Tác giả Bùi Tự Lực

Bùi Tự Lực

BÙI TỰ LỰC

Các bút danh: Tự Lực, Ngọc Vy. Sinh ngày 09/10/1954. Quê quán: Bình Trị, Thăng Bình, Quảng Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2003. Hội viên Hội Nhà văn Đà Nẵng. Uỷ viên BCH, Chủ tịch Hội đồng Văn xuôi Hội Nhà văn TP. Đà Nẵng. Sau 1975: Hoạt động trên nhiều lĩnh vực: Dạy học (hiệu trưởng PTCS), làm chính trị (Huyện uỷ viên, Chánh văn phòng huyện uỷ), cán bộ quản lý tài chính, làm thơ, viết báo và viết văn. TÁC PHẨM: Mùa hoa bưởi (thơ), NXB Đà Nẵng, 1999. Nội tôi (truyện vừa, in lần thứ 6 vào năm 2009), NXB Kim Đồng, 2001. Trên nẻo đường giao liên (truyện vừa), NXB Kim Đồng, 2003. Cái ống phóc và trái banh chuối (truyện ngắn), NXB Kim Đồng, 2005: Ngôi nhà chỉ một lần mở cổng (truyện ngắn), NXB Hội Nhà văn, 2005. Chiêm bao (truyện ngắn), NXB Đà Nẵng, 2008. Nói chuyện một mình (thơ), NXB Hội Nhà văn, 2010. Thơ Bùi Tự Lực, NXB Hội Nhà văn, 2017. Chó hoang (tiểu thuyết), NXB Kim Đồng, 2017. GIẢI THƯỞNG: Nội tôi (truyện vừa): Giải B cuộc vận động sáng tác truyện, tranh truyện thiếu nhi 1999-2000 của NXB Kim Đồng. Trên nẻo đường giao liên (truyện vừa): Giải A, tác phẩm xuất sắc năm 2003, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật TP. Đà Nẵng. Tình đồng đội (truyện ký): Giải C, viết về kỷ niệm sâu sắc ngành Bưu điện 1930-2000, Tổng cục Bưu điện Việt Nam. Tiếng mưa (thơ): Giải B, Liên đoàn Lao động TP. Đà Nẵng năm 2001. Tình đồng đội (truyện ký): Giải B, viết về kỷ niệm sâu sắc ngành Bưu điện 1930-2000 (Khu vực miền Trung – Tây Nguyên), Tổng cục Bưu điện Việt Nam. Đem theo cái tâm đi làm tín dụng (ký văn học): Giải C, Liên hiệp Văn học Nghệ thuật TP. Đà Nẵng. Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TP. Đà Nẵng lần thứ Nhất (1997-2005). Bài học ngoài giảng đường (truyện ngắn): Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Đất Quảng lần thứ Nhất (1997-2010).

 

HAI NGƯỜI MÙ
(Truyện ngắn mini)

Có hai người mù áo quần tuềnh toàng đi trên hè phố.
Những người mù luôn chấp hành đúng luật lệ giao thông, họ đi trên hè phía bên phải. Người đi trước, một tay cầm cây gậy lẫm chẫm dò đường, tay kia dắt người đi sau. Người đi sau vác theo bó chổi đót.
Một đôi nam nữ chưng diện rất đúng mốt thời trang công sở, cổ đeo tòng teng thẻ công chức hẳn hoi. Anh mặc áo sơ mi trắng và khoác bộ vét tông màu xanh đen, đeo ca ra vát đỏ; chị mặc áo dài truyền thống màu tím hoa cà, điểm thêm dây kim tuyến lấp lánh. Họ bá vai nhau tí tởn nói cười, đi ngược về phía hai người mù. Dáng đi của họ rất vội, chắc là sắp bước lên diễn đàn ở một hội nghị nào đó! Anh ả bất ngờ va phải hai người mù nọ.
Người đàn ông mặc vét tông liền sưng mặt lên và quát:
– Bộ mấy người đui à!
Hai người mù lặng im đi qua, rồi cất tiếng rao lanh lảnh:
– Chổi … đ…ơ…i…

 

THIÊN CHƯỚC
(Truyện ngắn)

Trong những năm 1980, ba má tôi rầu lòng và gia đình khổ sở vì có người vượt biên trái phép ra nước ngoài. Thậm chí họ hàng nội ngoại hai bên tỏ ý xa lánh, tránh tiếng có quan hệ với đối tượng gọi là “vượt biên” phản quốc. Để chống đỡ với sự đời thị phi, ba má tôi đành phải loan tin là anh Hai đã bị chìm tàu và chết mất xác ngoài biển khơi. Ngay từ dạo ấy, trước hiên nhà treo lên một cái khám thờ vong hồn lạc hướng!
May mắn là anh Hai ra nước ngoài lấy người vợ gốc Mỹ, chịu khó làm ăn và trở thành một thương gia giàu có. Nay anh Hai trở về thăm gia đình và đóng góp ít nhiều cho địa phương xây mấy căn nhà cho mẹ liệt sĩ, hỗ trợ họ hàng làm mồ mả, xây nhà thờ tộc khang trang, được bà con xóm làng phong tặng là “Việt kiều yêu nước”.
Ba má được anh Hai bảo lãnh sang định cư ở nước Mỹ, để lại cho hai anh em tôi một cơ ngơi khá đồ sộ gần chục héc ta đất vườn, lưng tựa vào núi mặt nhìn ra biển; lại được anh Hai hỗ trợ cho một ít vốn kha khá để làm ăn. Hai anh em tôi rạch đôi sơn hà mỗi người một phần. Phần anh Ba có ruộng vườn, cây cối, hồ ao, lại có một con suối chảy qua; anh ấy xây dựng thành một “tiểu khu điền viên” đậm nét làng quê thanh bình. Phần tôi giáp biển, có một ngọn đồi; tôi quyết định phá banh ra thực hiện chương trình đào núi lấp biển, xây dựng một khu rì sọt theo phong cách Âu châu, nuôi mộng rằng, nay mai gia đình anh Hai “Việt kiều yêu nước” và ba má về thăm cố hương, muốn chơi kiểu gì cũng có.
Khu rì sọt của tôi vừa mới hình thành đã nức tiếng khắp vùng, được ngợi ca là một mô hình làm ăn năng động, một “tiểu đô thị” trẻ trung đang đà phát triển.
Sau vài năm bình yên phát đạt, một tai hoạ giáng xuống khu rì sọt của tôi, thành một đại họa.
Chuột!
Thế giới có 1082 loài chuột. Hình như tất cả chuột lớn, chuột bé, chuột cống, chuột đồng, chuột Lemming, chuột túi, chuột Gerbil, chuột Leo Nam Mỹ, cả chuột khổng lồ Na Uy…; cả thế giới loài chuột hô hào kéo về rì sọt của tôi để để ngự trị và thi nhau nhau đục khoét, phá phách. Khi mà cả thế giới loài chuột nổi dậy chống phá thì trở thành một kẻ thù bất khả trị rồi. Đại họa Chuột này vô hiệu hoá các loại bẫy. Đại họa Chuột này miễn dịch tất cả các loại thuốc độc. Đại họa Chuột này đã trở thành đồng minh với các loại địch thủ truyền kiếp; chó, mèo, trăn, rắn… cả hổ báo nuôi để trị cũng đều bị chuột đồng hoá tuốt tuồn tuột; hiểm họa mỗi ngày một khủng khiếp hơn. Cứ như thế này thì cơ đồ kỳ vĩ của tôi sẽ tan xác pháo trong nay mai.
Than ôi!
Thất vọng và bế tắc rồi!
Không còn chỗ tựa ở đời, tôi sắm lễ vật đầy đủ kèm theo một chú lợn tơ quay vàng xọm, đem ra bờ biển nổi hương đèn khấn vái tứ phương, cầu cứu các vị chư thần trời biển hiển linh độ trì tai qua nạn khỏi. Cầu được ước thấy. Một đạo sĩ hiện ra, dáng người tầm thước, chân đi hia gấm, tay cầm hồ lô, mắt sáng ánh sao, râu tóc bạc như mây, dài như suối. Tôi vội quì sụp xuống khấu đầu cầu xin được Người chở che, cứu giúp. Sau khi nghe tôi giãi bày nguồn cơn, khẩn cầu thống thiết, Đạo sĩ cất giọng vang rền như loa truyền trong hang núi, phán rành rọt rằng:
– Nhà ngươi về xây một cái lâu đài sơn son thiếp vàng nguy nga tráng lệ, ta sẽ có Thiên Chước bắt con chuột đầu đàn nhiều mưu mô đục khoét nhất, phá phách tàn bạo nhất vào “ngự” trong ấy và phong cho nó ngôi “Bá vương Chuột”; ngay lập tức, tất cả các loại chuột khác sẽ tự bó tay kéo đến, bái kiến xin quy hàng…hàng…h…à…n…g…
Dứt lời, Đạo Sĩ lẫn vào mây. Tôi ngẩng mặt lên thấy một khoảng trời hoang vắng!

 

THẰNG CÂM
(Truyện ngắn)

Mỗi người đều có một cái tên. Người tên hay, người tên dở. Nhưng chắc chắn là ở mỗi cái tên đều gắn với một sự kiện và mang một ý nghĩa nào đó. Có thể nói, cái tên cũng có lịch sử của nó, có khi lại là cả một câu chuyện tình thơ mộng. Như chị Hai tôi chẳng hạn. Năm ấy, trong một trận càn của địch, o du kích nọ dắt một anh bộ đội chủ lực chui xuống căn hầm bí mật trên bờ sông Thu Bồn. Họ ở trong ấy một ngày một đêm và sau trận càn ấy có chị Hai tôi. Tên chị là Hồ Lệ Dạ Thu.
Còn nó, tôi dám đánh cược với cả khu Tam Hoà, cả phường An Hạ, cả thành phố này, thậm chí cả nước nữa, đố ai biết nó tên khai sinh là gì? Ngay mẹ nó có khi cũng không biết. Mọi người cứ vô tâm lấy cái dị tật của nó gọi thành tên – thằng Câm. Nó bị câm điếc bẩm sinh. Với người câm điếc thì cái tên dở hay, xấu đẹp không có ý nghĩa gì hết.
Tuy là thế, nhưng nghe nói thằng Câm cũng có một cái lai lịch trắc ẩn. Mẹ nó mắc căn bệnh “chập cheng” thời vụ, thỉnh thoảng động trời là lên cơn ngẩn ngơ rồi đi lang thang. Chị ta là một phụ nữ rất khó định dạng, nhìn nhận ở góc độ này, bộ phận nọ có thể là đẹp, nhưng ở góc độ khác, bộ phận kia lại là xấu, rất xấu. Không thể có một cách nhìn thẩm mĩ toàn diện về chị ta được. Bởi vì người đàn bà ấy có một thân hình chắc lẳn, nếu đem tính số đo ba vòng ngực, hông, mông chắc là khá chuẩn, nên mới nổi lên những đường cong thiên thu rỡ ràng đến vậy. Không biết có ai bày vẽ cho hay không, mà chị ta cứ hay mặc áo bà ba chít li, xẻ nách hơi cao, để hé lộ ra những vùng eo nguy hiểm chết người. Nhưng oái oăm thay, đời lại gắn vào cái thân hình hoàn mĩ ấy một bộ mặt khó coi trông đến dị dạng: hàm ếch hở quá rộng, rộng đến mức có thể nhìn thông thống đến tận cuống họng; cái mũi khoằm như mỏ két lại bị vẹo và hai mắt không đều nhau, một con to tròn như con ốc bươu, một con dẹt lét như cái lá rau răm, kèm theo lé hết khẩu độ. Khen cho tạo hoá cũng biết tiên lường mọi việc, nên có cách lắp ghép khập khễnh như thế, cốt là để may chi làm triệt tiêu hết những đôi mắt hiếu sắc và ham hố dục vọng của cánh đàn ông. Nhưng rồi tạo hoá đành chào thua. Trong một lần đi lang thang, chị bị anh chàng nào đó rủ rê tặng cho một cái bụng chang bang vô thừa nhận, để rồi sinh ra một thằng cu bụ sữa. Sau lần sinh ấy, bệnh viện đành triệt sản luôn cho chị ta.
Đúng là “Cha mẹ cú đẻ con tiên”! Thằng cu ú na ú nần, múp míp như cái hột mít trông đến là sướng mắt, nhưng có nét gì đó hơi là lạ, hình như nó không biết khóc, không biết cười. Là cục vàng của chị, nó lần lữa lớn lên trong vòng tay mẹ và sự bảo bọc của các cậu, các dì, trong sự thương cảm của mọi người. Thật tội nghiệp! Lớn lên nó bị câm. Chẳng ai trách cứ gì mẹ nó cả, có trách thì trách một gã đàn ông vô hình nhục súc nào đó mà lại mang bộ mặt con người. Nhưng biết đâu rằng, tai ương rơi vào một người như chị ta lại là một sự hạnh ngộ. Mà cũng ngộ thật! Sau khi sinh thằng nhỏ, chị ta gần như hết triệu chứng chập cheng ấy; thỉnh thoảng khi trời động, cũng còn đi lang thang thơ thẩn, nhưng đi một lúc rồi trở về ngay.
Nhiều người tò mò hỏi thằng Câm là của ai? chị trả lời mỗi lần một khác. Khi thì của một bác nào đó giàu lắm ở cái bãi rất nhiều xe. Bác ta kéo chị lên một cái xe to, nói là lên đó ngủ cho ấm, nhưng lại là để làm cái chuyện ấy. Xong việc, bác ta đóng cửa xe lại đi luôn, chị phải trèo qua cửa sổ để ra. Có khi, lại là một cậu thanh niên choai choai rủ chị đi dạo chơi, vào một cái vườn rộng lắm, rộng đến nỗi không nhìn thấy bờ rào. Nó đè chị xuống cái ghế đá mát ơi là mát, rồi dấn lấy dấn để mạnh ơi là mạnh. Chị bấu vào lưng, càng bấu nó càng hăng hơn. Xong rồi, nó lội vội như có ma đuổi đằng đít, bỏ chạy mất để chị lại một mình. May là nó còn có chút đức độ ném trả lại cái quần, chị ngồi dậy tự mặc quần đi về. Lại của một anh nào đó nữa ăn mặc đẹp và đi cái xe sang lắm. Anh ta lấy cái bịt miệng bảo chị đeo vào, chạy xe lòng vòng đưa chị vào một ngôi nhà rất to trong hẻm; vật chị ra giường, hôn chùn chụt lên vú, lên bụng… Miệng thì thào “Thân hình em đẹp quá!”, tay sờ mông, nắn eo; rồi vồ lên người chị hùng hục, rên hừ hừ, cái giường nhún lên tưng tưng, rung rinh mà êm ru. Khi đã mệt lử, ông ta quay mặt, rút túi cho chị tiền rồi mở cửa đi đâu mất, chị lần tìm mãi mới thấy lối ra, tự tìm đường về…
Nghe người ta hỏi hoài, tức cái mình, chị trả lời cụt lủn: “Của thằng cha nó!”. Hết hỏi.
Khi gia đình tôi chuyển đến ở khu Tam Hoà này thì thằng Câm đã ra dáng một thanh niên, nước da ngăm đen bóng như tượng đồng, cơ bắp nổi cuộn thừng, tay chân rắn chắc như dùi đục; không thuộc loại đô con nhưng có thể sánh ngang trai lực điền. Đặc biệt thằng Câm có đôi mắt rất sáng, sáng quắc, thường ánh lên khi giận dữ cũng như lúc vui buồn. Đúng là mắt của người câm! Thằng Câm quý tôi chắc là vì nó biết tôi làm nhà báo, cũng vui tính và thỉnh thoảng đi đâu về hay gọi cho nó mấy điếu thuốc ba số năm (555). Tôi không hút thuốc nhưng có ai mời là tôi cầm luôn, có khi cầm cả gói về cho nó.
Cả khu phố ai cũng biết và quý mến thằng Câm. Hai mẹ con nó làm công nhật cho cửa hàng buôn bán phế liệu của gia đình tôi ngay nơi đầu hẻm. Hình như đấng tạo hoá lấy mất của nó âm thanh và ngôn ngữ, nên bù đắp lại những đức tính quý giá khác. Người ta cho rằng người câm hay cộc. Thằng Câm chẳng cộc cằn tí nào mà lại vui tính và rất tốt bụng. Đang đứng cân phế liệu mà thấy người già, con nít xớ rớ qua đường, lập tức nó bỏ việc chạy ra ngay, miệng la “hoắy…hoắy…”, tay huơ lên ngăn xe lại, áp tải người qua đường. Lúc nào cũng thấy Câm cười, ngay cả bị ai trêu ghẹo, chỉ tội là cười không thành tiếng, cố lắm cũng chỉ nghe được vài âm “hục… hặc…” trong cổ họng. Câm rất nhanh nhẹn và chịu khó, ai gọi nhờ việc gì cũng làm, làm cho bằng xong mới chịu ngơi tay. Tiền công trả bao nhiêu tuỳ theo hoàn cảnh từng người và tính chất công việc, gặp nhà khó hay công chuyện giản đơn nó giúp không công, nhưng chẳng ai lợi dụng hay chèn ép hẹm công sức của nó. Ngược lại, có ai đó đưa tiền hơi nhiều và có ý bố thí thêm, nó trả lại liền.
Ở thằng Câm còn có một khả năng đặc biệt “xem mặt bắt hình dong” khi nhìn vào mắt người khác. Có thể nói đó là yếu tố thiên nhãn bẩm sinh. Thấy tôi vừa dắt xe ra, nó chạy tới đứng trước mặt nhìn rồi xuống thế trung bình tấn, khuỳnh hai tay ra phía trước lắc lắc cái cổ tay. Tôi gật đầu. Đúng y rằng tôi đang tìm cậu em cột chèo thường hay đi chiếc xe mô tô nhãn hiệu Bờ rô 125 phân khối. Nhìn thấy mấy người đàn ông lơ ngơ đi vào hẻm, nó đón lại nhìn rồi cong ngón tay cái với ngón tay trỏ thành hình tròn để lên mắt. Đúng là họ đang tìm cậu Ti “cận” buôn xe. Nó dẫn chỉ ngay. Ti “cận” đang ngồi nhậu ngoài quán. Một anh chàng nọ dừng xe đầu ngõ có vẻ sốt ruột đứng chờ ai. Nó đi lại nhìn thoáng qua, ưỡn người đưa hai tay vồng trước ngực, rồi chạy vào gọi ngay chị Gái tiếp viên nhà hàng Trùng Dương, người có bộ ngực bốc lửa. Chị Gái ngúng nguẩy chạy ra ngồi tót lên yên sau, anh ta rồ ga chở chị ta đi mất hút.

Tôi có công việc cần phải đi vắng một thời gian, khi trở về không thấy thằng Câm đâu cả.
Nghe tôi hỏi, mẹ nó trả lời niềm vui lộ ra mặt:
– Nó đã sung vào đội quân bốc vác ở bến cảng rồi chú nờ.
– Thôi thì như thế cũng được. Khoẻ mạnh, nhanh nhẹn và chịu khó, công việc ấy chắc là hợp với nó đấy.
– Nghe chừng làm ở đấy cũng vất vả lắm, bận bịu tối ngày, sáng dậy đi từ mờ sáng, chiều đến tối mịt mới về, nhưng bù lại nghe nói dạo này thu nhập của nó cũng khá.
Thăng Câm đi làm rồi, mỗi người một việc, tôi với nó ít có dịp gặp nhau, thậm chí có mấy điếu thuốc thơm bỏ túi không gặp mà cho, để đến mốc meo rồi đem ném vào thùng rác.
Bỗng dưng tôi nghe có tin đồn rằng: Thằng Câm gặp được một ông bố đỡ đầu làm sếp ở cảng giàu ú hụ, không chừng nó cũng sắp sửa làm sếp nay mai. Hằng ngày, xong công việc ở cảng, cậu ta cũng áo quần bảnh bao, rủng rỉnh đồng ra đồng vào, ăn nhậu bù khú như ai. Gặp được vận may, lập tức đời người một bước lên sang, cũng mừng cho nó. Có người lại đoán già đoán non rằng, biết đâu ông bố đỡ đầu ấy lại chính là ông bố thật của nó cũng nên. Kiếp đời người vòng vo ai biết đâu mà lần (?!). Nếu đúng như vậy thì hạnh phúc cho nó quá, lại càng thú vị hơn với cuộc đời!
Máu nghề nghiệp kích thích, tôi la cà xuống cảng, không phải để viết báo mà chỉ để biết thêm, và cũng để thoả tính tò mò. Mà nếu sự thể đúng như thế, thì tôi phải chia vui với nó và có cái để viết. Tính nhân văn cũng len lỏi trong từng thân phận con người, cũng đáng được khai thông thành báo, thành văn.
Nhưng, sự việc hoàn toàn không phải như thế, không có một ông bố, ông sếp nào ở đây cả. Chỉ có thằng Câm là sự thật một trăm phần trăm, y như lời đồn thổi – “Hằng ngày, xong công việc ở cảng, cậu ta cũng áo quần bảnh bao, rủng rỉnh đồng ra đồng vào, ăn nhậu bù khú như ai”.
Thời gian đầu vào cảng, thằng Câm làm bốc vác thật, với đức tính như nó, ai cũng thương cũng quí. Mọi người coi nó như cháu con, muốn giúp đỡ gánh gồng nặng nhẹ, có ăn chia thì nó cũng được ưu ái phần hơn. Trong những khi mọi người ngồi nghỉ ngơi châm điếu thuốc, uống ly nước có nó là vui, chọc ghẹo chiêu dụ tiếng cười cho khuây khoả nỗi nhọc nhằn trong khi còng lưng, trần vai lo miếng cơm manh áo. Và rồi, dần dần không biết bắt đầu từ ai và từ lúc nào, thằng Câm trở thành con cưng của tất cả mọi người trong cảng. Từ vị lãnh đạo đến các anh chị ở cảng vụ, hải quan, lao công tạp dịch; từ thuyền trưởng, đại phó tàu viễn dương đến các chàng thuỷ thủ; từ chủ hàng, chủ tàu đến chủ xe, cai thầu bốc xếp; từ các chị bán hàng quanh cảng đến các anh chạy mánh, đội ngũ tiếp viên tiệm rượu, ca ve vũ trường… nó đều bá cổ bá vai được tất; ai có dịp cũng chèo kéo “nịnh nọt” nó, cưng chiều hơn con em trong nhà.
Lạ lắm ư! Bình thường thôi! Cũng có thể coi như chuyện bày binh bố trận trong một cuộc cờ. Thua thiệt đường này lại lợi thế đường kia. Trong tất cả các mối quan hệ chằng chịt và phức tạp lắt léo ấy, thằng Câm là chiếc cầu nối, là đầu múi rối rắm của nắm tơ vò. Đó là bí quyết? Tất cả cũng chỉ để tồn tại trong guồng quay chóng mặt của qui luật phố thị sinh tồn. Người có của, nhưng chưa thấy đủ, cần tìm đường làm ăn thêm phú quý sang giàu. Kẻ còn thiếu trước hụt sau phải bươn chải cuộc mưu sinh mong đắp đổi tháng ngày. Và cũng có cả những ai đó mánh mung chụp giật, nhăm nhe cơ hội đánh quả ăn xổi ở thì.
Tàu đi nước ngoài về cập bến có mang theo những thứ ngoài luồng muốn qua mặt hải quan, cần phải lót đường cho một ai đó mới êm trôi; hàng về cảng cần phải giải phóng nhanh để bớt đi chi phí lưu kho, lưu bãi; cần phải có chất xúc tác bôi trơn ở khâu nào mới mong được cất cầu sớm… Chủ tàu, chủ hàng phải gói ghém “năm lít”, “mươi vé” đi luồn cửa sau, nhưng trong tình hình chống tham nhũng, chống buôn lậu căng như dây đờn, chốn chốn nơi nơi tai vách mạch rừng như thế, bố ai dám đưa, cha ai dám nhận. Đến khi bể bạc, đương sự khai ra, cả đám mất chức, sa vào con đường lao lý, không lo liệu được đường êm đành vào nhà lao ngồi gỡ lịch mọt gông như chơi.
Muốn tránh tiếng né mặt mà được việc, ông anh cứ ngoắt tay gọi thằng Câm lại, nhờ nó vậy. Nó nhìn vào mắt người này biết đưa cho ai, chiếu vào mắt kẻ kia biết có nhận hay không. Xong béng liền. Trôi tuột hết. Đã đi cửa sau phải nín thin thít, lẹ mắt, nhanh tay và biết xoá dấu vết, nên biết trọng dụng thằng Câm là thượng sách. Trong những vụ như thế, lúc đầu thằng Câm chỉ nghĩ là làm giúp người ta thôi, nhưng về sau có ai đó bày cái trò tính chi phần trăm cho nó, cả hai phía đưa và nhận. Đồng tiền không cần ngôn ngữ, trông thấy nó ai lại chẳng ham. Nghĩ cho cùng cũng hợp lý và sòng phẳng theo luật chơi không văn tự. Giới làm ăn họ tự hiểu. Đó là một công việc nguy hiểm đa chiều.
Thuỷ thủ lênh đênh hàng tháng trên đại dương, nay đặt chân lên đất liền, ai đó muốn có một tí mèo mỡ lạ hơi, xả gió. Các em mỏi lòng trông ngóng cánh mày râu cao giàn, khoẻ mạnh, đẹp trai và trong túi rung reng rung rẻng kim ngân, nhưng khát tình đến cháy họng. Chàng, nàng muốn nhắn anh gọi ả nào sạch mũi thơm da, cứ bắn mắt cho thằng Câm là cởi dạ đẹp lòng mà đóng kín như bưng, im hơi lặng tiếng. Riêng cái khoản này, thằng Câm chạy chơi miễn phí, nhưng tất cả đều chơi đẹp với nó. Đời thuỷ thủ phong sương và đa tình, các anh chị ăn chơi đẹp lòng, ưng ý, quân tử giai nhân thường rộng rãi phóng tay.
Và còn có biết bao nhiều mối lái mồi chài trong quan hệ làm ăn, mua bán khác trên bến, dưới thuyền; những mối quan hệ không nhìn thấy hình hài, không gọi được thành tên và bóng dáng thằng Câm thấp thoáng đây đó, vẫn là một gạch nối con thoi.
Không phải tất cả công việc môi giới chỉ trỏ trong cơ man mối quan hệ làm ăn, giao du bến bãi chợ trời đều là bất hảo. Nhưng, nhiều mánh lới làm ăn nhì nhằng dích dắc tại cảng, ai còn lạ gì. Có thể nói không ít vụ phải gọi đúng tên là hối lộ, là tham ô, là đút lót… chắc chắn khi đã khởi sự điều tra là cấu thành tội phạm và có đậm nét dấu vết của thằng Câm vào cuộc. Nó là bí quyết của “nhân chứng vật chứng”. Hãy đợi đấy!
Nghe nói cũng đã có lần cơ quan công an triệu thằng Câm đến, vì có ai đổ vấy cho nó chủ mưu trong một vụ đánh người gây thương tích, nhưng không làm cung được. Người câm không không biết nghe và không biết nói, nên họ cũng không biết khai.
Tôi bị dằn vặt. Nhân gian có câu “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Biết đâu đồng tiền có ánh kim loá mắt, làm cho thằng Câm trượt chân vào vòng xoay ma quỷ của nó. Mà cũng có thể thằng Câm đã nhầm lẫn khái niệm, lòng tốt dễ bị lợi dụng và bị xô vào cuộc rồi trở thành nạn nhân. Trình độ như thằng Câm, biết làm sao để lý giải cho nó hiểu được như thế nào là giúp đỡ khác với tiếp tay, là tội phạm và tòng phạm, hối lộ và môi giới hối lộ, mại dâm và môi giới mại dâm… Câm điếc bẩm sinh không phải là đối tượng miễn trừ của pháp luật, là không phải chịu trách nhiệm hình sự. Với nghiệp vụ hình sự, có thể người ta có thừa chứng lý để bắt một người Câm. Nhưng làm cách nào để thành cung, kết án thì thuộc về nghiệp vụ của cơ quan điều tra.
Tôi cảm thấy mình có lỗi với thằng Câm, cần phải làm một điều gì cho nó khi chưa muộn. Nhất định tôi phải tìm cách khuyên nhủ nó, thà trở về nhặt nhạnh phế liệu với mẹ, ít tiền nhưng đó là những đồng tiền sạch sẽ và lương thiện.
Với suy nghĩ ấy, tôi rông vào cảng tìm thằng Câm. Gặp tôi, nó cũng tỏ thái độ hơi mừng rỡ, chúng tôi chiếu cái nhìn vào mắt nhau. Một lúc lâu, thằng Câm xoè bàn tay trái ra, tay phải làm động tác cầm bút để lên ngoáy ngoáy nhì nhằng. Nó muốn hỏi tôi rằng: “Anh tìm đến để viết báo đấy à?”. Nó liền xua tay và quay đi ngay. Ý nó muốn nói là “Không nên!” và “Không tiếp!”..
Tôi buông thõng hai tay buồn rười rượi. Như vậy là thằng Câm không đoán được ý nghĩ của tôi nữa rồi! Nó quay lưng đi thẳng xuống hầm tàu.

 

THẾ HỆ THỨ BA
(Truyện ngắn)

Chiến tranh vừa kết thúc thì gia đình tôi cũng tan nát. Hôm ấy, cả nhà đang quây quần quanh mâm cơm chiều thì hứng trọn hai quả đại bác 105 li bắn chồng lên nhau. Oái oăm thay, lại chính là loạt đạn đại bác cuối cùng bắn đi từ căn cứ Bồ Bồ, nơi trung đoàn dù của tôi đang đóng quân.
Một tuần sau thì quê hương tôi được giải phóng.
Vậy là cả gia đình hơn mười miệng ăn không còn ai nữa ngoài tôi, và…cậu em út! Gọi là em út theo thứ tự trước sau, chứ tôi với nó là hai anh em sinh đôi, nên cha mẹ đặt cùng tên là Sửu. Tôi ra trước gọi Sửu “anh”, nó ra gọi Sửu “em”. Càng lớn lên, hai anh em càng giống nhau như hai giọt nước.
Nói rằng Sửu “em” còn, nhưng coi cũng như không. Bởi vì, năm ấy hai anh em cùng chạy trốn quân dịch, tôi bị bắt lính đưa vào Trường Sĩ quan Đà Lạt, nó thoát được nhờ đâm một tên quân cảnh lòi bụng nhưng sau đó trốn biệt tích luôn.
Chiến tranh kết thúc. Cửa nhà tan nát. Người thân mất hết. Mang lon trung uý nguỵ quân Sài Gòn, tôi nhập vào làn sóng di tản, rồi sang định cư tại Nam Cali.
Tôi lấy vợ. Vợ tôi là một cô giáo trung học, người Mỹ chính gốc và sinh được một cặp con trai rất kháu, cũng lại sinh đôi. Có thể nói đó là sự lai tạo hài hoà giữa hai dòng máu Việt – Mỹ. Hai đứa trông cũng khá giống nhau, đều có màu tóc hoe vàng, làn da trắng và màu mắt xanh lơ giống mẹ; còn mũi, miệng và đặc biệt là vầng trán rộng với khuôn mặt vuông chữ điền giống cha như thể được cắt để sang. Rất tiếc là vợ và các con tôi không nói được tiếng Việt, chỉ biết mỗi tiếng gọi thân thương nhất là: “Bố Già ơi!”.
Các con càng lớn khôn thì sự thôi thúc trở về thăm quê cha của gia đình tôi càng tăng. Rồi rất bất ngờ, năm ngoái tình cờ tôi bắt liên lạc được với Sửu “em” – cậu em song sinh – thất lạc nhau sau hơn bốn chục năm nay. Thật kì diệu! Lại còn một Bùi Văn Sửu nữa, đứa em chung bào thai đang ở nửa phía bên kia quả địa cầu!
Sự thôi thúc ngày trở về càng trở nên cháy bỏng.
Qua thư từ, Sửu “em” kể cho tôi nghe: Ngày đó, sau trận vây bắt lính ấy, nghe tin tên quân cảnh bị đâm ấy chết trên đường đi cấp cứu, Sửu “em” chạy vào Sài Gòn rồi dạt sang Ai Lao và mất liên lạc luôn. Những năm sau đó, chú ấy tham gia đoàn Quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu trên đất Lào, vẫn mang cái tên cha mẹ đặt cho: “Bùi Văn Sửu”. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, chú ấy trở về quê gây dựng lại gia đình ngay chính trên mảnh vườn xưa của cha mẹ.
Tuy lấy vợ muộn nhưng cuộc sống của gia đình của chú sớm ổn định, “cũng tàm tạm, trông lên thì chẳng bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình”. Nhà cửa và vườn tược ở quê chú ấy giao lại cho ông bác sống độc thân ở trông coi, hương khói giúp bàn thờ ông bà, cha mẹ. Còn gia đình chú thím và các cháu chuyển ra thành phố làm nghề thu mua hàng nông sản xuất khẩu. Thời buổi này làm được như thế là khá. Cũng tại lấy vợ muộn nên vợ chồng chú thím tranh thủ sinh liền năm một, gọi là vọc trẻ con luôn thể, được hai cô con gái. Hiện hai cháu đang học cấp ba. “Nói cho bác mừng là các cháu giống cha như tạc”. Khi nói đến các con y rằng bao giờ chú ấy cũng bắt đầu một câu như thế. Như vậy thì các cháu cũng rất giống tôi. Dòng dõi nhà tôi có gien trội rất mạnh, máu ngoại quốc như Hoa Kì cũng không lấn nổi. Thật tốt phước, “Con gái giống cha làm giàu ba họ”.
Trong mối quan hệ Việt – Mỹ được bình thường hoá và vị thế Việt Nam hội nhập toàn cầu như hiện nay, khát vọng trở về thăm Việt Nam quê cha đất tổ trong gia đình tôi càng thôi thúc mãnh liệt hơn. Hiện vợ và các con tôi đang tích cực theo học tiếng Việt. Riêng hai cậu con đang chờ bảo vệ luận văn tiến sĩ y khoa. Tôi rất mừng khi các con đang có ý định tham gia một tổ chức từ thiện sang hoạt động tại Việt Nam.
Tôi hy vọng trong một ngày không xa, gia đình mình được đoàn tụ và hoà nhập bình thường cùng huyết thống, chung ngôn ngữ, trong cộng đồng người Việt ngay tại quê hương thân yêu.
Tuổi tác xếp cao như núi đồi, anh em tôi sắp bước vào tuổi lục tuần rồi. Nói theo các cụ Nho gia ngày xưa: Lục tuần bất đáo nha môn, có thể hiểu là sáu mươi tuổi rồi không theo nghiệp công đường. Những năm tháng xế bóng về già, mà tôi được kí thác tấm thân hơn nửa phần đời long đong lận đận, bôn ba lăn lóc nơi xứ người với quê hương; con cái tìm về được với tổ tông, nguồn cội thì nhất thiên hạ, ngẫm cười mãn nguyện. Sống ở đâu, sung sướng mấy rồi cũng không bằng trên quê hương mình! Tôi cũng thuộc lớp người cũ, ít nhiều thấm cách ngẫm nghĩ Á Đông, máu hồng không thể phai được. Thời trai trẻ loạn lạc nghĩ khác. Bây giờ sắp về già rồi nghĩ khác, cáo chết quay đầu về núi là lẽ tự nhiên. Cô vợ người Mỹ và các con tôi cũng cảm nhận được điều ấy. Thế là tôi hạnh phúc nhất đời.
Tết Đinh Hợi 2007, tôi là một thành viên của đoàn Việt kiều được về Việt Nam ăn tết. Có thể nói đó là sự ưu tiên của gia đình tôi bên Mỹ, cho “Bố Già ơi” được về trước thăm quê hương.
Năm nay gia đình Sửu “em” ăn tết to hơn, sang hơn mọi năm, cũng phải thôi, có tiếng được đón người nhà là “Việt kiều yêu nước” mà! Thấy gia cảnh của em như thế, tôi mừng lắm. Ngôi nhà ba tầng ngay mặt phố, hai tầng trên để ở, tầng trệt lập văn phòng; tiện nghi sinh hoạt cũng khá; các cháu xinh xắn dễ thương, học hành chăm ngoan.
Ba mươi mấy năm rồi tôi mới có được một cái tết vui xuân đúng nghĩa và thắm đượm tình cảm gia đình Việt Nam như thế. Nhưng khoái nhất vẫn là được nhìn hai cô cháu gái. Chúng nó giống tôi, giống cha, giống các anh nó. Vầng trán rộng thông minh, đôi má căng tròn chín mọng, kết hợp hài hoà với nét cằm cương nghị, làn môi mỏng chúm chím hay cười. Đó là gương mặt tươi sáng, đầy đặn, phúc hậu tôi đã in sâu vào tâm khảm. Đúng là dòng giống nhà tôi, những gương mặt đường nét rỡ ràng có thể đo vẽ được, sao mà xinh tươi, mà hồn nhiên, trong sáng như hai chị em trăng tròn!
Một cái tết sum vầy trôi qua chóng vánh, tôi sắp sửa phải trở sang Mỹ. Đêm trước khi chia xa, tôi giành thời gian chơi với các cháu thật nhiều. Tôi rất mừng khi nhận thấy các cháu cứng cáp trong cách nghĩ, cách nói so với những đứa cùng trang lứa, lại có nhiều điều kiện vượt trội. Thậm chí xài những đồ chơi cao cấp không khác gì con em nước Mỹ: máy vi tính loại cấu hình mạnh kết nối in tơ nét, các thiết bị điện tử nghe nhạc, xem phim, điện thoại không dây, phôn di động…; còn có cả những người bạn “chát” tận bên Mỹ nữa, nửa đêm chỉ cần nhấn phím vài cái là đã nghe tiếng nói, nhìn thấy nhau rồi. Nhưng hình như tôi cảm thấy các cháu hơi khôn trước tuổi, chưa hài lòng với những gì mình đang có, vẫn đang thiếu thốn và muốn một thứ gì đó để chơi mà ở Việt Nam chưa tìm được.
– Ngày mai bác trở sang Mỹ rồi, bác giành cho hai cháu cưng của bác một nguyện vọng. Thích gì cứ nói. Bác chiều hết.
Không cần phải suy nghĩ gì, cô chị nói ngay:
– Con muốn đi du học bên Mỹ. Ở bên ấy có thẩm mĩ viện hiện đại để sửa lại khuôn mặt của mình cho đẹp hơn. Bọn con thấy ghét cái cằm chành bạnh tạo nên khuôn mặt vuông chè bè mà ba con hay gọi là “lá trúc che ngang khuôn mặt chữ điền”. Ba bảo hai cái má phúng phính mới nhìn thấy là muốn thơm liền, mấy đứa bạn trai lại trề môi “Mặt nắp bầu ngó lâu muốn chửi!”.
Tôi bất ngờ như vừa bị ai đánh “bốp” vào mặt, đành ngồi im chứ chưa phản xạ kịp, chưa kịp nghĩ sẽ phải nói một điều gì với các cháu.
Đó là cách nhìn của các cháu tôi! Chúng nó không muốn chấp nhận khuôn mặt của cha ông ư? Mỗi bận soi gương, chúng nó cảm thấy hổ thẹn với gương mặt mình?!
Cô em đưa nhẹ tay bấm hông cô chị. Hình như nó muốn nhắc rằng: “Chị nói đúng ý em, bác đang nghe đấy, nói nữa đi!”.
– Ba mẹ là lớp người cổ điển của thời kì bao cấp, lúc nào cũng hoài cổ, cứ hay ca cho bọn con nghe bài ca trường thiên lí: lúc nhỏ ba mẹ đi học bằng…, ba ăn mặc như…, ba chơi bằng… cứ điệp khúc “bao giờ cho đến ngày xưa” như thế. Bọn con là lớp người hiện đại của kinh tế thị trường. Bác sống ở Mỹ lâu rồi, bác biết đấy! Mấy tấm bằng tiến sĩ, thạc sĩ ấy à, cứ du học là có tất. Nếu có tiền thì mọi thứ đều có thể mông má, đề mâng tê đánh bóng lại được hết, kể cả thay máu, thay da.
Tôi choáng váng như vừa bị ai giáng một búa vào đầu. Hình như đó là ý nghĩ của ai, chứ đâu phải của hai cô cháu gái yêu kiều của tôi? Giờ đây trong tay họ có đủ tất cả rồi, người ta muốn nắn lại hình hài, đổi thay huyết thống, sửa lại bộ mặt cha ông. Thế hệ thứ ba của dòng giống nhà tôi đấy ư? Một thế hệ được nuôi lớn lên trên chính giang sơn gấm vóc rồng tiên lại là như thế đấy ư?! Tội nghiệp cho vong linh ông bà, cha mẹ; tội nghiệp cho anh em tôi, và tội nghiệp cho chính cả các cháu nữa!
Tôi ngồi im mím môi bất động như pho tượng. Tưởng tôi đang chăm chú lắng nghe, hai cháu còn nói thêm gì đó nữa, nói rất nhiều, nhưng tôi nghe mà không hiểu.
Tôi cảm thấy lòng mình trống không, trơ trọi, hình như có một khối băng đang tan dần.

 

CHIÊM BAO
(Truyện ngắn)

Tôi không tin những giấc mơ. Chuyện trong mơ không có thật. Đó chỉ là cuộn phim được chắp nối vụng về kém logic, trình chiếu cho ta xem trong giấc ngủ; hay hơn chuyện cổ tích, siêu hùng hơn thần thoại, rùng rợn hơn phim kinh dị. Nội dung và hình ảnh liên kết nhau nhiều khi rất vô lí, sự vô lý đạt đến mức hoàn hảo chỉ có được trong những cơn mơ. Nhưng tôi công nhận cảnh trí và tình tiết là chất liệu có thật ngoài đời. Có một đêm tôi nằm mơ thấy Nữ Thần Tự Do (ở nước Mỹ) cầm súng AK47 rượt đuổi tôi tại tháp Mỹ Sơn (ở Duy Xuyên, Quảng Nam). Tôi, Nữ Thần Tự Do và tháp Mỹ Sơn đều có thật, nhưng liên kết lại thành chuyện như thế là vô lí, chỉ có trong mơ.
Mấy người bạn chơi với tôi họ lại hay quan tâm đến những giấc mơ, nhất là những giấc mơ có điềm dữ. Theo họ, chuyện trong mơ, nhưng cũng có khi lại mách bảo cho ta một điều gì đấy rất thực, hình như có sợi dây linh ứng kết nối mỗi người với thế giới vô cùng. Cũng có thể gọi là giác quan thứ sáu, điềm báo mộng. Phải chăng vì lẽ ấy mà dân gian còn gọi giấc mơ là “chiêm bao” và cứ lấy chiêm nghiệm mà suy “sinh dữ tử lành” của luận thuyết âm dương, thấy sinh thành có thể gặp chết chóc, thấy li tan hãy tin ngày hội ngộ, thấy bị chiếm đoạt sẽ được ban cho…
Tôi vốn là người thẳng tính, thích phải trái phân minh, từng được bạn bè phong cho là “nhân vật cương trường và khẩu khí”. Theo quan niệm của Khổng Tử Ngũ thập tri thiên mệnh, nghĩa là năm mươi tuổi biết rõ số mệnh của mình. Năm nay tôi vào tuổi năm mươi ba, gối đầu cái vận hệ Bốn chín chưa qua năm ba đã tới. Người trong nhà khuyên tôi nên “tu” bớt đi. Không biết có phải vì thế mà vài năm trở lại đây, tính tình và cách sống của tôi trở nên nhu mì hẳn? Có người cho rằng tôi nhụt chí đấu tranh, an phận thủ thường. Mặc kệ, công việc của mình cứ lo làm cho xong là tự vui, tự thưởng. Ai đó nói phải, nói quấy mặc ai, cứ tròn và trơn lu như viên bi thì lăn phía nào cũng được. Cách nhìn của tôi cũng thoáng hơn và chỉ thấy toàn mặt tốt của người ta thôi, còn cái nhược điểm là do nghịch cảnh khách quan chứ chẳng ai muốn; khen mãi người ta nghe cũng kì, lại mang tiếng là kéo bè xu nịnh cấp trên; cần phải vạch khuyết điểm, nhưng chủ yếu là thấy những khuyết điểm oai. Đương nhiên là tôi đứng trên lập trường tự phê bình và phê bình, nhưng phải lấy khen ưu điểm là chính.
Đại loại như:
Khi nhận xét cấp trên, tôi tỏ lòng thông cảm: Đồng chí ấy tốt lắm, thể hiện rõ đạo đức cách mạng “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; khổ nỗi tại vợ con hơi kém nhận thức, cậy thế ông chồng có chức mà làm bậy, thậm thụt cửa trước cửa sau. Thấy quà cáp, phong bao người ta mang đến tận nhà biếu tặng ai mà chẳng thích, lại còn có đại diện chính quyền, đoàn thể tháp tùng theo; là đàn bà, con nít làm sao mà phân biệt được đâu là quà biếu đúng, đâu là quà biếu sai. Thôi thì nhận tất, nhận nhầm còn hơn bỏ sót cho tất cả cùng vui. Ông nhà lại mải mê lo công việc lớn ở cơ quan nên không hề hay biết. Việc nước việc dân khác với chuyện nhà, ai làm nấy chịu, chứ cắc cớ chi mà qui chụp dây nhợ lung tung cho mất uy tín người ta.
Có dịp ngồi với thủ trưởng, tôi thủ thỉ tâm tình: Anh hay tham công tiếc việc quá, nhiều công trình xây dựng cơ bản ở các dự án lớn vùng sâu, vùng xa, tiêu tốn tiền tỉ, đi lại khó khăn, bên A bên B nhì nhằng đến phải lao tâm khổ tứ; tháng năm lại kê cao tuổi tác lên như thế mà cũng cứ nai lưng ra gồng gánh một mình. Biết là mình thương anh em thật, nhưng cứ làm như thế thì lớp trẻ chúng nó ỉ lại, không tiến bộ được.
Phát biểu trước cơ quan, tôi thể hiện sự quan tâm sâu sắc: Tuổi cao chí càng cao. Lãnh đạo càng lớn tuổi càng sốt sắng với công việc chung mà quên đi chuyện chăm lo sức khoẻ cho riêng mình. Tổ chức xem có cần thiết tuyển thư ký? Phòng Hành chính phải nghiên cứu tham mưu lịch trình công tác sao cho khoa học hơn, nên bớt đi những buổi làm việc, tiếp khách ngoài giờ; chuyện đi lại cho sếp cứ mạnh dạn bố trí xe ô tô cơ quan đưa đón, để giữ sức khoẻ còn đảm nhận công tác lâu dài.
Khi đụng đến những vấn đề quyền lợi, tôi thể hiện sự hy sinh và tôn vinh cá nhân đúng mực: Cơ quan ta hoàn thành tốt nhiệm vụ là nhờ mỗi cán bộ công chức đều cố gắng đem hết sức mình hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đó là công lao và trí tuệ tập thể. Nhưng chúng ta cũng phải công nhận là có sự chỉ đạo sáng suốt của thủ trưởng trong việc phát huy tối ưu sức mạnh tổng hợp của quần chúng. Sếp mà khước từ danh hiệu Huân chương Lao động, chối bỏ nâng lương trước hạn thì anh em ta đố ai dám cầm.
Ở đời ai cũng thích khen, khen người ta họ sướng mê li, nhưng rồi mình cũng nhọc cái tâm lắm lắm, nhất là đối với các thủ trưởng. Họ cũng giống như các bà đầm khó tính ở nhà, một câu chê vô tình là mất toi công ba năm nịnh vợ. Cái lỗ tai quen nghe khen rồi nó rất nhạy, dễ dị ứng với lời chê, lỡ lời một câu khó nghe là coi như lấm lưng phơi bụng. Cũng chính vì thế mà trong cách nói năng của tôi dạo rày phải từ tốn, người ta bảo trước khi nói phải uốn lưỡi ba lần, nhưng tôi phải uốn éo đến năm bảy lượt. Cực chẳng đã, phải nói vậy mà không phải vậy nên mới nhọc cái tâm.
Cuối kì họp cơ quan bình xét thi đua, cuối năm sinh hoạt chi bộ phân tích chất lượng đảng viên, cứ nghe tôi nói là ai ai cũng tâm đắc gật đầu. Có người còn rỉ tai nuối tiếc: “Cung cách sống như thế mà anh có được từ cái tuổi hâm, tuổi băm, thì đến giờ chắc phải làm đến ông Bộ, ông Cục chứ chẳng chơi!”.
Nói thế là quá phóng lời, cứ hiện tại trước mắt thì biết, dạo rày nhiều anh em hay thích ngồi bầu bạn với tôi hơn xưa. Cứ vài ve sương sương rồi bốc phét đưa nhau lên mây là ai cũng khoái.
Một đêm tôi vui quá chén với bạn bè và trở về nhà trong trạng thái quá say, say không còn biết gì hết. Sáng dậy cũng không nhớ mình trở về nhà bằng cách nào. May là xe cộ, người ngợm không sứt mẻ gì, chắc có “Bà” theo đỡ! Nhưng tôi phát hiện ra mất cái ví. Không biết lúc say xỉn u u mê mê như thế liệu tôi có đem nhét vào đâu không nhỉ? Trong ấy còn bao nhiêu tiền tôi không nhớ, quan trọng nhất là có một số giấy tờ tuỳ thân. Sực nhớ đến tuổi “năm ba”, tôi chíp miệng thở dài và tự an ủi: “Thôi thì của đi thay người vậy!”.
Chung quanh việc mất cái ví bắt đầu nảy sinh phiền toái. Trong nhà, vợ nghi ngờ bạn bè đàn đúm kéo nhau đi uống “bia ngu”, để em út vòi tiền móc túi; đến các cơ quan công quyền gặp cảnh ì xèo khi xin cấp lại giấy đăng kí xe, bằng lái và các loại thẻ cấp phép hành nghề, mất mấy ngày trời mà kết cuộc vẫn chưa đâu vào đâu.
Đêm hôm ấy, tôi nằm mơ và thấy cái ví của mình bị vợ đem đốt cùng với thùng giấy lộn; còn mấy em tiếp viên ở một nhà hàng nào đó thì xúm vào ôm tôi hôn chùm chụp, khóc bù lu bù loa kêu oan bị lừa cả tình lẫn tiền.
Thức giấc, tôi khẳng định với vợ là chiêm bao về báo mộng rằng cái ví không mất. Vợ tôi trề môi đánh cược:
– Nếu tìm được thì cho tự do ăn nhậu, không tìm được coi như cấm tiệt.
Một cuộc tìm kiếm đại quy mô trong nhà bắt đầu. Chỗ nào có giấy, có báo, có thùng đều được xả ra xếp lại; sục tìm kĩ đến nỗi con gián, con thằn lằn cũng phải bò hết ra.
Vợ tôi vừa làm vừa chọc cười, nói năng vô tư:
– Anh thường bảo ngạn ngữ Pháp có câu “Mất tiền thì được kinh nghiệm…”, hôm nay chắc kinh nghiệm đầm đìa; bỏ công đi lục túi tất cả các o tiếp viên ấy thì may chi tìm thấy.
Bực mình, tôi xô cái giá sách gắn trên tường đổ đánh “rầm” xuống đất, miệng lẩm bẩm:
– Kho kinh nghiệm đây này! Giấy lộn đây nữa này!
Bỗng nhiên, cái ví văng ra từ một quyển tự điển đóng bìa cứng. Đang vui, vợ tôi chuyển tông lầm rầm:
– Say mà còn biết khôn, giấu kĩ như thế bố ai mà tìm cho ra.

Chắc bước vào ngưỡng tuổi già, nên dạo rày tôi thường khó ngủ và hay gặp những cơn mộng mị.
Đêm qua, tôi lại mơ. Một cơn mơ có thể nói là dữ dằn nhất từ trước đến giờ – cơn ác mộng:
Đang ngủ ngon, bỗng thấy chớp loé chói loà, nghe sấm nổi đùng đùng, tôi giật mình thức giấc. Cớ sao khuôn mặt lại nặng trình trịch như thế này nhỉ, nó được tạc bằng đá chăng? Tôi bước lại trước tủ đứng soi gương. Có chuyện gì đã xảy ra thế nhỉ? Kẻ hiện ra trong gương kia không phải tôi, mà là một gã nào đó lạ hoắc lạ huơ, khuôn mặt như được làm bằng sáp, áo quần thẳng nếp phẳng phiu, chỗ đúng ra phải đeo cái ca ra vát thì lại thắt cái dây thòng lọng; tóc tai gọn gàng, rẽ ngôi thẳng tắp, láng mướt sáp dầu. Tôi chưa hề gặp gã bao giờ. Gã ta đứng dạng chân, tay chống nạnh như đang thách đấu, vai đeo lòng thòng những cái mặt nạ dữ chằn chằn. Tôi thử nhoẻn miệng cười thì gã kia mếu máo khóc, tôi giả vờ khóc hu hu thì lập tức hắn ta lại nhe răng ra cười sằng sặc. Đang mơ chăng? Tôi quờ tay cấu mạnh vào bụng, nghe đau điếng: chứng tỏ mình đang thức một trăm phần trăm. Nổi xung, tôi trợn mắt, chỉ tay định quát vào mặt nó: “Hãy cút xéo đi! Mày không phải là tao”. Nhưng tôi vừa há miệng ra thì lưỡi đã cứng đơ đơ như vừa được nẹp cố định bằng thép.
Thấy tôi bị á khẩu, gã kia cất giọng lảnh lót, chất giọng quan hoạn ấy rất phù hợp với tạng người của gã: “Tôi chính là anh mà anh lại không nhận ra ư? Cũng phải thôi! Anh đang sống kiểu lá mặt lá trái, luôn nói dối lòng; còn tệ hại hơn nữa, anh cam tâm tự đánh lừa chính bản thân mình?!”.
Không nói lại được bằng miệng thì phải đáp trả bằng tay, tôi tuốt gươm. Gã kia lừ lừ tiến tới, dứ ra trước mặt tôi một cái mặt nạ. Tôi thẳng tay đâm một nhát vào chính giữa cái hình thù quái dị, chó không ra chó, người không ra người kia. Lập tức cái mặt nạ ấy biến mất, cùng lúc khuôn mặt của tôi cũng vèo qua sau ánh chớp. Gã kia tiến gần thêm chút nữa, đưa ra một cái mặt nạ khác trông dễ sợ hơn, hình đầu lâu người, gắn sừng trâu và bờm ngựa, nhe hàm răng trắng hếu, hai hố mắt sâu hoắm đen ngòm. Tôi vung một nhát chém lạnh lùng. Cũng như lúc nãy, cái mặt nạ biến mất và gương mặt tôi lại thoáng qua cùng ánh chớp. Ngay lập tức những cái mặt nạ, nào chó, mèo, cáo, chồn, trâu, ngựa… ồ ạt lao vào tôi tới tấp như mưa. Không còn kịp đâm chém, tôi phải múa gươm mới chống đỡ kịp; những đường gươm loang loáng, lũ mặt nạ rơi tả tơi.
Gã kia đứng yên mỉm cười thách thức. Sau một cái rùng mình, toàn thân gã biến thành cái mặt Chằn Tinh khổng lồ vằn vện gớm ghiếc, cặp mắt to lồi ra đỏ bầm như hai bát máu, há miệng chìa hai chiếc nanh răng cưa dài ngoằng, mở ra, nghiến vào nhau, nghiến vào sỏi đá kêu “trèo trẹo” nghe ghê người. Mặt Chằn Tinh bất thình lình lao ập tới. Tôi lấy hết sức bình sinh, gồng mình, vung gươm bửa một nhát chém quyết liệt. Lưỡi gươm nảy lên như chém phải đá. “Choang!”. Một tiếng nổ chát chúa vang lên kéo theo những âm thanh pha lê đổ vỡ loảng xoảng. Khuôn mặt tôi trong gương cũng từ từ lộ ra nguyên hình. Đầm đìa máu.
Tôi bừng tỉnh cơn mê, ngồi choàng dậy, bàng hoàng. Soi vội vào gương thấy gương mặt mình vẫn y như thế, có khác chăng là thêm một chút ngơ ngác, mơ hồ. Tôi nhìn ra cửa sổ, thấy những khối mây hình thù kì dị (hồi nhỏ tôi nghe bà nội gọi là mây ông Phật) đang cuồn cuộn dâng lên như thể muốn che kín bầu trời đằng đông. Vậy là ông Thiên Lôi báo hiệu chuyển trời, có gió chướng trái mùa và đang hình thành một cơn giông.
Lạ quá nhỉ! Ngày xưa, Đông ki sốt từng đánh nhau với cái cối xay gió. Còn tôi ngày nay, lại chiến đấu tử sinh với một lũ mặt nạ vô hồn!? Tôi bị ám ảnh và dằn vặt bởi giấc mơ ấy.
Nhưng thôi. Đã là giấc mơ, không nói ra chẳng ai biết, cứ vin vào cái lí “sinh dữ tử lành” vậy! – Chiêm bao ấy mà!

 

NGƯỜI CON GÁI SÔNG TRƯỜNG
(Truyện ngắn)

1

Đứng bên bờ ấp Tây nhìn vượt qua mặt nước dòng Trường Giang là thấy Cồn Dừa. Không cần phải tìm căn nguyên lí giải về cái tên ấy, cứ nhìn cảnh vật là biết ngay: Một cồn cát nhô ra có sông nước ba bên, vài ba nóc nhà núp trong bóng tre xanh mát, mấy cây dừa vút cao trong thế đứng bạt gió như những nét kí hoạ giữa bầu trời. Phía xa xa thấp thoáng mấy luỹ tre xanh đậm như một đường viền cuối chân trời là vùng Duy Nghĩa. Nhìn từ xa, Cồn Dừa giống như một bức tranh phong thuỷ. Không phải giống mà đó là một phong cảnh sống, là nguyên mẫu của mấy bức tranh trương lên làm phông cảnh tại mấy hiệu ảnh trên thị trấn. Không chỉ Cồn Dừa phong cảnh nên thơ, mà nơi ấy còn gắn liền với thân phận một người con gái rất đẹp – cô Sáu “sót”.

Trong một ngày đen tối của những năm 1950, cả gia đình cô bị giặc Pháp “làm cỏ” trong vụ thảm sát đẫm máu. Ngày ấy dân làng may mắn nhặt được cô lên từ trong vũng máu chỗ chợ Bà, khi cô đang đói lả ôm bầu vú còn loang máu trên thi thể của người mẹ. Cô được ông Ba Phi ở Cồn Dừa đem về nuôi. Cô bé là người thứ sáu trong gia đình còn sót lại, nên ông đặt tên như thế. Ngày ấy cơ cực lắm, ông Ba Phi nghèo, sống đơn chiếc nhưng tốt bụng. Hằng ngày, ông bế ẵm bé “sót” đi xin bú nhờ khắp làng trên xóm dưới; nuôi bằng khoai lang với canh hến mà cô bé vẫn cứ thắm thịt hồng da, khôn lớn từng ngày.
Giữa sông nước mơn man, Sáu “sót” vượt lớn lên thành cô thôn nữ, trông non tươi như bông hoa súng giữa đầm. Nắng gò bãi, gió triền sông cũng biết chừa con gái ra, để cô có được mái tóc dài óng mượt như suối, làn da trắng ngần, đôi mắt đen láy long lanh. Với dáng người thon thả, vú nở, mông cao, Sáu “sót” đứng chân trước chân sau khoan nhặt chèo đò, khiến cả một vùng sông nước ngả nghiêng theo. Con trai xóm Đông, ấp Tây anh nào lơ ngơ đểnh đoảng lập tức bị gán cho một câu cửa miệng rằng: “Cái hồn thằng ni còn mắc cạn ở Cồn Dừa”.
Cồn Dừa nổi tiếng còn vì một lí do khác rất oanh liệt trong kháng chiến chống Mỹ: Năm 1965, quân Giải phóng bắn cháy hai chiếc xe lội nước của bọn Thuỷ quân lục chiến Mỹ ngay tại bến sông; bẻ gãy cuộc đổ bộ của chúng vào vùng Đông Thăng Bình. Cũng trong trận ấy, ông Ba Phi bị xe lội nước cán chết. Một cái chết thê thảm không toàn thây.
Sau khi ông Ba Phi chết, Sáu “sót” vào du kích rồi sung quân lên chủ lực huyện. Trai làng xóm Đông, ấp Tây tiếc ngẩn ngơ vì vắng bóng cô Sáu “sót”. Người đã đẹp rồi thì cái gì cũng đẹp, ông trời lại hào phóng ban thêm những nét tài hoa, cô Sáu có một giọng ca ngọt lịm như đường phèn. Nhờ giọng ca ấy mà cô được chuyển qua đội quân Binh địch vận, đêm đêm đi bắc loa phóng thanh chĩa vào đồn giặc hát Bài chòi, ca cải lương “những bài thơ Binh địch vận” kêu gọi nguỵ quân bỏ súng trở về. Nhiều tên lính Bảo an, Dân vệ đã buông súng, bỏ ngũ vì mê giọng ca của cô Sáu. Đêm hôm trước cởi áo giương cờ ra hàng, ngày hôm sau mon men hỏi thăm đường, tìm đến coi người ca bài Mấy dòng tâm sự giữa đêm khuya nghe đến não lòng ấy là người như thế nào. Trong số đó có Thượng sĩ nhất kiêm thông ngôn Tôn Thất Bảo Ninh người xứ Huế. Sau khi quy hàng, anh ta tình nguyện gia nhập quân chủ lực V15 của Huyện đội và khi có dịp là bám theo làm hậu đài cho tổ ba ba “Quân tóc dài” để được làm vệ sĩ cho cô Sáu. Động cơ duy nhất của anh chàng là được nhìn cô gái xứ Cồn Dừa và được nghe tiếng hát. Nguyên gốc của Tôn Thất Bảo Ninh là sinh viên Văn khoa của Đại học Huế, bị bắt trong một cuộc xuống đường của phong trào sinh viên phản đối chiến tranh, khi quân Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng năm 1965. Sau đó anh bị đôn vào trại huấn luyện ở Nam Vang, rồi bổ sung vào lính Bảo an và chuyển vào đóng quân tại đồn Tuần Dưỡng, làm thông ngôn cho tên cố vấn Mỹ Giôn-sơ-mít-lơ. Anh được gắn lon thượng sĩ thông ngôn là nhờ cái mác cử nhân Văn khoa, biết thông thạo hai ngoại ngữ Anh và Pháp. Anh chàng thượng sĩ thông ngôn Bảo Ninh ấy khá điển trai, dáng thư sinh và nói năng lưu loát đúng kiểu dân Văn khoa, nhưng khi đi chống càn, làm trinh sát, anh ta cũng lì lợm chẳng kém ai. Dù đã chiêu hàng và thành lính chủ lực quân V15 rồi, nhưng mọi người vẫn cứ gọi anh là “Thượng sĩ Thông ngôn Bảo Ninh”. Anh không thích như thế, đề nghị mọi người hãy vất cái lon thượng sĩ ấy đi, chỉ gọi là Thông ngôn Bảo Ninh cho vui thôi. Mọi người nghe theo, chỉ có mỗi mình cô Sáu không chịu. Cô bảo rằng mình không cần “Thông ngôn”, gọi là “Thượng sĩ Bảo Ninh” nghe oai hơn. Lúc đầu Thượng sĩ Bảo Ninh đi với tổ nữ Binh vận để mong được làm lính hậu đài, nhưng dần dần anh trở thành cộng tác viên và là tác giả của những bài thơ, lời ca mới. Với công việc này e chừng rất phù hợp với một chàng có gốc sinh viên Văn khoa như Thượng sĩ Bảo Ninh. Anh viết cho chính mình, cho bạn bè ở bên kia chiến tuyến, viết cho người đang cất lời ca. Những bài ca lúc dỗi hờn trách cứ, khi dồn nén nhớ nhung, cả gửi gắm hẹn hò, hy vọng… cứ trải dài ngân nga trong khuya vắng có sức lay động tâm can, thức tỉnh lòng người. Có hôm đang ca, cô Sáu ngừng lại đọc lời kêu gọi, lập tức loa phóng thanh trong đồn vọng ra: “Hãy ca tiếp đi! Đọc lời kêu gọi chúng tôi sẽ bắn”. Cô Sáu lại ca tiếp nghe mê mẩn hơn.
Còn có một điều gì đó nữa cứ gợn sóng lăn tăn rồi lắng lại, không biết người ngoài cuộc có nhận thấy hay không? Những đêm đi gọi loa đồn giặc mà có Thượng sĩ Bảo Ninh, hình như cô Sáu ca say sưa hơn, những cung luyến láy nghe chừng mượt mà hơn. Rất có thể tâm hồn cô gái sông Trường với chàng trai Cố đô ấy dễ dàng rung lên và giao thoa ở góc độ cung đàn nghệ sĩ. Giữa chiến trường sự sống và cái chết li lai trong tấc gan, ranh giới giữa ta và thù cũng mỏng manh như sống chết; huống chi bên mình là hơi ấm đồng đội, một tình yêu thuần tuý sẽ bất chợt thăng hoa. Biết hái hoa giắt lên đầu súng, cài lên mũ tai bèo, sao lại nỡ chèn ép con tim!

2

Vào mùa khô năm 1968, sau Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, vùng giải phóng của ta mở rộng; Mỹ nguỵ tăng cường các cuộc hành quân càn quét vùng giải phóng nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường. Từng đoàn, từng đoàn xe tăng thiết giáp chà xát, cày xới ruộng đồng vườn tược. Cô Sáu về lại vùng hạ lưu sông Trường công tác. Nhiệm vụ của chuyến đi ấy là xây dựng phong trào đấu tranh hợp pháp của đồng bào chống việc càn quét bắn phá cướp bóc của địch. Nòng cốt là lực lượng “Quân tóc dài”.
Giữa lúc ấy, vùng hạ lưu sông Trường bị một cuộc càn quét lớn của thuỷ quân lục chiến Mỹ. Cô Sáu không thoát kịp, đành ở lại hợp pháp với dân làng ấp Tây, nhờ các mẹ các chị bao bọc. Mọi người lo lắm. Người đẹp như thế bọn Mỹ mà nhìn thấy được thì khó bề thoát khỏi tai hoạ. Các mẹ các chị tìm cách bôi cô Sáu thành một con lọ lem xấu xí, áo quần nhớp nhúa, mặt mũi lem luốc. Nhưng không ngờ chính vì vậy mà vô tình gây sự chú ý cho bọn lính Mỹ và chúng đã phát hiện ra cô lọ lem ấy lại là một cô gái đẹp cải trang.
Một thằng Mỹ râu xồm xông vào chộp tay cô Sáu lôi ra, hai bà mẹ lăn ra giằng lại. Ngay lập tức cuộc đấu tranh giành giật cô Sáu giữa các mẹ các chị với bọn Mỹ đã xảy ra ngay tại ấp Tây. Bọn Mỹ kéo nhau đến quây vòng tròn, giương súng, chĩa lê bao vây vòng ngoài; ở vòng trong các mẹ các chị, các ông bà xúm nhau lại dang tay quây tròn giữ rịt cô Sáu. Một cuộc khẩu chiến tiếng tây, tiếng bồi lẫn với tiếng ta inh ỏi:
– Vi-xi?
– Nô Vi-xi.
– Không được bắt người lương thiện!
– Không được bắt người vô cớ!
Bỗng dưng một giọng đàn ông khàn và đục vọt lên:
– Đả đảo Đế quốc Mỹ xâm lược. Đả đảo bắt người!
Ngay tức thì những tiếng hô vang dội kéo theo:
– Đả đảo! Đả đảo! Đả đảo!…
Bọn Mỹ bắn chỉ thiên trấn áp. Những loạt súng AR 15 nổ chát chúa, vãi đạn lên trời. Một cuộc đối đầu không cân sức đang xảy ra, có thể châm ngòi cho một cuộc đấu tranh chính trị tự phát giữa một nhóm dân làng ấp Tây tay không với hàng trăm lính Mỹ thiện chiến súng đạn dư thừa.
Những ánh mắt mèo hoang xanh lè xoi mói thèm thuồng. Những bộ mặt khát máu hằm hè và đói khát dục vọng. Những ngón tay sát nhân đang lăm le siết cò súng. Chỉ cần chờ một tên Mỹ nào đó hô “Bắn” là ngay lập tức nhân dân lương thiện ấp Tây tắm máu.
Hình như cô Sáu nhận thấy trước những tai họa khủng khiếp sắp giáng xuống dân lành vô tội. Bọn ngoại bang xâm lược khác máu tanh lòng, bất đồng ngôn ngữ, không thể lý lẽ phải trái được; sẵn súng đạn trong tay, chúng sẵn sàng thực hiện những cuộc thảm sát không run tay. Người già, phụ nữ, trẻ em,…tất cả với chúng nó đều có thể trở thành mục tiêu là Vi-xi (Việt cộng) hết. Sáu từng là một nhân chứng sống và cả gia đình mình là nạn nhân. Vụ thảm sát Hà Lam – Chợ Được vào đầu thu 1954 đến nay nhắc lại vẫn còn rưng rưng sắc máu.
Mắt cô Sáu ánh lên sáng quắc như gươm, giọng nói nhỏ nhẹ và bình tĩnh đến lạnh lùng. Cô Sáu không nói với riêng ai mà muốn nói với tất cả mọi người:
– Đã đến nước này rồi thì để mình con Sáu lo liệu, cuộc đấu tranh còn dài, bà con mình đừng đổ máu lúc này vô ích.
Vừa nói dứt câu, cô Sáu rứt ra khỏi tay các mẹ, môi mím chặt tiến thẳng đến trước bọn Mỹ. Chúng nó xồ lên quây lại. Các mẹ các chị nhào theo nhưng lập tức bị những miếng đòn báng súng quại thốc vào sườn, những cánh tay lông lá to bè như cánh tay hộ pháp xô ngược trở lại. Những loạt súng AR15 chát chúa lại rít lên, khói súng xanh lè tuôn ra khét lẹt.
Tên Mỹ râu xồm lúc nãy túm hai tay cô Sáu giật ngược ra phía sau xô đi. Cô Sáu bị Mỹ bắt đưa về phía Cồn Dương.
Trưa mùa khô miền Trung mà bầu trời xám xịt âm u, không khí oi ả khó thở. Bọn Mỹ kéo ra khỏi làng rồi mà lẩn khuất đâu đây vẫn còn phảng phất một thứ mùi nghe rất lạ, khó đặt tên, không thể gọi là thơm mà cũng chưa phải thối, đến khó ngửi, nghe cứ ngai ngái, khê khê, khen khét. Mùa này, rất có thể về chiều trời sẽ chuyển cơn giông để rửa trôi đi cái mùi… Thôi, ta cứ tạm gọi là mùi lính Mỹ vậy.
Bọn Mỹ lưu quân lại chỗ Cồn Dương khá lâu. Cuối buổi chiều, biết chúng nó rút hết quân, bọn nhỏ trong làng hú nhau “đi lượm đồ Mỹ” và chạy túa lên cồn. Bọn nhỏ chạy đáo ngược về làng hớt hải báo tin dữ: Cô Sáu đã bị Mỹ giết bỏ phơi xác trên cồn.
Đúng như thế thật. Xác cô Sáu bị bỏ lại trên một bãi đất trống giữa cồn, được phủ một tấm vải bạt nhà binh màu cỏ úa; cỏ cây chung quanh bị xéo giày bầm nát. Chứng tỏ trước khi chết, cô Sáu đã chống cự quyết liệt, một trận vật lộn, giãy dụa tử sinh. Tấm bạt được lật lên! Một tấm thân loã lồ, lấm láp và hằn lên những vết cấu cào bầm tím, có vết rỉ máu thẫm đen. Miệng cô Sáu còn cắn chặt một xếp lá bài ni lông in hình con Át xì bích đen sì.
Thường thường trong lúc hành quân, khi bắn chết một ai, bọn Mỹ lại nhét vào miệng nạn nhân một con bài Át xì bích. Trong miệng cô Sáu có đến bảy con. Một loại bùa chú gì đó để giải hạn của quân giết người chăng? Chắc có lẽ theo quan niệm của người phương Tây thì, con chủ bài Át xì bích đến là mang lại vận đen đủi rủi ro.
Mọi người chết lặng. Các mẹ các chị quây lại bế cô Sáu lên. Toàn thân cô Sáu không hề có vết đạn bắn hay dao đâm. Nhưng mềm nhũn, ướt nhợt, tanh tưởi như vừa bị một con trăn quấn siết mà chưa kịp nuốt chửng miếng mồi ngon.
Giọng một chị nào đó gào lên, rồi vỡ oà cùng với tiếng nức nở:
– Trời ơi là trời! Chúng nó xúm nhau lại thi nhau hiếp con bé đến chết đây nề… Ác chi mà ác dữ rứa hỡi trời… Bà con ới… là bà con ơi…!
– Chúng nó là loài cáo chồn mắt xanh mũi lõ, những con quỷ ăn thịt người, quân dã man ăn thịt n…g…ư…ờ…i… Để bà con mình khỏi chết mà thân con nên nông nỗi thế này đây hả… Sáu ơi!
Tiếng khóc vốn có sự truyền cảm vô hình. Những tiếng khóc than ấy có thêm sức lan toả đến kì lạ. Nó rào lên xối xả như một cơn mưa.
Bỗng có ai đó la lên thất thanh:
– Tay chân còn ấm! Hình như tim còn đập đây nè!
Mọi người tức tốc đưa cô Sáu về làng. Các mẹ các chị vơ vội lá chanh lá sả nấu nước thơm lau rửa, xông hơ, sơ cứu; phái người đi tìm gấp y tá, gọi thầy lang lo thuốc thang. Từng gáo nước ấm và thơm hương lá quê mình hoà cùng nước mắt các mẹ các chị chan xuống thân thể bầm đau của cô Sáu. Một tấm thân thiếu nữ non tơ như thế mà bị vò xé đến nát nhàu, để thoả cơn đói khát dục vọng của lũ quỷ mũi lõ mắt xanh ấy thì còn chi là thân người. Mọi cử chỉ phải thật nhẹ thật êm, không được chạm thêm vào nỗi đau đang khô quánh lại trong cơ thể. Lau rửa sạch sẽ đến đâu làn da của cô Sáu cứ như được vén dần ra đến đó, cứ lồ lộ non tươi, trắng nõn nà. Những vết tím bầm như cái câu liêm, lưỡi liềm; những vệt trầy xước như mũi chông, nhát cắt lại càng hiện rõ hơn trên thịt da cô Sáu như cứa vào gan ruột mọi người.
Hình như sự sống đang trở lại. Cơ thể ấm dần, hơi thở yếu nhưng đều, tim đập rõ hơn, nhịp mạch nghe mạnh hơn. Nhưng cô Sáu vẫn cứ nằm thiêm thiếp bất động như đang chìm vào một cơn hôn mê sâu. Những mũi thuốc Pê ni xi lin liều cao tiêm đau tưởng như xé thịt như thế mà cô Sáu vẫn không hề cảm nhận thấy. Chắc có lẽ sau một tai biến khủng khiếp như vừa qua của cô Sáu, cơ thể người ta cần có một thời gian cần thiết ở trang thái tĩnh như thế. Đó là khả năng tự hồi phục bẩm sinh để người ta có đủ sức lực chịu đựng một nỗi đau thực tại sẽ vò xé cả về thể xác và tâm hồn.
Tin cô Sáu Cồn Dừa bị Mỹ bắt, Mỹ hiếp lan nhanh trong vùng sông Trường như một cơn bão dữ. Cả đêm hôm ấy nhà nhà ấp Tây thao thức chong đèn đợi tin. Người già thắp hương khấn vái tứ phương. Các mẹ các chị thay phiên nhau túc trực bên cô Sáu. Cánh trai tráng du kích trong thôn ấp sau khi đi “lánh càn” về nghe tin, mắt long lên sòng sọc, máu sôi sùng sục. Anh nào cũng muốn vào thăm cô Sáu nhưng bị hội mẹ chị cấm cửa. Có mấy anh tò mò bạo gan vạch phên nhìn vào, bị các mẹ mắng như tát nước, đuổi đi:
– Còn thương nó, căm thù bọn Mỹ, giỏi thì rượt theo xẻ thịt phanh thây quân khát máu ấy đi! Tao cấm tụi bay xớ rớ ở đây! Nó còn đau đớn hơn một lần sinh sẩy!
Rạng sáng hôm sau, cô Sáu có dấu hiệu hồi tỉnh, chân tay khẽ cử động, môi mấp máy nhưng không thành lời. Sau mấy cái lắc đầu vật vã, mắt cô Sáu hé mở rồi khép lại. Cứ lặp đi lặp lại nhiều lần như thế vài ba lần rồi mắt cô Sáu mở to với cái nhìn hoang dại vô hồn. Bỗng toàn thân cô Sáu oằn lên cùng với một tiếng thét kinh hoàng rồi ngất lịm, chỉ còn nghe những tiếng thở hắt ra mệt nhọc cùng với những tiếng nấc tắc nghẹn.
– Ơn trời phù hộ! Tỉnh lại rồi! Sống lại rồi! – Những tiếng thì thào truyền nhau qua ánh mắt, cái bấm tay từ trong buồng ra ngoài ngõ, loan đi cả xóm.
Những tiếng thở hắt ra và tiếng nấc thưa dần rồi hết hẳn. Đôi môi khô cong mấp máy, hình như đôi môi ấy muốn nói điều gì. Hiểu ra rồi! Từ hôm qua đến nay cô Sáu có ăn uống được gì đâu ngoài mấy muỗng nước lá nhân sâm rừng hoà với ngải cứu, cứ đổ vào lại ựa ra.
– Đứa mô chạy u đi gọi ngay hai chị em con Tư, con Bước!
Trong chốc lát, không chỉ có “con Tư, con Bước” mà những bốn năm chị hối hả chạy đến.
Giọng nói lúc nãy từ trong buồng lại vong ra thúc giục:
– Con Tư, con Bước lấy cái chén cầm vô đây mau!
Trong vô thức môi cô Sáu ngoan ngoãn nuốt từng muỗng, từng muỗng… Những muỗng sữa từ tay các mẹ các chị – Những giọt sữa ngọt ngào được vắt ra từ bầu vú của dì Bước, dì Tư.
Đến nửa buổi, cô Sáu tỉnh hẳn. Nhưng vẫn nằm im, tất cả gần như bất động, duy chỉ có đôi mắt, lúc nhắm nghiền tĩnh lặng như đang ngủ say; lúc lại mở to, vẫn vô hồn man dại nhìn chăm chăm lên trần nhà như dõi theo một một chiếc bóng vô hình.
– Qua cơn hiểm nghèo rồi! Con có biết những ai đang ở bên con không?
Cô Sáu đưa tay nắm chặt lấy bàn tay thô ráp và khô gầy vừa đặt lên trán mình. Từ đôi mắt vô hồn và man dại ấy, hai ngấn nước trong vắt từ từ ứa ra, lăn dài, rồi tuôn trào chảy tràn ra tưởng chừng như vô tận. Hình như tất cả những uất hận, căm hờn, đau đớn… trong tâm can người con gái trinh nguyên vừa trải qua một cơn bạo hành nhục dục đã được nung chảy tan thành nước và tuôn xối ra từ khoé mắt.
Vài ngày sau, cô Sáu tỉnh hẳn, cố gắng lắm mỗi bữa mới húp được lưng chén nước cơm đánh với trứng gà. Theo như kinh nghiệm nuôi con của các mẹ, nồi cơm đang sôi đem chắt lấy nước đánh với lòng đỏ trứng gà là nguồn bổ dưỡng tốt nhất đối với người ở cữ hoặc ốm đau mới dậy. Cô Sáu đã gượng dậy đi lại được nhưng rất sợ gặp mọi người, chỉ vào ra loanh quanh trong nhà như một chiếc bóng. Trông thấy như thế, mọi người thương lắm nhưng không ai dám đến thăm hỏi, chỉ cần nghe một lời nhắn gửi cô Sáu đã khóc oà.
Có tin trên căn cứ xuống cho các mẹ các chị ở ấp Tây rằng, chuẩn bị đưa cô Sáu về trạm xá dân y. Cô Sáu không chịu. Các mẹ các chị bàn nhau, nếu tình hình cứ yên ổn như mấy hôm nay, cứ để thư thả ít bữa, khi cô Sáu đi lại cứng cáp rồi sẽ tính. Giữa địch tình bom đạn biết đâu mà tiên lường, hôm nay bình yên trời quang mây tạnh, ngày mai lại loạn lạc bom đạn mù trời; hết trận càn này lại đến trận càn khác, cô Sáu không thể ở lại mãi với ấp Tây được.
Nghe tin cô Sáu đã khá hơn, đang đêm Thượng sĩ Bảo Ninh từ huyện đội, đóng tận trên núi Trụ Cờ cắt đường dây xuống thăm. Được biết Bảo Ninh là người đã từng gắn bó bóng hình với cô Sáu trong những đêm “đi binh địch vận” gọi loa đồn giặc; là người đã viết những lời thơ có cánh, thổn thức đêm khuya, lay động lòng người cho cô Sáu ca, mọi người hy vọng khi gặp Bảo Ninh, cô Sáu sẽ cảm thấy lòng mình vợi bớt; biết đâu lại thuận lòng trở về căn cứ. Các mẹ các chị sẽ nhớ con, thương em, nhưng ở trên ấy cô Sáu sẽ bình yên và có điều kiện bình phục tốt hơn.
Nhưng không ngờ, vừa mới nghe “có Thượng sĩ Bảo Ninh” lập tức cô Sáu đã té xỉu. Khi hồi tỉnh lại, Cô Sáu nói dứt khoát, giọng lạnh như băng:
– Anh ấy mà tới đây, Sáu sẽ chết!
Thượng sĩ Bảo Ninh buồn rầu cuộn gửi lại mấy lời ca mới viết, đành bấm lòng trở về đơn vị.

3

Vừa mới tang tảng sáng, một tin không lành lan nhanh như lửa cháy: Mất cô Sáu.
Cả ấp Tây nháo nhác chạy ngược xuôi kiếm tìm, cả vùng sông Trường xôn xao hướng về ấp Tây. Cô Sáu đi đâu? Nhiều người nhôn nhao phỏng đoán:
– Hay là nó lên trên ấy rồi?
– Chắc là không về căn cứ, nó đã tránh mặt ngay cả Thượng sĩ Bảo Ninh kia mà.
– Đang đêm đi lên trên ấy đâu phải như chuyện dạo chơi, muốn vượt quốc lộ 1 phải đi qua đường dây, không có giao liên dẫn đường thì vướng phải lựu đạn gài hoặc lọt ổ phục kích liền.
– Đối với nó việc qua lộ nhằm nhò gì, hồi làm du kích nó đi về như cơm bữa.
– À… đúng rồi! Chắc là nó ra ngoài mả ông Tư Phi. Đứa mô chạy ra ngoài nớ coi.
Không có! Mọi phán đoán đều sai.
Người ta tìm thấy đôi dép của cô Sáu cùng với một bím tóc vừa mới cắt ra còn bỏ lại trên bờ Bến Lở, nơi sông Trường Giang uốn khúc quặn dòng trước khi mở lòng ra hòa lưu cùng sông Ly Ly để nhập với sông Thu Bồn đổ ra Cửa Đại.
Chao ơi! Cô Sáu đã trẫm mình! Dòng Trường Giang dáng chiều dài dải lụa chảy dọc miền duyên hải, bao đời hiền hòa không ghềnh thác, nay phải quặn lòng đón nhận một số kiếp bạc mệnh hồng nhan.
Tất cả mọi người, mọi phương tiện thúng, mủng, ghe, xuồng, lưới, chài… đều đổ ra dọc đoạn sông Trường quanh Bến Lở. Người trên bờ phân công cảnh giới máy bay địch; ở dưới bến, trên sông người kéo lưới, quăng chài, kẻ bơi lặn sục sạo khắp hang hờm, ngóc ngách. Ơn trời, thân con gái chân quê phận mỏng còn lặn lẫn đâu đây.
Hy vọng vớt được cô Sáu đã tắt cùng bóng chiều chạng vạng. Sông Trường Giang đang mùa nước ngược, cả khúc sông đục ngầu lên rồi dần dần thẫm đen lại cùng với trời đêm. Các mẹ các chị thương nhớ khóc sụt sùi, dựng hương án ngay tại Bến Lở khấn vái. Ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh, cầu mong tìm được cô Sáu về cho đỡ tủi.
Đến ngày thứ mười, tin về cô Sáu vẫn biệt tăm âm tín. Bà con ấp Tây tổ chức lễ truy điệu cho cô, rồi đem những tư trang ít ỏi còn lại chôn thành cái mả gió và đặt án thờ bên cạnh bụi tre ngay tại Bến Lở. Riêng cái bím tóc được các mẹ các chị giữ lại trao tặng cho Thượng sĩ Bảo Ninh. Cuối năm ấy, Thượng sĩ Bảo Ninh được rút hẳn về Bộ Tư lệnh Quân khu 5 làm công tác khai thác tù binh Mỹ. Anh mang theo hình bóng người con gái sông Trường trong tâm khảm cùng với “bím tóc thề” như một nhát chém hằn sâu. Với anh, đó là một kỷ vật về một tình yêu không giới tuyến chưa cất nên lời. Một kỷ niệm buồn để tiếng lòng lắng lại gửi hồn cho câu hò, điệu lý ngân nga.

4

Vào đầu năm 1970 (khoảng hai năm sau sự kiện cô Sáu trẫm mình), cả vùng sông Trường cũng như các xã vùng Đông rơi vào cảnh lập ấp gom dân cá chậu chim lồng; ruộng đất, xóm làng thành vành đai trắng. Quân Mỹ tăng cường lùng sục vùng giải phóng của ta bằng những tiểu đội nhỏ lẻ. Chúng nó cũng biết chiến thuật nghi binh, đánh du kích, kéo quân ồ ạt đi qua rồi lén vòng trở lại mai phục; lợi dụng trời mưa mỗi tên đi cõng theo một tên khác rồi bỏ lại dọc đường ẩn nấp bụi bờ rình rập… Đội công tác của quân chủ lực huyện được biệt phái về vùng Đông. Những toán quân Mỹ lết, Mỹ cõng lần mò trên nỗng, ngoài gò thường bị hốt trọn ổ. Cách đánh địch thiên biến vạn hoá xuất quỷ nhập thần của bộ đội đặc công, chiến sĩ biệt động thành đã về làng. Lại có một tin đồn nửa hư nửa thực rằng: Chỉ huy đội công tác ấy là một cô gái còn trẻ, nhưng mưu trí, dũng cảm và gan dạ phi thường. Có người còn khẳng định thêm : “Trông giống nhau lắm, y hệt như cô Sáu sông Trường sống dậy!?”.
Tin đồn ấy không sai. Cô Sáu đã sống dậy thật, hay nói đúng hơn là “cô Sáu đã trở về với những trận đánh Mỹ rửa hận và trả thù”. Cả vùng sông Trường chuyển động cơn sóng ngầm diệt trừ Mỹ lết. Phương châm cô Sáu đưa ra là: Đối với bọn lính Mỹ là tiêu diệt hết chứ không được bắt sống, diệt hết Mỹ là vui.
Suốt ngày đêm cô Sáu mải mê với những kế hoạch tác chiến, xây dựng lực lượng du kích địa phương, với những trận đánh bất ngờ. Cô Sáu của ngày nào đã được lột xác, vẫn đẹp nhưng là vẻ đẹp lạnh lùng sắc sảo của đô hội, ánh mắt nhìn sắc lẻm, hay cười nhưng cười không thành tiếng. Dáng cô Sáu có vẻ đầy đặn hơn, sức sống đang bốc lên hừng hực; hình như trong con người ấy đang chứa đựng một kho trái nổ có sức công phá ngàn cân đang đợi châm ngòi. Cô Sáu coi việc đụng đầu với lính Mỹ là một trò đùa tàn bạo, thời gian không còn đủ cho một cuộc chơi. Không có thì giờ để biết cụ thể những năm tháng vừa qua cô Sáu đã sống như thế nào; đại khái rằng, trước khi về chỉ huy Đội công tác vùng Đông, cô Sáu là biệt động thành ở Đà Nẵng. Mọi người chỉ biết có vậy thôi.
Hơn hai năm ở Đội công tác, hỏi trên mình có bao nhiêu vết sẹo, đánh bao nhiêu trận, diệt được bao nhiêu Mỹ rồi, cô Sáu không thể nhớ hết. Anh em trong Đội công tác thường nhận xét về cô Sáu rằng: “Đàn bà con gái dễ thương như rứa lại có máu chiến trường, chai lì trước súng đạn và càng đánh càng hăng”.
Chỉ huy ở chiến trường mà hăng quá, hăng đến mức “say máu” có khi đổ máu không cần thiết; thậm chí đem “nướng” quân. Mấy lần Huyện đội định rút cô Sáu lên nhưng chưa được. Đầu năm 1973, Sau khi Hiệp định Paris ký kết, cô Sáu được điều về căn cứ, đi dự Đại hội Chiến sĩ thi đua toàn Quân khu và được giữ lại trên ấy, với lí do là hết Mỹ. Thời gian ở Quân khu, cô Sáu nghe tin Thượng sĩ Bảo Ninh đã được chuyển ra miền Bắc. Cô đưa tay vuốt ngực thở dài. Hình như giữa hai người có một điều gì đó còn vương nợ với nhau.
Ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), cô Sáu trở lại quê hương với cương vị Chủ tịch Hội Phụ nữ, là một cán bộ trẻ chưa đến tuổi ba mươi. Năm năm sau cô trở thành một lãnh đạo cao cấp của huyện và đường công danh rộng mở như chân trời. Đó là một sự sắp đặt tất yếu.
Quê hương sạch bóng quân thù, non sông hoà bình thống nhất rồi, ngoài công việc chung, mỗi người cần phải lo cho riêng mình một điều gì đó. Nhất là với một người phụ nữ như cô Sáu, được nhìn nhận là một “Nữ hoàng Việt Cộng” có vẻ đẹp trang trọng và cao sang trên chính trường. Thấy cô Sáu đẹp, còn đi về lẻ loi, nhiều người đàn ông có ý định mon men nhìn ngó, những người bạn đồng sàn, cùng giới lãnh đạo cấp tỉnh cấp huyện, có cả những người đàn ông bạo gan đạp qua rào cản tuổi tác, quyền lực và chức tước. Những người phụ nữ đẹp, từng trải và địa vị người ta thường có giác quan riêng, cô Sáu biết hết. Không cần gì đến nỗi phải lợi dụng nhau, tất cả vì sự yêu thương, muốn đánh thức con tim, nhen nhóm lại ngọn lửa tình yêu đôi lứa, chắp nối lương duyên. Nhưng tất cả đều bị chặn lại, dập tắt bởi một câu nói thường trực nghe đến phũ phàng của cô Sáu: “Tôi rất sợ!”.
Hình như cô Sáu đang lãng quên chính mình. Ngày trước trong chiến tranh người ta say chiến công, nay hoà bình rồi người ta mê quyền lực. Điều đó rất có thể đúng với cô Sáu.

5

Nghĩ cũng lạ! Càng lớn tuổi trông cô Sáu càng sang trọng và quý phái hơn, và hình như thời gian cũng lãng quên tính tuổi, không ai tin rằng người phụ nữ ấy đã bước qua tuổi năm mươi nhẹ như lông hồng. Càng lạ lùng hơn, khi còn đến những ba năm nữa mới đến tuổi quy định nghỉ hưu, nhưng cô Sáu lại gửi đơn xin nghỉ trước.
Thời thế chuyển xoay, cơ chế mở ra, đất nước quê hương đang đổi thay từng ngày; với cương vị là một nữ bí thư Huyện uỷ đang được ái mộ như vậy, đáng lẽ cô Sáu phải đâm đơn xin giảm tuổi để làm tiếp dài hơi hơn. Biết đâu nay mai hết nhiệm kỳ sẽ được luân chuyển lên tỉnh, rồi lên Trung ương, còn hưởng tiếp nhiều đặc ân và quyền lợi. Thế thời hội nhập khu vực, bang giao toàn cầu đang mở ra, trên chính trường, trên bàn tiệc rất cần những mỹ nhân chính khách. Đằng này cô Sáu lại đi xin nghỉ trước tuổi?
Lý do cô Sáu viết trong Đơn xin nghỉ hưu trước tuổi, lời lẽ rất giản dị: “Lo việc chung lâu quá rồi, đã thấm mệt, nghỉ để còn lo cho cái riêng; học hành chắp vá, ngoại ngữ mù mờ, vi tính lem nhem không theo kịp thời đại”. Khi nghe tin này, người ta cho rằng, cô Sáu là người có văn hoá – “Văn hoá nghỉ hưu”; lại có người phỏng đoán rằng, cô Sáu đã “hết sợ”, trở về thường dân để cưới chồng?! Cô Sáu không quan tâm đến những điều ấy, ai hiểu thế nào cũng mặc kệ họ. Mà nếu được như thế thì hạnh phúc biết bao nhiêu! Cô Sáu vui vì được tự do, thoát khỏi lịch trình hội họp hoạch định kế hoạch vi mô, vĩ mô; muốn đi đâu tuỳ thích, được trở lại chính mình.
Cô Sáu tổ chức đón nhận quyết định nghỉ hưu vui và đầm ấm như một bữa tiệc mừng sinh nhật, chỉ mời một số ít bạn bè thân cẩn cật ruột. Trong đó có một vị khách rất đặc biệt từ Hà Nội mới vào: Thượng sĩ Bảo Ninh. Hiện tại Bảo Ninh đang là chuyên viên cao cấp của Bộ Ngoại giao.
Trước khi vào cuộc vui, cô Sáu xin phép mọi người được thắp hương đèn trên bàn thờ. Chắc có một điều gì đó rất hệ trọng! Tấm màn nhung màu huyết dụ được kéo ra, hệ thống đèn bật sáng, một khoảng không gian sáng trưng, lung linh… làm mọi người chú ý. Cô Sáu thờ cúng ông bà, cha mẹ là bình thường, nhưng tại sao bên cánh gà lại có thêm một cái bệ thờ chân dung một vị thầy tu cạo trọc đầu, mặc áo cà sa, cổ đeo tràng hạt?
Cô Sáu thành kính chắp tay hướng về phía chân dung vị thầy tu:
– Thưa các bạn! Đây là nhà sư Thích Thiện Tâm, trụ trì chùa Bảo An ở Đà Nẵng năm xưa, là ân nhân của hai mẹ con tôi. Thầy đã mất cách đây vài năm!
Tất cả ngơ ngác. Hình như cô Sáu đang nói với ai khác và nói những gì như thế nhỉ? Thích Thiện Tâm nào là ân nhân? “Hai mẹ con tôi” là những ai?
Cô Sáu quay lại nhìn khắp lượt mọi người. Ánh mắt nhìn điềm tĩnh, nồng hậu. Hình như cô đang kể chuyện cổ tích! Không gian lặng tịch. Giọng nói thân quen nhỏ nhẹ như vọng về từ cõi xa xăm:
“Đêm ấy, sau khi để lại bím tóc và đôi dép trên Bến Lở, tôi ngược lên quốc lộ ngồi chờ trời sáng rồi đón xe ra Đà Nẵng. Tôi làm tất cả mọi công việc từ rửa chén thuê, phụ bán hàng, đẩy xe nước mía, đến đứng quầy bar, chạy bàn… với mục đích duy nhất là phải sống để được trả thù. Nhờ những công việc như thế mà tôi nhanh chóng gia nhập được Đội Biệt động thành. Và cũng vào thời điểm ấy tôi biết chính xác mình đã có thai, đang cưu mang một giọt máu của kẻ thù. Gọi là con tôi nhưng bị đầu thai từ bầy quỷ sứ, cần phải bóp chết ngay từ trong trứng nước. Nhiều lần tôi định rứt bỏ đi nhưng không đủ tâm sức, nó cứ lớn dần lên cùng khối oan thù. Với chút nhan sắc trời cho tự dưng trổ mã, tôi mặc sức lôi kéo, mồi chài và hạ sát nhiều tên lính Mỹ trong các hẻm phố, mé sông, có khi ngay trong khách sạn chuẩn bị vào cuộc mây mưa.
Ngày gần sinh, tôi tìm đến chùa Bảo An, kể rõ sự tình uẩn khúc về cái bào thai. Thấu hiểu nỗi oan khuất, thầy Thích Thiện Tâm mở lòng cưu mang cho nương nhờ cửa Phật. Riêng về gốc tích Biệt động thành tôi giấu biệt. Một sinh linh da trắng mũi lõ mắt xanh ra đời tại đó. Thầy Thích Thiện Tâm đặt cho thằng bé cái tên theo kiểu Mỹ lai nghe hay hay: Mother Việt. Hình như thầy muốn nói đến một điều gì đó về mẹ.
Thằng bé háu ăn, mau lớn, gần như nó không biết khóc, chắc nó cũng biết giấu nhẹm đi thân phận mình. Công bằng mà nói, thằng bé đẹp như một thiên thần. Nó là con tôi là máu thịt của tôi, nhưng tôi chỉ dám ôm hôn khi nó còn đang ngủ. Cái màu xanh của đôi mắt mèo ấy cứ làm tôi rờn rợn, chờn vờn. Nhìn cái bớt màu nâu bên ngực trái của nó giống như một vệt máu khô.
Ngày thằng Việt độ chừng một tuổi, đắn đo mãi, cuối cùng tôi quyết định đến quỳ lạy thầy Thích Thiện Tâm và thú nhận:
– Con lạy tạ ơn thầy đã giúp đỡ cưu mang! Con là một Việt Cộng nòi, là Biệt động thành Đà Nẵng, lính Mỹ là kẻ thù không đội trời chung. Thằng Việt là cốt nhục của lính Mỹ nhưng là một sinh linh vô tội, con xin gửi lại và nhờ thầy tìm cách trả nó về bên Mỹ. Mong rằng sau này lớn lên, đôi mắt xanh của nó là màu hy vọng, là bầu trời hoà bình, chứ không phải của lũ chó sói, mèo hoang.
Tôi xén một bím tóc để lại và ra đi ngay, tìm về Tỉnh đội rồi được biệt phái xuống Đội công tác vùng Đông năm ấy.
Sau ngày thành phố Đà Nẵng giải phóng, tôi trở lại chùa Bảo An và gặp thầy Thích Thiện Tâm. Thầy cho tôi biết rằng, sau khi tôi đi rồi, thầy đứng tên gửi thằng Việt vào Cô nhi viện Sài Gòn cùng với kỷ vật của mẹ là cái bím tóc và nó được đưa về Mỹ trong chuyến chuyên cơ cuối cùng di tản những đứa con lai ra khỏi Việt Nam, năm 1975. Những năm sau này, thông qua kênh các tổ chức Phật giáo cùng các tổ chức nhân đạo quốc tế, thầy Thích Minh Tâm đã xác định được thằng Việt hiện đang ở New York (Mỹ).
Kể đến đây, giọng cô Sáu se lại như độc thoại với bóng mình:
– Nước Mỹ với Việt Nam ta ân oán nợ máu xương nhiều như thế, dài lâu như thế, xa nhau đến nửa vòng quả địa cầu, mà không ngờ có được ngày nay. Mẹ con tôi sẽ gặp nhau. Mới đó mà… như một giấc mơ dài. Thằng Việt bây giờ đã ba mươi bảy tuổi rồi… Dù sao đi nữa, tôi cũng đã một lần được mang nặng đẻ đau, chăm ẵm bú bồng thuở nó còn trứng nước nằm nôi! Dù sao đi nữa nó vẫn là đứa con tôi rứt ruột sinh ra. Chiến tranh là tàn bạo, là khốc liệt, là đớn đau đến tận cùng mọi nỗi đau! Tôi tự nguyện hiến dâng, tôi bị cướp đoạt; tủi nhục và vinh quang, yêu thương và thù hận… Tôi đã có tất cả. Nay vào lớp tuổi ông tuổi bà rồi, tôi cần thêm những gì nhỉ? Bổng lộc, chức quyền rồi cũng bỏ lại sau lưng, có ai đó đã gọi tôi là “bà cô trơ khấc” hay người đàn bà đẹp “có trái tim mạ kẽm”. Không phải thế! Tôi còn có một giọt máu rơi, thầy Thích Thiện Tâm đem gửi qua phía bên kia trái đất. Tôi phải đi tìm. Không biết thằng Việt, nó có còn là của tôi? Bước cuối đời, một tia hy vọng còn ở phía bên kia chân trời!”.
Hình như có những đợt sóng đang dâng lên trong lòng, Cô Sáu cúi đầu, tay đặt lên ngực, lặng im. Không một ai dám hỏi gì thêm. Sợ sẽ có một điều gì đó vỡ oà ra cuốn phăng đi tất cả.
Giọng cô Sáu hơi run run:
– Đúng là trái đất tròn, sau đó tôi tìm và gặp lại Thượng sĩ Bảo Ninh nhờ anh giúp tôi đi Mỹ tìm thằng Việt… Anh Bảo Ninh nói tiếp giúp tôi đi!
– Chúng tôi bặt tin nhau những hơn hai mươi năm, tất cả tưởng như đã an bài theo số phận, nhưng vòng đời còn duyên nợ gặp lại o Sáu; không bén được duyên nhau cũng ấm nồng tình đồng đội. Qua hai chuyến đi công tác đến nước Mỹ vừa qua, tôi đã xác định chắc chắn như vậy: Cậu ta vẫn tên là Mother Việt, hiện là tiến sĩ y khoa, đang công tác tại một bệnh viện lớn tại New York. Mọi việc cần thiết tôi đã chuẩn bị cho o Sáu xong rồi. Sáu sẽ đi tour du lịch trọn gói tham quan Tokyo – New York – Philadelphia – Waslington DC vào cuối tháng Mười này. Thời gian ấy tôi cũng đang tháp tùng đoàn học sinh Việt Nam đi dự Hội nghị Thượng đỉnh những nhà lãnh đạo trẻ tại New York.
Bảo Ninh kết thúc chuyện kể khá đột ngột theo phong cách của người làm công tác ngoại giao:
– Thôi chuyện cũ! Niềm vui đang rộng mở. Xin nâng cốc chúc mừng!
“Bốp!”. Tiếng chai sâm banh trong tay Bảo Ninh nổ giòn tan, tiếng chạm cốc leng keng xen lẫn lời chúc tụng mời chào. “Xin chúc mừng!”, “Xin mời!”, “Xin chúc mừng!”…

 

BÀI HỌC NGOÀI GIẢNG ĐƯỜNG
(Truyện ngắn)

Tộc Vương chúng tôi lớn nhất xứ Thăng Lâm, nên trải qua các triều đại đều có người vai vế, chức sắc, quan quyền, nhưng cũng chỉ làm đến quan cấp tổng. Sang chế độ Mỹ ngụy có khá hơn, một vài người mang đến lon thiếu tá quận trưởng. Đó là nói đến các chi phái khác ở Việt Đông, Việt Huy, chứ nhánh Vương Văn ở Việt Sơn, nơi sỏi đá khô cằn đằng nhà tôi, thì rặt một nòi đi theo cách mạng qua các thời kì. Vì sao như thế? Vì nghèo quá, bị áp bức khinh khi nhiều quá! Kiếp nghèo luôn đi liền với cái hèn. Phải trỗi dậy!
Đã là đi làm cách mạng thì trước mắt phải chấp nhận nhiều gian khổ, mất mát, hy sinh. Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông bà nội tôi có năm người con trai và ba người con gái, thì đã có đến sáu người vừa con vừa dâu là liệt sĩ. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng và thống nhất đất nước, điều vẻ vang nhất cho gia đình tôi là bà nội được Nhà nước truy phong liệt sĩ – Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Ba tôi, người con trai duy nhất còn lại của bà, trải qua mấy lần tù tội, lăn lộn khắp chiến trường, giờ đã thành danh, trở thành niềm tự hào của gia đình. Ông trở về quê hương và nắm giữ chức vụ bí thư huyện uỷ.
Nhưng nhìn lại đám con cháu, anh em họ hàng trong nhà họ Vương Văn… thật đáng ái ngại, nếu không muốn nói là tủi hổ. Bởi cảnh goá bụa, mồ côi, học hành chắp vá; đứa nào khá lắm thì cũng chỉ mới biết đọc biết viết. Trong khi đó, công việc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới, người ta cần những con người có văn hoá cấp hai, cấp ba. Nếu có một chút chữ nghĩa gọi là đọc thông viết thạo, ít ra cũng xin được chân thư ký Ủy ban, Hợp tác xã, nhân viên bán hàng… khá hơn tí nữa, có thể qua lớp cấp tốc sư phạm trở về làm giáo viên trường làng.
Mất mát hy sinh vẫn là thua thiệt nhất, mất ít thua thiệt ít, mất nhiều thua thiệt nhiều. Thành tích đánh giặc, sự hy sinh máu xương, truyền thống gia đình cách mạng không đánh đổi được chữ nghĩa. Thôi thì con cháu Vương Văn… vẫn trở lại quanh năm đầu tắt mặt tối, bán mặt cho đất bán lưng cho trời như xưa, cảnh nghèo khó vẫn hoàn nghèo khó.
Duy nhất nhánh Vương Văn… còn có tôi, may ra khả năng tương lai xán lạn hơn, có thể đi ra mở mày mở mặt được với thiên hạ. Tôi được như thế, nói đúng nghĩa là cũng nhờ cái thân phận côi cút từ nhỏ không nơi nương tựa, nên lên chín lên mười phiêu bạt đi làm đứa ở, con nuôi khắp thiên hạ, may mắn được các cô chú cách mạng “lượm” về nuôi dưỡng, cho đi làm giao liên, rồi đưa ra miền Bắc học hành tử tế nên mới được như thế.
Sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm, tôi bảo vệ tiếp luận văn phó tiến sĩ về văn chương và được bổ nhiệm giữ chức vụ hiệu trưởng trường trung học phổ thông một trường chuyên của thành phố, khi mới bước vào tuổi hai mươi lăm. Ở lứa tuổi ấy, trước đây các vị lãnh tụ kiệt xuất đã làm đến cương vị tổng bí thư Trung ương, bí thư Xứ uỷ, Tỉnh uỷ. Còn lớp người như chúng tôi bây giờ tầm như tôi đã là khá, được nhìn nhận là người con trai thành đạt sớm. Tôi hoàn toàn không dám so sánh một cách phạm thượng, mà chỉ muốn nói rằng: Việc học hành ngày nay trường lớp rất quy mô và chương trình quá kỹ, nhưng tầm nhận thức về lý luận, thực tiễn và tư tưởng của chúng ta lại hơi thấp.
So với đồng nghiệp, tôi có nhiều lợi thế: Con em gia đình có truyền thống cách mạng, học chương trình chính quy, lại có thêm khoa ăn nói lưu loát, ứng phó đối đáp có thể gọi là thông minh. Vì thế nên tôi được gán cho những là “lợi khẩu”, là “lí luận kết hợp với già hàm”.
Chắc có lẽ cũng vì những lợi thế ấy mà tôi lọt được vào tầm ngắm của những người làm công tác nhân sự. Ngồi chưa ấm ghế hiệu trưởng, Ban Tổ chức chính quyền điều vượt tôi lên làm phó Văn phòng Uỷ ban Nhân dân tỉnh, phụ trách đội ngũ cán bộ nghiên cứu tổng hợp (thường gọi là Tổ Thư ký vụ) và được đưa vào diện cán bộ kế cận quy hoạch cho những năm, mười năm sau.
Từ đó, tôi được tháp tùng các vị lãnh đạo cao cấp của tỉnh, thành đi xuống cơ sở, đến các cuộc họp, kể cả lên Trung ương, tiếp các đoàn khách ngoại giao các nước bạn… có cả những chuyến công du đất Á, trời Âu. Ở đâu tôi cũng cảm thấy mình hơi được oai: Đi lại bằng xe ô tô con đời mới; trong các cuộc họp thường ngồi bên cạnh lãnh đạo, chăm chú lắng nghe, cần mẫn ghi ghi chép chép như một ký giả thứ thiệt; khi ngồi vào bàn tiệc cũng được chúc tụng, chào mời như một thượng khách. Và, hình như oai vệ nhất là từ khi tôi được kiêm thêm vị thế thư ký riêng của chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh. Vào vị trí ấy, tôi có biết bao nhiêu là công việc chất chồng như núi: lên lịch trình công tác, tóm lược thông tin báo cáo tình hình dân sinh thế sự, điểm báo hằng ngày, soạn thảo các diễn văn hội nghị, bài tham luận, thư tín chào mừng… Toàn những công việc cao siêu cần có cái đầu thông tuệ. Lại có những công việc hệ luỵ đến sinh mệnh của bao người. Các cấp chính quyền, các ban ngành muốn đệ trình, bẩm báo những gì đều phải qua tôi tất cả. Có khi tôi còn được thay mặt chủ tịch trả lời những ý kiến tiếp dân. Mọi người lại gán thêm cho tôi những danh hiệu mới: “thầy dùi”, “đồ đệ” hay “cái loa phóng thanh”, “cái bóng mờ” rồi “người gác cổng”, kẻ “rung chuông”… Họ gọi là gì gì đi nữa, tôi cũng đều ở vào những vị trí quan trọng cả. Dù làm đứa học trò hay người phục dịch mà được lãnh đạo tin cẩn dễ có mấy ai! Nhưng cũng cực một nỗi là phải lao tâm khổ tứ ngồi gò lưng ra mà viết để người khác đọc cho thiên hạ nghe, thậm chí có khi viết cả thư thăm, lời kêu gọi, bài nghiên cứu phê bình… để đăng báo, tạp chí. Cái tâm trạng ngồi nghe người ta đọc trên diễn đàn, loa trên đài; xem in trên báo những cái gì của mình nó lạ lắm, nghe sướng rêm cả người; nghĩ mà thèm khát được vỗ ngực xưng danh. Đây đó cũng có người kê kích tôi rằng “dân bút thuê”, văn chương của mình, câu cú của mình, diễn đạt ý tưởng của mình, mà không bao giờ được đứng tên tác giả. Cũng chẳng làm sao! Thói đời thiếu gì người trâu buộc ghét trâu ăn. Những người lãnh đạo trong cuộc, người sành điệu diễn đàn hội nghị, họ biết ngay rằng những suy nghĩ khúc chiết, giọng văn du dương ấy là của ai. Thực tài đâu cần mượn đến hư danh! Càng làm được nhiều việc như thế, cái tầm nghĩ ngợi, suy tưởng của mình nó cũng được vươn cao, vươn xa ra rất nhiều. Đúng là Ba năm ở với người đần/ Chẳng bằng một lúc đứng gần người khôn.
Ở đâu tôi cũng được trọng vọng, cảm thấy phía sau mình luôn có những ánh mắt ghen tị và thèm muốn. Khi xem những chương trình thời sự địa phương, tôi thường thấy mình xuất hiện trên truyền hình, cũng khá ăn ảnh ăn hình như ai. Khoái nhất là những khi bước vào quán nhậu, mấy o tiếp viên thì thào nghe đến sướng cái màng nhĩ: “Em vừa mới thấy anh trên ti vi đó, đẹp chai quá chời!”. Ngồi bù khú với bạn bè, tôi thao thao bất tuyệt chuyện kim cổ tây đông, tình hình địa phương từ “Năm không” đến “Ba có”. Bạn bè khích lệ: “Dạo này mình gặp cậu trên cầu truyền hình hơi nhiều, trông hơi bị oai đấy! Cố lên đi!”. Về nhà, bà con xóm phố hay ghé tới chơi, phản ánh tình hình, đề đạt nguyện vọng. Chắc là họ nghĩ rằng, tôi sắp lên làm lãnh đạo tỉnh thành nay mai. Tương lai cũng có thể như thế lắm chứ! Có những ông vua không ngai vàng, hiện tại, tôi là người lãnh đạo không ghế? Duy chỉ có mẹ và cô em út trong nhà là nhìn nhận về tôi hơi khang khác:
– Lên ngựa xuống xe nhiều, ngồi hội nghị hoài, đi sớm về khuya hay bỏ cơm nhà, dạo này trông tạng anh có vẻ đẫy đà, da dẻ phì nhiêu, dáng đi hơi khệnh khạng rồi đấy!
Nghe mẹ trách khéo như thế, em nó cũng về hùa theo:
– Gần đèn thì sáng, anh hai nhà mình bắt đầu nói giọng lãnh đạo, tác phong người chỉ huy, có vẻ khét tiếng hơn ông ba nhiều.
Điều ấy cũng đúng thôi! Cổ nhân từng có câu Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ là gì.
Họp chi bộ, họp cơ quan, tôi phát huy tối đa quyền dân chủ, bộc lộ quan điểm rõ ràng, tranh luận đến cùng phải trái phân minh, nghĩa tình sòng phẳng. Không ít lần tôi lí sự tay đôi ngay cả với lãnh đạo. Những lần như thế, tôi thường bị mọi người quy chụp cho rằng: “Đồng chí có kiến thức nhưng thiếu thực tiễn và cơ sở lí luận khoa học”.
Sau những lần như thế, tôi thường lùng bùng: “Thực tiễn và cơ sở lí luận khoa học” là những gì mà tôi lại không có? Một đàn anh đi trước mách bảo cho tôi rằng:
– Người ta có ý chê rằng cậu chưa qua một lớp lí luận chính trị nào, ít ra cũng phải có một tấm bằng trung cấp để ăn nói với thiên hạ.
– Như vậy thì em đi đại học lí luận, nếu cần thì bảo vệ luôn luận án tiến sĩ cũng không ngán.
Tôi đặt vấn đề xin đi học tiếp, các anh lãnh đạo đồng ý ngay. Người ủng hộ tích cực nhất là vị chủ tịch tỉnh, còn hứa sẽ đặc cách tăng một bậc lương trước hạn để tôi yên tâm đi học.
Với người ta, tự dưng tổ chức gọi lên động viên cho đi học dài hạn là có vấn đề. Còn tôi là cán bộ thuộc diện kế cận tự nguyện xin đi học là một chuyện khác. Chớp ngay thời cơ, tôi đâm đơn thi vào Đại học Mác – Lênin chuyên ngành Triết học, học ngay tại Thủ đô Hà Nội.
Bốn năm ròng ngồi miệt mài trên giảng đường đại học một lần nữa quả không uổng phí thời gian và sức lực. Thật không ngờ Triết học lại có một ma lực ghê gớm đối với tôi như thế. Lịch sử trái đất của thuở hồng hoang và tư tưởng của nhân loại kim cổ đông tây, từ Triết học Duy vật sơ khai Hy Lạp cổ đại của Đêmôcrít, Aristốt đến Triết học Cổ điển Đức của Hêghen rồi Chủ nghĩa Duy vật biện chứng của Lênin, Các Mác… tôi say mê như cậu học bé hiếu kì đặt chân vào khu vườn lạ. Tôi “đọc thủng” thư viện của nhà trường, đụng đến các loại sách như Bút ký triết học của Lênin hay Chống Duyrinh của Ăngghen là đau đầu nhức óc, nhưng tôi cũng nghiền ngẫm từng trang. Tôi như dần dần được thay một cái đầu mới. Và cũng chính vì sự say mê ấy mà tôi được hân hạnh trở thành một học trò cưng của Giáo sư Bằng – Viện trưởng Viện Triết học Đông Phương.
Giáo sư Bằng quý tôi bởi sự say mê nghiên cứu, cách tư duy logic, lập luận sắc bén và lưu loát, đặc biệt ở khả năng hùng biện, có sức áp đảo đối phương khi tranh luận vấn đề. Rất tiết kiệm lời trong khen, chê đối với sinh viên, nhưng Giáo sư Bằng cũng đã vài lần thừa nhận về tôi trong những buổi thảo luận chuyên đề rằng: “Cậu ấy biết kết hợp chiều rộng với chiều sâu, giữa lí luận với thực tiễn, nên có sức thuyết phục cao”.
Những ngày tôi sắp tốt nghiệp ra trường, ba tôi liên tục hết gửi thư đến gọi điện thoại trực tiếp bảo rằng, thi tốt nghiệp xong phải thu xếp trở về ngay, trong ấy đang chuẩn bị nhân sự cho Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kì thứ 13. Tôi rất hiểu nỗi lòng của một người cha, khi tôi là đứa con trai duy nhất có thể nối nghiệp con đường cách mạng, hoạt động chính trị mà ông cha đã suốt đời chiến đấu hy sinh trên chiến trường. Hay nói xa hơn, là tiếp nối làm rạng danh nhánh Vương Văn… ở Việt Sơn trên chính trường. Độ chừng vài năm nữa, ba tôi đến tuổi nghỉ hưu rồi. Chức bí thư huyện uỷ không phải là của cha truyền con nối, nhưng ít ra cụ cũng lo được một việc gì đó cho tôi.
Trong khi đó, Giáo sư Bằng lại có ý thuyết phục và khuyên tôi nên đi tiếp con đường nghiên cứu lý luận. Bao đêm rồi, lời thầy cứ thầm thỉ ngon ngọt bên tai: “Em có thiên hướng tư duy lý luận sâu sắc và tác phong sư phạm, quan trọng nhất là sự say mê. Thầy có thể can thiệp để em được giữ ở lại trường làm giảng viên; nếu thích thì có thể về bên Viện của thầy cũng được. Ở Hà Nội thuận lợi nhiều cho công việc học thuật. Theo thầy nghĩ, con đường ấy đang rộng mở, một hàm phó giáo sư với học vị tiến sĩ Triết học không ngoài tầm tay của em. Em Nguyệt Chi của thầy đấy…! Thầy đang hướng cho em nó đi vào nghiên cứu tiếp Khảo cổ học… cũng hay lắm, không kém gì Triết học…”.
Những điều Giáo sư Bằng nói là rất tâm huyết đối với một học trò cưng, nhưng hoàn toàn nằm ngoài suy nghĩ của tôi. Còn một điều ý nhị khác nữa là Nguyệt Chi – cô con gái út của Giáo sư Bằng kém tôi sáu tuổi, hiện đang du học tại Ấn Độ. Hai đứa ít có cơ hội gặp mặt nhưng rất siêng năng trao đổi thư từ và rất quý mến nhau như tình anh em. Chưa hứa hẹn điều gì nhưng cũng có thể cảm nhận trước được những điều muốn nói. Gọi là “con thầy” mà! Điều này không loại trừ khả năng tôi hơi ngộ nhận.
Thật khó cho tôi! Nhiều người lo, tự dưng tôi đứng giữa đôi dòng, dòng nào cũng mát trong mời gọi. Tôi đành vận vào mình cái hạnh đạo Nho gia “Quân – Sư – Phụ” và khấn quẻ xin keo gieo đồng xu sấp ngửa. Cuối cùng, âu đó cũng là cái Đạo làm người đã định, tôi trở về lại cơ quan, với văn bằng cử nhân Triết học loại ưu, trước sự ngưỡng mộ của bao người.
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 13 thu hút sự quan tâm của mọi người. Đây là dại hội mở đầu cho công cuộc đổi mới, khởi xướng cho tư tưởng phá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp tồn tại trong nhiều năm. Tôi là một ứng cử viên trẻ nhất, vừa mới qua tuổi ba mươi, nhân sự mới toanh, thuộc loại chuẩn hoá và đạo hạnh trong veo suốt cả bốn năm đi học. Không ngoài dự đoán của Đại hội, tôi trúng cử Ban chấp hành, rồi vào Ban Thường vụ Tỉnh uỷ với số phiếu khá cao.
Nghe tin này, Giáo sư Bằng gọi điện chia vui và nhắn tôi ra Hà Nội ngay, thầy còn có nhiều điều muốn nói, nhất là với một học trò yêu, còn trẻ người non dạ và giáo điều như tôi. Tôi tin chắc rằng mình sẽ nhận được những điều chỉ giáo tâm huyết, để chuẩn bị thêm hành trang cho tuổi trẻ bước lên chính trường nơi trời cao gió mạnh. Giáo sư Bằng là mẫu người cẩn trọng và có bề dày kinh nghiệm lão làng, tác giả của nhiều bộ giáo trình đại học nổi tiếng. Có thể nói rằng, tôi cũng là một sản phẩm của thầy, khi ra lò phải hoàn thiện đến từng li.
Tôi vội vàng đáp chuyến bay khứ hồi cuối ngày và sẽ bay trở về ngay vào sáng sớm hôm sau, để kịp dự phiên họp rất quan trọng, phân công ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ.
Tôi ra khỏi phòng trả khách của sân bay Nội Bài khi trời vừa nhá nhem tối. Người đón tôi tại sân bay là một thanh niên lạ, dáng cao ráo trông khá điển trai, bộ sơ mi quần xanh áo trắng khoác thêm cái ghi lê rất kiểu cách, cử chỉ lịch thiệp như một chiêu đãi viên. Tôi hơi ngờ ngợ, chưa hề gặp người thanh niên này mà sao anh ta nhận ra tôi. Anh ta đi thẳng đến trước mặt tôi cúi đầu chào và nở nụ cười thân thiện, rồi đưa cho tôi tấm danh thiếp của Giáo sư Bằng và ra hiệu mời ra xe. Tôi đoán chắc anh ta là người của một hãng tắc xi nào đó nên không bắt chuyện. Anh ta chở tôi đến thẳng khách sạn Dân Chủ. Mở cửa xe mời khách ra, xách va li, vào quầy lễ tân lấy chìa khoá và đưa tôi lên phòng, anh ta làm gọn trơn, chu toàn như một người máy được lập trình sẵn. Duy có động tác cúi chào và nụ cười niềm nở không thành tiếng là rất tình người. Sự chu đáo và lịch thiệp của anh ta gây cho tôi thiện cảm ban đầu nhưng chưa kịp hỏi han điều gì. Xong công việc của mình, anh ta biến lẹ như một cái bóng.
Một lúc sau, nghe chuông điện thoại khách sạn đổ thong thả, tôi nhấc máy. Tiếng con gái trong trẻo và phát âm rất chuẩn chất giọng Hà Nội:
– A lô! Giáo sư Bằng nhờ em nhắn đến quí khách rằng, một giờ sau có người đến đón quí khách tại phòng.
Tôi hơi sốt ruột. Đúng hẹn, có tiếng gõ cửa. Anh thanh niên điển trai lúc chập tối lại xuất hiện. Trước tiên là cử chỉ cúi đầu chào với nụ cười thân thiện, sau đó đưa tay mời tôi đi. Bấm khoá, đóng cửa, gửi chìa khoá cho lễ tân, mở cửa xe… anh ta lại làm tất, rồi đưa tôi đến một nhà hàng nổi trên hồ Bảy Mẫu. Giáo sư Bằng đã đợi sẵn. Tôi bắt tay và cúi chào thầy rồi nhìn quanh. Hiểu ý, thầy xua tay:
– Không còn ai cả, chỉ có hai thầy trò ta thôi, chuyện nội bộ mà! Nghe tin em như thế mừng quá! Hôm nay thầy chiêu đãi đồng chí Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ nhé!
– Dạ…em không dám, thầy quá khen!
– Chuyện vui lớn, dùng rượu mạnh nhé? Vodka Nga đi!
– Vâng ạ!
Chỉ vài ly với cái cớ gọi là mừng học trò thăng tiến cho “mềm môi trôi giọng”, còn lại suốt buổi tối hai thầy trò uống nhiều và nói cũng nhiều, hết chuyện đời riêng, chung đến chuyện triết học từ Đông sang Tây. Giáo sư Bằng hút tôi vào những quan điểm mới về triết học Đông phương và nền móng tư tưởng của triết học Việt Nam trong mối giao thoa giữa hai nền văn minh Trung – Ấn.
Tôi cắp sách bút theo học thầy những bốn năm nay chưa hết chuyện, huống chi chỉ có một buổi tối nay. Thầy trò tôi say mê đàm đạo. Chung quanh mọi người say sưa chúc tụng chào mời, đã có những bàn người ta đứng dậy tạm biệt nhau.
Tôi bắt đầu hơi sốt ruột, tìm cách lái câu chuyện:
– Điều cần nhất của em ngay bây giờ là xin thầy khuyên bảo phải trang bị thêm những gì? Và chắc là cũng chỉ vì như thế mà em bay từ trong ấy ra đây. Bốn năm qua thầy dạy em dùi mài kinh điển từ cổ đến kim để làm Triết học, chứ chưa dạy em phương pháp làm người đồng chí Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, theo như cách gọi của thầy.
– Đó là trường đời, giản đơn như một cuộc chơi vui như hôm nay. Sáng mai còn phải về họp Thường vụ phân công phải không? Cái tâm phải yên, cái trí cần phải minh, cứ hạ hồi phân giải! Chúc em thành đạt. – Cái bắt tay tạm biệt của thầy ấm và rất chặt.
Giáo sư Bằng gọi nhân viên nhà hàng đến nói nhỏ một điều gì đó. Tôi toan đứng dậy, nhưng thầy phẩy tay ra hiệu ngồi yên. Ngay lập tức “anh người máy” lại xuất hiện tại quầy lễ tân để tính tiền.
Lại những động tác đã lập trình sẵn, anh ta đưa trả tôi trở về khách sạn. Có hơi khác một chút, lần này cùng với nụ cười thay cho lời chào, anh ta xoè bàn tay ra đưa lên trước mặt tôi. Chắc anh ta xin tiền boa, tôi vội vàng rút ví. Anh ta xua tay cười và chỉ vào cái đồng hồ rồi đi ngay. Tôi kịp nhận ra trên nụ cười ấy có cái gì đó hơi khinh khỉnh ngây ngô. Tự nhiên, tôi cảm thấy ngường ngượng với chính mình.
Tôi hiểu. Sáng mai anh ta sẽ quay lại đón lúc năm giờ. Theo lịch bay, sáu giờ hơn máy bay cất cánh. Chừng ấy thời gian đủ cho tôi đi từ Hà Nội lên Nội Bài và làm thủ tục đi chuyến sớm nhất.
Tôi ngã ngửa trên giường dang hai tay chán nản, hình như tôi đã bỏ dở dang một việc gì đó mà không thể tiếp tục được nữa. Rượu Vodka Nga nặng đô nhưng đằm. Tôi khép mắt rồi chìm dần vào cơn say và sực tỉnh lại trong cõi u u, mê mê…
– Cạch… cạch…cạch…
– Cạch… cạch…cạch…
Đúng năm giờ sáng. Sau hai lần gõ cửa nhẹ nhàng, anh ta xuất hiện với nụ cười chào mời và nhìn tôi với đôi mắt sáng trưng. Đôi mắt ấy biết nói, hình như anh ta hỏi tôi “Đêm qua anh có ngủ được không?”.
– Cảm ơn! Một giấc ngủ rất say.
Lại những động tác đã lập trình sẵn: Xách va li, chốt khoá, đóng cửa, trả chìa khoá cho lễ tân, mở cửa xe, đưa tay mời… và chiếc xe lướt đi êm như ru. Xe qua khỏi cầu Thăng Long rồi rẽ về hướng sân bay Nội Bài, nhìn thấy kim đồng hồ báo vận tốc chỉ con số 140 ki lô mét, sợ chi phối tài xế, tôi không dám bắt chuyện.
Đến sân bay, anh ta dắt tôi lại bàn làm thủ tục và chỉ một vài cử chỉ ra hiệu, tôi được đưa ngay vào phòng chờ VIP.
Tôi và anh ta chỉ kịp vẫy tay chào nhau.
Hơn một giờ bay qua nhanh, tôi bước xuống sân bay, không có ai đón, tôi bắt tắc xi về thẳng trụ sở Tỉnh uỷ, vẫn trong tâm trạng bềnh bồng khó tả. Còn thừa thời gian để uống ly cà phê buổi sáng.
Sắp vào cuộc họp, tôi nhận được điện thoại của Giáo sư Bằng:
– Em về đến nhà chưa?
– Dạ… Em đang ở phòng họp.
– Vui vẻ cả chứ?
– Thưa thầy có vui… nhưng hình như em cảm thấy thiếu hụt một điều gì đấy thầy ạ!
– Em đi sớm quá nên thầy không đưa tiễn được. Cậu lái xe chu đáo với em đấy chứ?
– Dạ thưa… Rất chu toàn, còn hơn một chương trình rô bốt thiết lập sẵn. Nhưng… Nhưng sao thầy lại chọn một tài xế đẹp trai, lịch lãm, tận tâm mà lại câm như hến thế kia.
– Đúng như thế chứ còn gì nữa. Em không nhận ra à? Đó là bác tài câm thật một trăm phần trăm! Nhưng là tài xế của anh Cường con trai thầy. Anh Cường đang là giám đốc bên Tổng cục Hải quan. Câm như thế, nhưng độ tin cậy và thế lực ngầm của cậu ta còn hơn cả phó giám đốc trực đấy! Thôi tạm biệt nhé! Thầy chúc em sớm thành đạt! Tút… tút… tút…
Tôi đứng thừ người ra. Giọng của Giáo sư Bằng trầm và ấm vẫn còn văng vẳng bên tai. Cử tọa rung chuông mời gọi mọi người. Tôi tắt máy điện thoại và bước vào phòng họp.

 

CUCU
(Truyện ngắn)

Là con lớn trong một gia đình có đông anh em, cha mất sớm, nên Bườn sớm lăn lóc vào đời. Năm mười bốn tuổi, đi học một buổi còn một buổi ở nhà đi làm lơ xe đò. Nhờ thừa kế được cái gien trội từ đời ông nội mà Bườn sớm nhổ giò, thể xác tốt mã vượt trội hơn những đứa cùng tuổi, nên trông cũng không đến nỗi nhỏ con lắm. Đến năm mười bảy tuổi, Bườn bỏ dở chương trình đệ tứ (tương đương lớp 9 bây giờ) đi nắm vô lăng thuê, chạy xe khách đường xa tuyến Đà Nẵng – Trung Phước.
Làm bác tài trẻ vi vu có tiếng là một tay lái tài hoa, lại ăn nói có duyên nữa, nên Bườn được nhiều cô bạn hàng buôn chuyến trái cây mê mẩn. Số phận Bườn được an bài trong một chuyến xe cuối năm. Cô Thoa, con gái út ông chủ đòi đi theo xe lên Trung Phước thăm làng Đại Bình, nơi được mệnh danh là “một Nam bộ thu nhỏ” trên quê hương Quảng Nam – Đà Nẵng; chùm dâu đất, trái lòn bon sánh duyên cùng hương sầu riêng, măng cụt. Thoa cũng vừa đến độ cập kê, da trắng, mắt trong, ngực đầy, mông nở; lại có thêm cái thắt đáy lưng ong có ngấn gợi cảm chết người. Chuyến xe ấy không may hỏng hóc phải nằm lại tối trên lưng chừng đèo. Đêm hôm ấy, cũng tại cái con chồn đèn đi ăn đêm cứ đứng chong chong đôi mắt xanh lè nhìn cô chủ Thoa. Thoa thất thần ré lên rồi nhào đến ôm ghì và áp mặt vào ngực Bườn. Bườn bị hớp hồn khi chạm phải bầu vú nóng ran căng tròn êm như nhung đang thổn thức. Đêm ấy Thoa lại bắt Bườn phải ngồi thức canh chừng con chồn đèn, kẻo sợ nó quay trở lại trêu ngươi. Chồn ở đâu không thấy, chỉ thấy có cô Thoa nõn nà, trông thơm thảo ngọt ngon như quả táo đầu mùa, với cái tựa đầu tin cậy, kề vai áp ngực giao thoa. Sương đêm xao động. Một cảm giác rạo rực xốn xang lan toả gọi mời. Vậy là “tay lái tài hoa” mất thắng “sụp bẫy” cô con gái ông chủ chốn lưng đèo. Khi biết chuyện hai đứa rủ nhau ăn trái cấm, không những ông chủ xe không rầy la mà còn ngồi cười hềnh hệch cho là duyên số ấy trời xe. Vậy là bác tài trẻ ta đành cưới vợ sớm. Bước vào tuổi hai mươi Bườn đã làm chủ một gia đình. Ruộng sâu trâu nái, con gái đầu lòng, chuẩn bị sinh đứa con thứ hai.
Sau này, những lúc vui vầy Bườn hay tự khoe là đời mình được đốt cháy giai đoạn tuổi thiếu thời, gác tuổi học trò chưa ráo mực đã được đôn lên làm bố. Mà cũng tại chuyến xe định mệnh cuối năm ấy, không biết là cái bẫy ai giăng, của cô con gái hay là của ông chủ, không khéo lại của cả hai cha con nọ cũng nên. Mà đúng như vậy thì Bườn sập là phải, hai đánh một không chột cũng què. Bị sập bẫy mà lại êm ru như ngồi trên cái nhíp!
Có vợ sớm cũng có cái rất được, mà mãi tận sau nầy nhiều người mới ngộ ra, cả một lớp bạn học trò ngày xưa không có đứa nào được như Bườn ngày nay. Vào tuổi năm mươi, vợ chồng Bườn đã hai lần cắp dù đi làm sui, sắp sửa được lên ngôi ông ngoại lần thứ hai. Cậu út vừa tốt nghiệp trường Luật, sắp sửa đi làm thầy cãi nay mai. Vậy là tay lái tài hoa coi như thất truyền.
Lên ông lên bà rồi, Bườn quyết định treo vô lăng sớm. Từ năm mười bốn tuổi đã rong ruổi trên đường tứ chiếng tây đông rồi, đến nay nghe chừng cũng đã thấm mệt. Mặt khác mắt mũi có tuổi rồi có khi trông gà hoá cuốc, kinh nghiệm đường rừng ổ gà ổ voi không thể đua được với các tay lái lụa tuổi trẻ cùng cung đường cao tốc ngày nay.
Vậy là Bườn bán xe, chuyển sang mở quầy hàng bán phụ tùng ô tô kiêm luôn nghề làm thợ tiện, gọi là sắm việc ngồi nhà cho có công chuyện mua vui. Mua bán thương trường, tiện chạm đo đếm chi li vốn không phải là sở trường, Bườn đâm ra buồn chán nhớ đường nhớ xe, thèm có người chơi để nói chuyện tâm tình.
Bỗng một hôm có ông lão người Hoà Ninh quen lâu rồi không gặp, nay đi ngang qua nhà đem “bán” cho Bườn một con khỉ đực lông vàng cụt đuôi khá đẹp. Theo như lời ông lão nói, thì con khỉ này ông nuôi nó từ ngày còn bé con như cái nắm tay, năm nay nó lên ba tuổi rồi. Vừa qua nó nghịch ngợm gắp lửa lên mái nhà chơi làm cháy mất cái chái bếp, may mà bà con còn chữa kịp chứ không thì mang tai họa cho cả xóm. Bà lão ở nhà giận quá đánh nó và đòi tống khứ nó đi hoặc đem giết quách cho xong hậu họa. Ông lão thấy thương và tiếc mới đem đến cho Bườn, gọi là bán cho nó có cái duyên may thôi. Là khỉ nhưng nó có thể nghe và hiểu được một số tiếng người. Để chứng minh cho điều mình vừa nói, ông lão kề miệng nói vào tai con khỉ:
– Mầy hư quá làm bà giận, bà đánh, bà đuổi mầy rồi. Từ hôm nay mầy ở lại đây với chú. Ở đây phố phường chắc là hơn trên ấy, sẽ có lắm thứ ngon cho mầy ăn, nhiều kiểu lạ cho mầy chơi.
Con khỉ ngồi trầm tư như ông cụ non, hình như nó hiểu những điều ông lão vừa nói. Bườn nắm sợi dây xích dắt vào nhà, nó ngoan ngoãn đi theo. Ông lão không ra giá, Bườn không mặc cả mà gửi ông ba trăm ngàn đồng.
Sau khi ông lão đi rồi, con khỉ ngồi buồn xo ro, hình như trong mắt nó có ngân ngấn nước. Bườn đem cho nó mấy cái bánh quy và một quả chuối, nhưng nó chỉ ngồi nhìn chứ không đụng tới. Sang đến ngày hôm sau nó bắt đầu ăn uống và chạy nhảy trở lại bình thường. Giống khỉ là thế, nỗi buồn mau quên, tốt tính là không thù vặt.
Bườn đặt tên cho khỉ là Cucu và đem buộc vào gốc cây hoa giấy trước nhà, nối dài thêm sợi dây xích để nó có thể tự do leo xuống nghịch dưới đất, hứng chí nhảy đánh đu làm xiếc trên cây.
Từ ngày có Cucu, trước nhà Bườn luôn có mấy đứa trẻ con rình rập trêu chọc. Chúng nó càng trêu ghẹo Cucu càng cao hứng diễn trò. Có Cucu nhà như có thêm một đứa trẻ con, phải cho nó ăn, dạy nó chơi, đôi khi cũng phải quát tháo roi vọt cho nó sợ, vài ngày lại phải dẫn nó đi tắm xà phòng thơm hẳn hoi, để tránh trong nhà khỏi có cái mùi ngai ngái khăm khắm rất khỉ.
Có Cucu trong nhà cũng rất vui. Con cái nuôi lớn lên chúng nó đi hết rồi, bạn bè trang lứa còn lo bươn chải lo lam lo làm nuôi con ăn học. Cô Thoa nõn nà ngày nào nay trở thành bà Thoa tham công tiếc việc, cứ mãi lấn bấn với cái quầy hàng tạp hóa ngoài chợ. Ở nhà một mình không có ai chơi, buồn tình Bườn chơi với Cucu. Cucu biết khôn, hiếu động, biết diễn trò mua vui cho chủ, nhưng chán nhất là nó không biết nói chuyện. Vui buồn “chí chóe”. Giận dỗi lại “chí chóe”. Sợ hãi cũng “chí chóe”.
Từ vui vẻ chuyển sang phiền toái không mấy hồi. Có thể nói tên Cucu này quái hơn mấy đứa trẻ con lối phố, múa may chạy nhảy nặn ra lắm trò. Ai đội mũ đi ngang qua đúng trong tầm với, ngay tức thì nó từ trên cao đu xuống hớt cái mũ một cách nhẹ tơn rồi tót lên ngọn cây ngồi rung chân, vung vẫy chán chê, đợi Bườn quát một tiếng mới ném trả cái mũ. Cucu rất sợ Bườn, hay nói đúng hơn là nó sợ cái roi mây. Roi đáng roi, cái roi mây dẻo và mềm, quất một nhát là cái đau lặn vào tận thịt da, đến khỉ cũng phải sợ. Phiền nhất là khi đàn bà con gái đi qua, dây chuyền, bông tai, nơ cài tóc, trâm giắt đầu…, nó lượn xuống xớt lấy nhanh hơn làm xiếc; tót lên ngồi trên cây lại còn dạng háng ra gãi bẹn, sờ chim khiêu khích.
Dân chúng đi trên vỉa hè quen nhìn thẳng để định hướng và nhìn xuống chân để tránh dẫm đạp phải những thứ dơ dáy, chứ đâu phải quan quyền thường hay ngước mắt nhìn lên mà biết ở phía trên đầu có khỉ. Thế là Cucu ta bị người quy chụp cho cái tội cùng ông chủ: “Khỉ Bườn ghẹo gái giữa ban ngày”.
Để khỏi phiền toái, Bườn đem Cucu vào buộc chỗ chân cầu thang, nghe hơi mất vệ sinh nhưng phiền trong nhà còn hơn bề ngoài. Bị buộc chặt Cucu ta trổ tài cởi xích. Tiết mục cởi xích phá xiềng thì quả là nó có biệt tài, buộc thế nào rồi ngồi loay hoay hoài nó cũng cởi được. Buộc chặt quá thì thương nó bị đau, buộc lỏng tay dễ bề nó cởi trói. Mà một khi đã thoát ra rồi thì nó leo trèo chạy nhảy khắp mọi nơi, khó khăn lắm mới tóm lại được. Sợ nhất là Cucu nghịch điện, cắm quạt, đóng cầu dao máy tiện máy mài… nó làm được tất. Đặc biệt nó rất khoái cái giá sách, chỉ cần tót lên “ngồi đọc” một lúc là sách vở bị xé teng beng làm giấy vụn. Nghe người ta mách nước là khỉ rất sợ chó, nhưng Bườn không dám nuôi chó, vì loài chó hay cắn người, nhỡ nó ngoạm phải Cucu thì tội nghiệp nó. Chó lại hay có máu điên, chúng nó mà cấu xé nhau truyền thêm máu điên cho khỉ nữa thì tan cửa nát nhà, người người tai họa. Bườn làm cách khác, nghĩ kế hù khỉ. Anh mua về một con chó béc giê bằng sứ cao to giống hệt như con chó thật, đem đặt ngay chỗ giá sách. Thấy con chó khổng lồ ngồi chễm chệ xừng tai há mõm le cái lưỡi đỏ lòm, Cucu ta không dám bén mảng tới, chỉ đứng xa lấm lét nhìn. Mấy ngày sau chắc là phát hiện ra đó chỉ là con chó giả, lập tức Cucu trèo lên đầu chó ngồi, túm lấy hai tai chó lắc lấy lắc để như chơi trò bập bênh. Con chó sứ đổ chổng kềnh vỡ toang hoang. Cucu khoái chí ngồi dạng chân gãi bẹn “cười” choe choé.
Chịu hết nổi rồi! Mất tiền để mua về một nỗi phiền toái, giờ không chịu nổi nữa đành phải tìm cách tống khứ nó đi là điều cực chẳng đã. Bực bội Cucu lắm nhưng Bườn vẫn cảm thấy thương thương. Thả nó ra đường sẽ bị người phàm xẻ thịt nấu cao, cao khỉ dạo rày nghe nói đắt lắm; cho thì mang tội, dù là con khỉ cũng không nên thay thầy đổi chủ đến ba lần.
Thấy Bườn cứ đắn đo với ý nghĩ về con khỉ nhãi ranh, bà Thoa mách nước:
– Ông lão bán con khỉ cho anh người Hòa Ninh chứ gì? Thả đại nó về trên Bà Nà – Núi Chúa ấy là xong.
Bườn vỗ đùi kêu đánh “đét” một tiếng như vừa mới chiêu một ngụm rượu ngon, rối rít khen vợ hết lời:
– Đàn bà con gái thời nay thông minh lắm! Được lắm! Của sơn trả về núi, trên ấy có khu bảo tồn sinh thái và động vật quý hiếm, chi bằng ta cho nó sớm hồi hương. Mấy người trước đây bỏ tổ quốc vượt biên ra đi, nay gọi là nhớ quê cha đất tổ tìm đường trở lại, huống hồ chi nó là con khỉ bị bắt ra khỏi rừng về ở với người đeo xiềng xích bấy lâu nay. Chắc là nó cũng đang nhớ rừng sầu đau đến não ruột, nên trả thù đời bằng cách quậy phá tưng bừng và cũng để cho khuây đi nỗi nhớ.
Đã nói là phải làm ngay chứ không nên để lâu dễ đổi thay ý định, nhưng ít ra ông chủ Bườn cũng phải làm cho Cucu một cái gì đó chứ không lẽ để nó ra đi tay không!
Ngay hôm ấy, Bườn đi mượn cái tông đơ điện về tự tay cắt cho Cucu cái đầu đinh đúng kiểu và đến thợ may đặt may ngay cho nó một bộ quần áo thể thao, vải dù loại tốt màu vàng viền đỏ, có hình con số 9 trên lưng.
Sáng hôm sau Bườn dong xe đưa Cucu lên núi Bà Nà, trên đường ghé mua thêm một ít bánh kẹo các loại và mấy trái chuối. Đến chân núi, anh dừng xe phía bên kia cầu An Lợi; Cucu cứ nhấp nhổm “khẹt khẹt” liên hồi rồi nhảy chồm chỗm vẻ vui sướng. Chắc nó đã nhìn thấy cảnh núi rừng xanh thẳm và nghe tiếng suối reo, những sắc màu và âm thanh quen thuộc trên giang sơn của nó trước đây.
Bườn kéo Cucu lại tháo xích, một tay với cái túi định lấy quần áo mặc cho nó, nhưng nhanh như cướp Cucu thoát ra trèo tót lên cây, miệng kêu khe khé như đang cười, chân tay dẻo quẹo như được làm bằng nhựa, đánh đu từ cành này sang cành khác một cách điệu nghệ rồi mất dạng trong cây.
Chờ mãi không thấy Cucu trở lại, Bườn đứng tần ngần trong tâm trạng hụt hẫng, không rõ lòng buồn hay vui. Vậy là con Cucu bạc tình bỏ rơi anh. Anh nổ máy xe và chửi đổng:
– Quân bất hiếu, đồ khỉ vẫn hoàn khỉ!
Quay xe lại chạy qua khỏi cầu, sực nhớ trong túi còn bộ quần áo và mấy thứ sắm cho khỉ, Bườn dừng lại mở túi lấy ra định ném xuống suối. Bỗng anh nghe tiếng Cucu kêu ré lên phía sau, ba chân bốn cẳng nó bươn bả chạy tới nhảy lên ngồi ôm chặt lấy đầu xe, đôi mắt nhìn cầu khẩn. Bườn thấy lòng mình xốn xang. Cucu đâu phải là quân bất hiếu, nó đang sợ anh bỏ rơi.
Bườn bắt đầu lúng túng, anh tự vấn lòng mình: “Một con khỉ có nghĩa. Chở nó trở về ư! Không nên. Phải nghĩ cách thả lại nó vào rừng thôi!”.
Nếu lúc nãy Cucu đi luôn vào rừng, thì anh có buồn phiền chút ít, nhưng có lẽ trong lòng nhẹ nhàng hơn.

Có hai đứa nhỏ vác rựa từ phía rừng đi ra, thấy chú khỉ vui mắt, chúng nó dừng lại xem. Khi biết ý định của Bườn muốn thả khỉ vào rừng, một đứa mách bảo:
– Dân ở đây không mấy ai nuôi khỉ đâu chú ạ, họ bảo Nuôi ong tay áo, nuôi khỉ giậm nhà, chỉ sợ gặp bọn phường săn ở phố lên thôi, nhất là ngửi thấy mùi khỉ cái, bằng mọi giá bọn chúng phải bao vây tóm sống. Nghe nói họ làm thuốc bổ thận cường dương chi đó.
– Muốn thả được con khỉ này lại cho rừng, chú phải đi sâu vào một đoạn nữa mới đến khu bảo vệ động vật hoang dã, nằm cách biệt bên kia suối, ở đó có mấy chú bảo vệ rừng trông coi, khỏi sợ chi hết – Cậu bé cùng đi còn nói chêm thêm cảnh báo trước – Trong ấy có một đàn khỉ đông tợn lắm, con này lạ lạc vào lãnh địa chúng không chắc nhập đàn được, không khéo bị khỉ bầy xúm vào cắn chết đấy.
Nghe cậu nhỏ nói thế, Bườn hơi lo nhưng lòng anh đã quyết. Không nhập đàn được thì Cucu sống đơn lẻ, voi nhà thả về núi còn nhập bầy được nữa là khỉ; đã cấu xé nhau thì chưa dám chắc con nào hơn con nào.
Nghe theo lời hai cậu nhỏ, Bườn đi sâu vào rừng. Đến khu bảo tồn động vật hoang dã anh dừng lại. Cucu bây giờ bám riết theo anh, chắc là nó sợ bị bỏ lại một lần nữa. Nhìn sang bên kia suối, Bườn thấy có một đàn khỉ đang chuyền cành bồng bế nhau đùa vui chí chóe. Bườn lấy quần áo ra mặc vào cho Cucu, trông nó thật ngộ nghĩnh, hơi giống Tôn Ngộ Không trong Tây Du ký.
Bườn gói nải chuối cùng bánh kẹo kẹp nách, hai tay bồng Cucu lội ra giữa suối. Cucu ghì chặt lấy anh, nghiến răng chèo chẹo, hình như nó cảm nhận thấy sắp có tai biến. Đi thêm một đoạn nữa cho gần bờ bên kia, Bườn gắng gượng dằn lòng mình, lấy hết sức ném tung Cucu sang bờ, rồi ném luôn theo gói thức ăn cho nó. Cucu lanh lẹ kịp bám được và đu trên một cành cây ven suối. Nó không còn chí chóe kêu nữa mà ré lên từng hồi thảm thiết, nó khua khoắng chân tay loạn xạ réo gọi. Cucu leo ra bờ suối ngồi trên mõm đá, khản tiếng réo gào như bị ai đè ra cắt tiết.
Bườn quay lại lội nhanh lên bờ, thấy mắt mình nhòa đi, mũi cay xè nóng hổi. Không phải Cucu bất nghĩa bạc tình bỏ anh, mà anh đã đoạn lòng bỏ rơi nó.
Chuẩn bị quay lui, Bườn ngoái nhìn sang bờ suối bên kia lần nữa. Anh giật thót tim, một con khỉ màu đen to xù tách ra từ đàn khỉ lúc nãy đang chuyền cành lần ra bờ suối, nơi phát ra tiếng kêu lạ. Nó sắp mò đến chỗ mõm đá Cucu ngồi rồi. Việc gì sẽ xảy ra đây?
Bườn chong mắt đăm đăm nhìn sang. Nếu con khỉ kia mà tấn công Cucu thì Bườn sẽ giải cứu ngay.
Nhưng kỳ lạ thay, vừa nhìn thấy Cucu thì con khỉ màu đen to xù kia lập tức tháo lui ngay và rú lên, hình như như nó vừa nhìn thấy một hung thần. Những tiếng hú dài man dại liên tục cất lên, cả đàn khỉ kia nhanh chóng bồng bế kéo nhau chạy tán loạn rồi mất tăm.
Cucu lại gào lên dữ dội hơn. Những tiếng kêu nghe thống thiết đến nao lòng. Bườn phóng xe thật nhanh để chạy trốn, nhưng tiếng kêu gào khản đặc của Cucu cứ bám theo, dội vào vách núi, vang xa…

Thả Cucu về rừng rồi Bườn rất buồn, gần như tâm trạng cho một đứa con chưa trưởng thành ra ở riêng. Từ đó Bườn thường hay ngồi xem chương trình động vật hoang dã trên truyền hình. May mắn thay, hôm ấy chương trình Đài Truyền hình Việt Nam (kênh VTV3) phát về Khu Bảo tồn sinh thái Bà Nà. Bườn chăm chú theo dõi, dóng tai nghe.
Tiếng cô phát thanh viên giọng Hà Nội vang lên trong trẻo và rõ mồn một: Khu Bảo tồn sinh thái Bà Nà không những bảo vệ tốt nguồn động vật hoang dã hiện có, mà còn thu hút sự quan tâm của nhân dân quanh vùng. Những động vật quý hiếm bị bắt về nuôi giữ làm cảnh trong nhà bấy lâu nay, nay chúng được trả về lại với rừng”.
Bỗng Bườn hét toáng lên và cười vang:
– Mẹ nó ơi! Cucu kìa! Đúng là Cucu nhà mình rồi. Đã quá! Cucu đi đóng phim. Cucu lên truyền hình VTV. Ha…ha…! ha…ha…!
Đúng là Cucu của nhà Bườn thật, nó đang ngồi bắt tréo chân vắt vẻo trên ngọn cây sung chỗ bờ suối hôm nọ. Vẫn dáng cái đầu đinh và mặc cái áo màu vàng viền đỏ, nhưng không mặc quần. Chắc là ở trong rừng bị vướng víu khi leo trèo và khó khăn trong khâu tè ị, nên Cucu cởi vất cái quần, giữ lại cái áo mặc cho khỏi lạnh. Vậy là Bườn yên tâm. Cucu đã nhanh chóng thích nghi với rừng và không bị bọn khỉ bầy thổ địa kia bắt nạt. Bườn lẩm nhẩm nói một mình: “Nhất định Chủ nhật tuần sau mình sẽ lên thăm nó, không biết nó có còn nhớ chủ không. Nếu nó không nhớ thì khỉ vẫn hoàn khỉ”.
Sáng chủ nhật Bườn đi Bà Nà. Hoa quả ở rừng chắc là không thiếu, anh mua cho Cucu một ít bánh kẹo các loại, những thứ ấy khi còn ở nhà nó vẫn thích.
Đến nơi, Bườn bước xuống ven suối đúng chỗ hôm nọ, bắt tay làm loa cất tiếng gióng gọi sang bên kia. Anh vẫn gọi như khi Cucu còn ở nhà:
– Cucu…! Cucu…!
Bườn gọi hoài mà không thấy tăm hơi Cucu đâu cả, chỉ thấy một đàn khỉ nào đó bồng bế nhau chạy nhảy nô đùa. Hay là Cucu của Bườn nhập được đàn rồi nên quên chủ! Vậy thì mừng cho nó ở rừng sống có bầy có bạn, dù nó có quên anh rồi cũng chẳng sao. Thói đời có mới nới cũ là chuyện thường tình. Con người mắt mũi sáng trưng, nhìn mọi vật sờ sờ ra đó, mới hôm trước ngồi với nhau chén tạc chén thù, chén chú chén anh, hôm sau sếp nghỉ hưu là họ quên ngay, huống hồ chi là con khỉ được thả về rừng. Bườn khoát tay, miệng lẩm bẩm một mình: “Quên đi đồ khỉ ạ!”.
Vừa mới quay lại, Bườn chộ mặt một người lạ hoắc trông hơi dữ tướng, tay cầm ngọn giáo sáng quắc. Anh ta hỏi ngay:
– Anh gọi Cucu nào?
– Nó là con khỉ của tôi.
– Khỉ như thế nào?
Nghe Bườn miêu tả sơ sơ, anh ta hiểu ngay và nói như ra lệnh:
– Biết rõ. Tôi là Bảo Lâm. Đi theo tôi.
Bườn thầm hỏi: “Bảo Lâm à! Anh ta là ai?”. Chắc là không phải tên người, rất có thể đó là cách gọi tắt của “Người bảo vệ rừng”. Bườn lặng im đi theo anh. Linh cảm hình như có điều gì không bình thường, nhưng anh ngài ngại không dám hỏi và anh ta cũng không thèm nói với Bườn câu nào. Những người quen sống với rừng họ thường nghe và nhìn nhiều hơn nói.
Về đến khu nhà Ban Quản lí, anh ta chỉ cái chuồng thú nơi góc vườn và ra hiệu cho Bườn đến đó. Vừa bước đến nơi, Bườn bỗng kêu to:
– Trời ơi! Cucu! Mầy làm sao thế nầy?
Bườn a tới định bế Cucu lên, nhưng anh bảo lâm đứng ngay bên cạnh kịp ngăn lại:
– Không bế lên được đâu. Nó bị khỉ đàn đánh hội đồng, vết thương ở đầu rất nặng và gãy cột sống nữa. Toàn thân mềm oặt, nằm lịm như thế kia đã mấy ngày nay. Bên thú y bỏ thuốc chạy rồi. Không biết hơi sức lấy ở đâu ra mà nó cứ thoi thóp như thế đến mãi tận hôm nay!
Bườn xoa tay lên cái đầu đinh ấy và khe khẽ gọi:
– Cucu! Cucu!
Hình như hai mí mắt Cucu máy nhẹ một cái, rồi toàn thân nó lạnh dần.
Giọng anh bảo lâm lại đều đều kể lể:
– Con Cucu nầy ngộ lắm. Hôm mấy anh truyền hình lên đây nhìn thấy nó mặc áo, để đầu trụi trông như hiệp sĩ; khi giương máy quay lên ghi hình nó ngồi tréo chân, ngẹo đầu điệu đà như đóng phim ấy, trông dễ thương quá chừng, ai cũng khoái.
Tự dưng anh chàng bảo lâm nói hơi nhiều. Hai mắt Bườn cay xè, môi mặn chát.
Khi nghe Bườn thắc mắc vì sao Cucu không nhập đàn được, anh bảo lâm khẳng định:
– Tại vì đội lốt. Con khỉ nầy đã bị “người hoá” rồi! – Và anh ta giải thích thêm – Hôm ấy đi tuần rừng tôi không thấy đàn khỉ ở khu rừng bên suối như mọi khi; đi tìm thì trông thấy một con khỉ đầu trùi trụi mặc quần áo hẳn hoi ngồi bên suối, thoạt nhìn trông từa tựa Lão Tôn giáng trần. Chắc là vì thấy “Lão Tôn” nên đàn khỉ kia chạy trốn vào sâu bên trong. Đến khi Cucu xé bỏ quần áo, hiện nguyên hình một con khỉ mồ côi bị tha hoá giống loài, không thể dung nạp bầy đàn được nữa; thì lập tức bị bọn khỉ kia tấn công ngay. Khỉ đàn mà tấn công tranh giành lãnh địa thì khủng khiếp lắm. Nếu hôm ấy tôi không đến kịp thì Cucu bị chúng xé xác mất rồi.
Bườn ngồi bất động, hai mắt rưng.
Theo nguyện vọng của Bườn, các anh bảo lâm đồng ý để anh chôn Cucu nơi góc vườn khu nhà Ban Quản lí và hứa sẽ xin phép cho xây tại đó một ngôi mộ xinh xinh. Không biết chừng qua dăm ba thập niên nữa, ngôi mộ ấy được người đời sau khai quật lên. Chao ôi! Lúc ấy Cucu sẽ thành Người Thiên Cổ của ngàn năm nơi cõi thâm sơn Núi Chúa – Bà Nà!

Đà Nẵng, tháng 9 năm 2006

Bùi Tự Lực

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây