kỷ niệm mấy mươi năm thành lập. Tôi nghe mà thấy lòng nao nao. Làm sao không xúc động được! Ba năm ròng, biết bao gương mặt, biết bao dốc đèo, cây lá núi Tiên đã thành một phần con người tôi, từ vật chất đến tinh thần. Ước gì tôi có thể bay về cùng chia vui với quý vị quan khách, với anh chị em giáo viên và các em học sinh trong lễ hội trọng thể này. Và giá được các anh chị học sinh của tôi ngày xưa nay còn sống và đã là những cụ ông, cụ bà cùng về dự, thì cuộc hội họp mấy thế hệ học trò như thế sẽ hay, sẽ thấm thía biết bao! Xin đọc lại mọi người nghe bài thơ tôi làm do xúc cảm tức thì trong dịp tôi về đây năm xưa. Đầu đề là: “Chuyện 22 ông già”… Xin chúc quý vị quan khách, quý thầy cô và học sinh vui, khỏe. Chúc trường đổi mới dạy và học đạt thành công lớn và nhiều học sinh tương lai sẽ thành tài làm vẻ vang quê hương như cụ Huỳnh, cụ Phan ngày xưa, các vị anh hùng gần đây…”.

Ngày thầy mất, ở xa, tôi nhờ bạn tôi, anh Vu Gia, viếng và thắp nén tâm hương tiễn biệt thầy về cõi vĩnh hằng.

Trên đây là mấy dòng của người học trò xứ Quảng xin viết về người thầy học xứ Quảng với tất cả lòng kính yêu và biết ơn.

Đà Nẵng, ngày 10 tháng 12 năm 2018

Huỳnh Văn Hoa

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây