Tác giả Phan Tứ

Tác giả Phan Tứ - vansudia.net

PHAN TỨ
(1930 – 1995)

Tên thật: Lê Khâm
Sinh ngày 20 tháng Mười hai 1930 tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
Quê quán: xã Quế Phong, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
Mất năm 1995, tại thành phố Đà Nẵng.
Nhập ngũ ngày 15/5/1950 tại Hà Tĩnh. Là tình nguyện quân, chiến đấu tại chiến trường Nam Lào. Tháng 11/1954, tập kết ra Bắc. Tháng 8/1958 đến 1961, học khoa Ngữ văn – Đại học Tổng hợp Hà Nội. Tháng 5/1961, đi B, cán bộ văn nghệ thuộc Ban Tuyên huấn Khu ủy Khu 5. Tháng 6/1966: ra Bắc điều trị thương tật, công tác đối ngoại, theo dõi văn nghệ miền Nam, quyền Tổng Biên tập Nhà xuất bản Giải phóng. Tháng 12/1974, đi B lần thứ 2, cán bộ sáng tác của Tiểu ban Văn nghệ – Ban Tuyên huấn Khu 5, tham gia chiến dịch Tổng tiến công 1975. Từ 5/1975 đến 12/1975: phụ trách chuyên môn Trại sáng tác Văn học Quân khu 5, Ủy viên Đảng đoàn Văn nghệ Khu 5. Từ 1978 đến 1998, Ủy viên Ban Chấp hành, Ủy viên Ban Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Chủ tịch Hội Văn học – Nghệ thuật tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng (từ năm 1978 đến 1988), Đại biểu Quốc hội khóa VIII. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957).
Tác phẩm chính:
Bên kia biên giới (tiểu thuyết); Trước giờ nổ súng (tiểu thuyết); Trên đất Lào (bút ký); Trở về Hà Nội (truyện ngắn); Về làng (tập truyện ngắn); Gia đình má Bảy (tiểu thuyết); Trong đám mía (truyện ngắn); Măng mọc trong lửa (bút ký); Mẫn và tôi (tiểu thuyết); Trại ST 18 (tiểu thuyết); Trong mưa núi (hồi ký); Người cùng quê (bộ tiểu thuyết); Sông Hằng mẹ tôi (dịch – tiểu thuyết Ấn Độ)…
Giải thưởng:
Giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu; Giải thưởng Văn học loại A 30 năm (1945-1975) của UBND tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng; Giải thưởng Văn học loại A 10 năm (1985-1995) của UBND tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng; Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật đợt Hai năm 2000.

MỘT CƠ QUAN Ở VÙNG CAO

(Trích Hồi ký Trong mưa núi)

Trên “đường dây dọc”, tức là đường giao liên nối liền Bắc Nam, trạm Đỗ Xá là nơi rẽ ngang về phía đông để vào các cơ quan thuộc Liên khu ủy 5. Cái tên này sẽ nổi tiếng thế giới vì Mỹ – Diệm đưa rất nhiều tin tức về “các cuộc hành quân tiêu diệt mật khu Đỗ Xá của Việt cộng”.
Tôi đến Đỗ Xá đúng ngày 02 tháng 9 năm 1961. Dọc đường hôm ấy chúng tôi treo máy thu thanh trên cổ, vừa đi vừa cố nghe tường thuật tại chỗ cuộc diễu hành ở Quảng trường Ba Đình, tiếng được tiếng mất. Hôm sau, tôi bám đồng chí “trực ngang” về trạm giao liên của Liên khu bộ, chắc mẩm sắp tới giờ định cư rồi. Nào ngờ tôi còn phải căng lều ngoài rừng, nằm đợi ở trạm này 6 ngày liền để đợi cấp trên quyết định đưa vào cơ quan nào. Trời nắng, tôi đi cắt tranh, vác tre, làm nhà giúp trạm, trời mưa thì ngồi co ro ghi chép duới tấm tăng nhựa. Đến ngày 9 tháng 9 năm 1961 tôi mới được theo trực về K.40, tức là Ban Tuyên huấn Liên khu 5. Chỉ vài tiếng là đến cơ quan. Tôi gặp ngay những khuôn mặt niềm nở, hít thở không khí nhẹ lâng lâng của “nhà ta”, và sa luôn vào một chầu bánh xèo không hề chờ đợi!
Người đầu tiên gọi tên thật của tôi là một anh lớn tuổi. Anh hỏi bằng giọng Quảng Nam nguyên chất: “Ông là thằng Khâm chớ hả?”. Tôi trả lời lúng túng vì không biết đang tiếp chuyện ai. Lát sau, một đồng chí cho hay đó là anh Xốp, phụ trách Tuyên huấn miền núi. Về sau tôi tình cờ trông thấy bìa cuốn sổ của anh đề tên A Xơơp, và một đồng chí khác nữa bảo đó là anh Quách Xân, quê ở Quảng Nam.
Đến khi cô “chị nuôi” chưa đáng tuổi làm chị đánh ba tiếng mõ báo bữa trưa đã dọn trên tấm cót trải giữa sân, tôi chợt nghe ai hỏi sau lưng: “Khâm hả?”. Tôi quay lại bật kêu: “Ái ở đây à?”. Anh em chung quanh cười ồ: “Lộ bí mật hết rồi!”. Ấy là Võ Thế Ái, người bạn cùng tuổi và cùng gốc ở Quảng Nam, quen nhau ở Quy Nhơn hồi Pháp thuộc. Khi gặp tại Hà Nội khoảng cuối năm 1959, tôi chỉ nghe Ái bảo đang làm việc ở Thông tấn xã, sắp đi công tác dài hạn trên miền núi. Không ngờ cậu ta vào đây. Ái dặn nhỏ: “Bây giờ mình là Huy, Nguyễn Huy, nhớ nghe!”.
Cũng như Ái, tôi đã nói dối các bạn là trở về quân tình nguyện ở Lào. Các đồng chí lãnh đạo lớp học tại Gia Lâm nói cắn cưa: “Ở cơ quan, chỉ được phép báo cáo việc đi miền Nam với một mình Bí thư Đảng ủy. Trong gia đình chỉ được phép nói thật với một trong ba người là cha, mẹ, vợ, chọn người nào vững vàng nhất. Cấm nói với họ hàng, bạn bè. Ai lộ bí mật thì ở lại, vậy thôi!”. Cứ thế từng người lặng lẽ biến mất khỏi biên chế cơ quan và sổ hộ khẩu miền Bắc. Chưa có một chế độ chính sách nào đối với người có cha mẹ già hoặc con nhỏ. Tôi có người yêu ở miền Bắc nhưng đi rất gọn vì không bị gì níu quấn, kiểu ấy về sau quen gọi là “đi B trọc”. Còn Ái để lại người vợ trẻ và đứa con trai nhỏ xíu, chắc vất vả hơn nhiều.
Tôi cố nhớ các khuôn mặt và tên người để chóng hòa mình vào gia đình mới. Chắc hẳn những mặt người chung quanh tôi đã thay đổi nhiều sau những tháng leo núi và những năm đói rét. Anh em thường lấy tên con, tên người mình yêu, tên “móc nôi” chỉ có cha mẹ biết, làm bí danh gọi nhau hàng ngày. Ai muốn kể tâm sự tùy ý, nhưng nên tránh tò mò hỏi kỹ nhau về lý lịch thật. Mỹ – Diệm đang kêu om sòm “miền Bắc xâm lược miền Nam”, cũng rất sẵn sàng khủng bố nhà nào có con em tập kết trở về đánh lại chúng.
Tiếng gọi “gia đình tôi” thay cho cơ quan, đơn vị, không phải là lối nói tình cảm mà là quy định chung. Tôi được phép gửi thư ra miền Bắc cho một đầu mối duy nhất và thư trả lời sẽ đề: “Gửi anh Quyền 100. Nhờ chuyển anh Phan Bốn ở gia đình anh Phương”. Các anh Quyền và Phuơng đều có thật cả, nếu chuyển đi nơi khác các anh sẽ lấy bí danh mới, biếu lại cơ quan cái tên cũ dùng làm địa chỉ. Do đó, trong “nhà Bác Ân” tức là Liên khu bộ 5, Ban Tuyên huấn được ghi trên thư riêng là “gia đình anh Phương”, trên các công văn viết là K.40, còn anh em giao liên lại gọi là “xóm thằng Đạm” theo tên cháu Đạm – liên lạc của Ban. Tha hồ cho địch dùng máy tính điện tử để mở các khóa mật mã rất lắt léo ấy!

*

Từ trạm giao liên đến K.40, đường đi men ngược dòng con sông hẹp đầy đá tảng, có tên mật là sông Thu, anh em cho biết là khúc thượng nguồn sông Tranh. Đây thuộc vùng cao huyện Trà My, mé Tây – Nam tỉnh Quảng Nam. Đến quãng rừng rậm, con đường tách khỏi sông, rẽ theo một dòng suối nhỏ và kín đi ngược lên mãi. Càng xa sông càng đỡ bị máy bay dòm ngó. Lên đến một chỗ dòng suối vòng chữ U, ôm khoảnh đất phẳng áng chừng bằng cái sân bóng chuyền kẹp giữa các sườn núi, có nhiều cây cao che kín bên trên: Chỗ ở của Ban Tuyên huấn.
Đầu tiên ta đi qua chuồng heo, chuồng gà, bao giờ cũng đặt ở hạ lưu các khúc suối có người ở. Tiếp tới chỗ bếp. Nhà bếp lợp bằng lá mây róc hết gai, ba phía vách được che bằng nứa chẻ chống gió lùa. Đây có cót thóc, hai bồ đựng bắp khô, cối giã bằng chày tay, cả cối xay nữa kê đàng hoàng ở đầu chái bếp, tỏ ra cơ quan này quyết ăn ở lâu dài. Nước ăn được dẫn về theo một máng tre dài kê trên nhiều giá đỡ, lấy thẳng nước mạch trên sườn núi, tránh nước suối to dành để tắm giặt. Những ngày mới trở lại Trường Sơn, tôi hứng nước ở máng xong cứ vô tình đưa tay lên khóa vòi nước, chạm vào ống tre mới nhớ ra là “nước tự do”. Nhà bếp là giang sơn riêng của cô Hương, quê Quảng Ngãi, là “em nuôi” đúng hơn “chị nuôi” vì còn trẻ, chưa chồng.
Bước tới khoảnh sân hẹp đã dọn sạch gai góc dưới những tán cây cao, nhìn lên bên phải, ta thấy một căn nhà trên sườn dốc. Ấy là trụ sở Phân xã Trung Trung bộ của Thông tấn xã Giải Phóng. Tên thật dài nhưng nhà nhỏ. Cậu Ái cùng hai, ba đồng chí nữa làm việc ở đấy, giờ ăn và ngủ xếp chen vào các giờ nghe đài, nhận tin, soạn mỗi tuần hai bản tin đánh đi.
Hết mảng sân, leo qua một thân cây bắc ngang suối làm cầu, ta bước lên căn nhà to nhất. Ấy là “nhà chuyên môn”, nơi ở và làm việc của anh Phương, anh A Xơơp và một số ít cán bộ đang có việc chuyên môn để làm. Từ đầu đến cuối nhà có sạp nằm bằng tre khá dài như lán bộ đội hay dân công. Các giá để ba lô buộc ba bên vách thường bỏ trống vì lắm chuột, ba lô và các thứ túi, bao, gói được treo lủng lẳng dưới mái nhà. Có hai bàn viết, mặt ghép bằng nứa, đang đóng một bàn thứ ba bằng tre có thể đổi chỗ được, chưa xong. Mấy cây tiểu liên Tuyn và các bin Mỹ treo trên cột. Trên bàn anh Phương đặt hai máy thu thanh bán dẫn, ít mở vì thiếu pin. Con búp bê đặt trên bàn anh A Xơơp gieo một mảng màu tươi trong chỗ tranh tối tranh sáng. Ở rìa mái ám khói có nhiều hình chữ nhật trắng gợi nhớ bầy cò đậu trên bụi tre: những nắp hăng gô cài lên đấy giữa hai bữa cơm.
Cơ quan đang làm thêm căn nhà thứ tư ở rìa sân, đặt tên là “nhà lúa”. Anh em vác tre, đánh tranh làm nhà cùng lúc với sắm sửa mọi thứ cần cho mùa suốt( ) lúa rẫy đang tới gần: đan cót và nong nia, đan những cái gùi miệng loe để đeo trước bụng đi suốt lúa, gọi là teo. Năm nay cơ quan còn được cấp một số gạo và bắp khô do nhân dân đóng góp, năm sau coi bộ phải sống hoàn toàn bằng hai bàn tay tự làm ra. Đội ngũ ta đang đông lên rất nhanh. Sản xuất lơ mơ là đói to.
Tôi chỉ nghỉ một buổi chiều để tắm giặt, với ý nghĩ thích thú là tối nay không phải mò mẫm căng lều và nấu ăn dưới mưa, sáng mai không phải cõng mớ áo quần ướt trên ba lô mà đi suốt ngày. Đã có đất để bén rễ rồi! Tối hôm ấy anh em đốt một đống lửa giữa nhà chuyên môn, râm ran tán chuyện Hà Nội, chuyện chiến thắng, mới nhất là diệt tiểu khu Đắk Hà và tiểu đoàn quân viện từ Kon Tum đến. Khi đồng chí Bá – Phó Bí thư Chi bộ lấy người cõng lúa ngày mai, tôi xung phong ngay. Anh em khuyên nên nghỉ năm bảy hôm đã, đợi anh Phương – Phó ban về xem sắp xếp việc chuyên môn ra sao. Tôi nghĩ thầm: đối với người sáng tác, leo núi Trường Sơn hay cõng lúa Trà My đều là “việc chuyên môn” cả. Nghĩ thế nhưng không nói ra, vì tôi được chọn vào miền Nam để làm giáo viên chứ đâu phải để viết văn.
Tôi buộc võng dưới mái nhà, ngủ như hòn đá sau ngày gặp gỡ đầu tiên giàu xúc động. Sáng hôm sau dậy mới biết mình vô ý, không chuẩn bị sẵn đồ cõng lúa, phải dùng tạm một gùi to có quai vỏ cây rất cứng và nhám, lâu nay chỉ để chứa bắp khô. Chỉ 4 ang lúa cõng đi một buổi mà trầy vai đỏ hỏn, bị tụt lại sau, lạc đường mất thêm một tiếng nữa.
Về muộn, ăn phần bắp luộc bữa trưa một mình, tôi lại hớ hênh lần nữa khi hỏi chị nuôi xin tí muối. Cô Hương lặng lẽ đưa. Chiều ấy tôi mới biết muối còn quá ít, bữa trưa phải ăn lạt, sáng và tối chỉ nêm một tí vào nồi canh không đủ mặn. Tôi trút mấy lạng muối tinh còn lại trong ba lô, giao nhà bếp cả. Anh em nhấm mỗi người một dúm chất mặn miền Bắc, mắt cứ sáng lên.

*

Không kể trường Đảng đóng riêng bên kia sông, lúc này cơ quan Ban Tuyên huấn gồm tất cả 21 người, phần lớn bị “thất nghiệp chuyên môn”. Thường xuyên hành nghề chỉ có anh Phương, anh A Xơơp và nhóm Thông tấn xã Giải phóng. Ban đêm chỉ thắp hai hoặc ba ngọn đèn nhỏ xíu dành cho các đồng chí ấy làm việc vài tiếng, dầu lửa quá ít.
Tôi mau chóng làm quen với anh em trong những buổi cõng lúa, lợp nhà, đan nong. Vừa làm, vừa tán, quên mệt và dễ cởi mở. Rộng thì giờ nhất là các buổi tối không đèn. Nhà lúa lợp xong, tôi định cư luôn tại đấy, khá rét vì chưa có phên che, nhưng tha hồ chuyện gẫu mà không làm phiền các “chuyên gia”. Chúng tôi đốt lửa, buộc võng chung quanh, hong khô áo quần lao động, thỉnh thoảng lại chép miệng thèm một củ sắn để nướng và nhấm nháp với chè rừng hay ngấy hương. Sắn và khoai còn non, lệnh trên cấm ăn phí phạm.
Nhóm chiếu phim của Hiền, Kỷ, Tùng đang chờ tất cả: máy nổ, máy chiếu, phim. Nhóm nhà in của Sơn, Nam thiếu giấy và con chữ, mua được máy rônêô ở đồng bằng lên lại chưa xoay ra mực. Cậu Vân cán bộ giáo dục tự gọi đùa là “thầy giáo mất dạy”. Nay thêm tôi và cậu Phượng dạy toán nữa cũng sẽ “mất dạy” nốt, học trò bận đánh Mỹ và làm rẫy cả. Đang đi vắng, còn Hiền Minh biên đạo múa và cậu Len chơi viôlông, đều đang chờ có đàn và có diễn viên múa.
Anh chị em từ đồng bằng lên thường là cơ sở cách mạng bị lộ. Thư và Việt hai giáo viên trẻ, đang học nghề thông tấn xã. Anh Thạch lớn tuổi yên tâm làm “chuyên gia rẫy”, cô Hương lo chỉ huy khói lửa, cháu Đạm làm liên lạc cơ quan. Trang bị của họ là những thứ tự sắm mang theo và được phát trên núi, khác với anh em miền Bắc vào: Tấm dồ( ) của đồng bào Thượng để đắp, võng gai hoặc vải bố, bà ba bằng lụa Mỹ Á đen giống sa tanh, bọc đeo lưng bằng bao bột mì viện trợ Mỹ nhuộm xám bằng ruột pin.
Trong những câu chuyện ly kỳ hay quấy tếu thường chen nhiều thắc mắc giống nhau về tình trạng thất nghiệp chuyên môn. Hoàn toàn không ai phàn nàn về các cấp lãnh đạo ở chiến trường, các đồng chí ấy vất vả ra sao anh em đều biết rõ. Chỉ bực dọc với một số cán bộ phụ trách ngoài Bắc đã tuyên bố dứt khoát: “Trong ấy mọi thứ sẵn sàng cả rồi, các đồng chí chỉ vào là lập tức bắt tay vào phục vụ theo ngành nghề…”. Tôi cũng được nghe những câu na ná như thế trước khi đi. Vì sao họ nói vậy? Vì xa cách không rõ tình hình, vì tưởng đã ký phiếu xuất kho thì ắt là miền Nam nhận đủ, hay vì quen động viên theo kiểu “tán cho thật bốc”? Một bài học cho người viết văn: phải hiểu sâu thực tế và nói đúng thực tế, nếu muốn tác phẩm của mình thoát kiếp phù du…
Tuy vậy, tất cả chúng tôi đều hưởng niềm vui lớn đã bao năm khao khát, là được trực tiếp phục vụ tại miền Nam, làm “một việc gì đó” để góp sức giải phóng quê hương, thoát khỏi nỗi đau khắc khoải “ngày Bắc đêm Nam”. Anh em “bể cơ sở”, thường được gọi chung là “anh em trung châu”, lên đây rất khoái không khí tự do vẫy vùng. Vì thế, tất cả cơ quan từ tóc đen đến tóc trắng đều vui đùa ồn ào như nhau, đều lao động quần quật từ mờ sáng đến tối mịt.
Trong mùa mưa dầm này, muối và thuốc men bị tắc nghẽn trên các đường dây từ đồng bằng lên và từ miền Bắc vào, thức ăn rất thiếu, anh em xuống sức nhiều, chỉ cần một lần cõng nặng quá sức hay lội suối lũ bị lạnh là ký sinh trùng sốt rét nổi dậy quật nhào luôn. Lên cơn thật sự mới chịu nằm, ngớt cơn lại dậy, lò dò kiếm việc gì đấy “làm cho mau khỏe, làm để lướt cơn”. Tôi cũng lao theo cái đà luôn chân luôn tay ấy, lại cố giữ thật đúng chế độ phòng sốt rét của lính chủ lực: nằm màn, uống thuốc phòng, mặc áo quần dài, hun khói xua muỗi. Tôi ghi sổ tay một quyết tâm lớn: “ít nhất một năm không sốt rét!”. Tiếc thay, chỉ một tháng sau tôi đã phải trả nợ chiến trường!

*

12/9/1961
Nghỉ buổi sáng, mệt mỏi toàn thân. Chiều sẽ đi nạo cỏ rẫy sắn cách nhà 20 phút. Phuợng đi cắt tranh về tối. Cậu có vẻ buồn khi thấy nhiều người “thất nghiệp”, lo sẽ không có việc chuyên môn cho trình độ đại học tổng hợp toán. Một đồng chí an ủi: ở miền Nam thế là thường. Ngay cả ở cấp cơ sở cũng vậy, lắm người đợi 6 tháng chưa được phân công.
Mọi người đều có nước da xanh lướt, đi ra chỗ nắng thì mệt nhanh. Ở đây mặt trời hiếm hoi, khi tạnh mưa ánh nắng cũng không xuyên được tới mặt đất tuy những bụi cây dưới rừng đã phát sạch, chỉ để lại cây cao làm rèm che mắt máy bay.
Hai máy bay quần đảo lâu trên các đỉnh núi. Chúng tôi theo dõi qua vòm lá. Trời mù vẫn cấm đốt khói, đúng. Sương mù trên núi xôm xốp, màu trắng như bông, buổi sáng đọng từng mảng lớn lâu tan, sau trận mưa thì bốc lên như núi nhả khói thuốc, khác với khói củi dày đặc hơn và bốc thành dải có ánh xanh lam. Bom nổ rền rền. Một cuộc chiến tranh tổng lực tàn bạo chống nhân dân. Bọn phi công đang cắt bom đằng kia, xối đạn xuống các làng, chúng đang nghĩ gì? Tôi có thể hình dung một tên Pháp, khó tưởng tượng được một người Việt đang lái chiếc khu trục Mỹ ấy.
Hôm qua đọc Báo Cờ Giải phóng của Quảng Ngãi. Bọn ác ôn thích thú ăn thịt người, uống rượu pha máu người, chỉ bỏ lại đầu, bàn tay, bàn chân. Động cơ gì thúc đẩy chúng làm như vậy?
Các đồng chí nói về tâm lý một số thanh niên miền Nam:
– Huy: Mình có đứa em trai sắp đến tuổi quân dịch; nếu nó ở miền Bắc có thể thành một phi công tốt của ta.
– Sơn: Đôi đứa không hiểu gì cả, nói yêu Cách mạng mà ghét bọn Việt cộng giết người, cướp của. Có cậu thoát ly lên căn cứ, vừa cứa con vắt vừa nói: “Giết Việt cộng! Giết Việt cộng!”. Nghe một cán bộ lãnh đạo nói chuyện, họ nói với nhau: “Ở dưới kia, bắt được ông này lãnh thưởng hai chục ngàn đây!”.
– Việt: Thằng Toản ở xã Nguyễn Chỉ (Tam Kỳ, Quảng Nam), khi ta tập kết còn là thanh niên tốt, nhận rải truyền đơn, đào hầm nuôi cán bộ. Bị bắt học tố cộng mấy đợt nó mất tinh thần. Sau ăn tiền của địch thành chỉ điểm, rồi lên cảnh sát phó ác ôn.
(Khiếp sợ và tham lam, đòn tra tấn và túi tiền dễ làm hư tuổi trẻ ít hiểu biết).
(…) Tin chiến thắng Kon Tum (Đắk Hà):
Quận trưởng quận Tumơrông thoát khỏi đồn. Gặp số anh em ta mặc đồ lính Bảo an, nó ra đường gọi mày tao, ta thộp cổ. Nó ranh, nói còn người trong rừng nữa để nó vào gọi, ta kèm nó đi tìm không có. Khai là bếp. Sau biết là Nguyễn Hồng Anh, trung úy, 44 tuổi, quê ở Yên Thành (Nghệ An), trước làm thầy dòng 4 năm, đến 1950 nhảy về thành phố làm đại đội trưởng Bảo chính đoàn, có ba mềđay. Lương 11.500 đồng, ăn hối lộ nhiều, khủng bố ác, ban đầu nhân dân nghe nói không bắt được quận trưởng đều lo lắng.
Lính rất nghèo khổ. Lều tranh, hai ba đứa ngủ chung một tấm liếp trải trên mặt đất bẩn, mỗi đứa một soong tròn nấu ăn riêng, bếp vô số. Ở Pô Cô có một trung đội Bảo an nghèo rách mướp. Lính thường kháo nhau: V.C sắm đồ cho cán bộ của họ sang hơn cụ Ngô, áo quần, đồng hồ, súng lục đều loại tốt cả, cố bắt mà lấy.
(…) Báo Diệm đăng một bài tường thuật dài: Ngày 20 tháng 7 năm 1961, dân quân khởi nghĩa ở Hà Nội, rải truyền đơn và treo biểu ngữ chống cộng suốt ba ngày rất rầm rộ. Các khẩu hiệu “căm thù đế quốc” đều được viết thêm hai chữ “Cộng sản” vào cuối (!!!).
13/9/1961
Lại cõng lúa. Đồng bào Thượng tản ra dọc các đường mòn: “Làng tui bị tàu bay ngó thấy rồi, coi như cháy rồi, các anh lấy hết lúa cách mạng gởi trong làng đi mau mau!”. Anh em nói đấy là làng Măng Mong, ủng hộ cách mạng rất tốt. Tất cả sức người đổ ra cõng lúa và làm chỗ chứa lúa. Đêm cũng còn việc: giã bắp, bửa sấy củi, giữ rẫy phòng heo rừng phá.
14/9/1961
Cõng lúa nữa. Đêm giã bắp, hai cánh tay mỏi nhũn vì mất thói quen. Anh Phương thủ trưởng cơ quan về, nhỏ nhắn, giản dị. Nghe tôi trình bày nguyện vọng sáng tác, anh đồng ý, ở đây đang thiếu người viết văn. Thật hạnh phúc nếu tôi có thể làm việc theo ngành nghề. Ái và Việt cũng thích sáng tác.
Tôi đề nghị ba bước làm việc:
– Một thời gian ngắn để nghiên cứu tình hình và nhiệm vụ.
– Một năm đi thực tế: đi các cơ sở miền núi trong ba tháng, theo các đơn vị chiến đấu vài tháng, đi các cơ sở đồng bằng nửa năm trở lên (là trọng tâm). Sẽ viết nhanh một số phóng sự, bút ký ngắn, trong khi chuẩn bị viết truyện.
– Sau đó, viết một truyện trong ba tháng.
Anh Phương hứa sẽ báo cáo để trên xét.
15/9/1961
Gửi thư ra Hà Nội. Viết như một người bạn trong Nam, hỏi thăm Khâm đang ở miền Bắc. Thư phải làm hai phong bì, bì ngoài chỉ đề gửi “Cậu Cả”, bì trong đề địa chỉ cụ thể.
Sau một cơn mưa ngắn đã tạnh, chợt nghe tiếng ầm ù ngoài xa như mưa lớn đổ xuống rừng, hay như một ô tô rồ máy leo dốc. Trong đêm, tiếng ầm ù đến gần: suối dâng lên rất nhanh, một làn nước đục cuộn xoáy.
Hai vụ mất cắp liên tiếp. Rẫy sắn bị nhổ mất 150 bụi còn non, mới 8 tháng. Có chỗ người ta còn moi đất lấy củ to, lấp lại cho mất dấu, để cây đứng nguyên. Bá gắt ầm, đề nghị bố trí người gác cả ban ngày. Rẫy sắn K40 lớn, gần 5000 bụi. Tranh cũng bị mất: tất cả số tranh đã cắt, phơi, bó xong bị lấy sạch. Ở đây tranh rất hiếm, phải cắt chật vật từng nắm.
Trái lại, trong làng Thượng đồng bào bị nạn đói, trẻ em nhìn chúng tôi ăn cơm với vẻ thèm thuồng buốt ruột nhưng lúa gửi dân làng giữ hoàn toàn không bị động chạm đến (gần một tấn).
16/9/1961
Sau khi 4 chiếc khu trục ném bom và bắn phá các làng gần cơ quan, đồng bào Măng Mong đang hoảng hốt. Đến 9 giờ 30 tối mới về làng. Nhiều đuốc. Những tiếng hú gọi người đi chậm. Heo gà kêu rầm rĩ khi bị bắt đem ra chòi rẫy. Một người nói: “Chắc chết rồi, nhà coi như cháy rồi”. Ba bốn người chạy xa, đến ba ngày sau vẫn chưa thấy về. Đây là lần đầu kể từ đời xưa họ nếm mùi bom đạn, và bom đạn lại dày đặc đến nỗi chết 18 con gà, mấy con heo. Chúng tôi đi cõng lúa càng gấp rút.

*

Đời sống rừng núi có những nghề riêng của nó. Phải ra sức học nghề mới làm được việc, và có được việc mới khỏi biến thành một nhân vật bỏ thương vương tội trong tập thể. Bị chê nhiều nhất là anh lười, thứ nhì là anh đoảng, dù về mặt khác anh tài giỏi đến mấy cũng cứ mất cảm tình. Hồi đánh Pháp tôi đã học phát rẫy, làm nhà, kiếm ăn trong rừng, bây giờ không đến nỗi bị liệt vào loại lười hay đoảng. Vậy mà qua 7 năm sống xa địch hậu, tôi mất thói quen khá nhiều.
Chưa đến mùa suốt lúa rẫy sẽ rất căng thẳng, chỉ mới lo việc ăn ở hàng ngày thôi, tôi đã thấy mình vụng dại hẳn đi so với năm xưa.
Tôi đi cắt tranh lợp kho thóc với cháu Đạm. Cháu mới 14 tuổi, con trai một cán bộ ở Tiên Phước (Quảng Nam) đã đưa cả gia đình lên căn cứ, 5 người chia ở 5 nơi. Cháu cao dong dỏng, má phính, nói dè dặt, thỉnh thoảng buông một câu nhận xét lõi đời giống như các em quen sống trong tập thể người lớn. Rất lanh lợi, đi núi nhanh hơn tôi. Tranh mọc thưa thớt từng mảng nhỏ, ban đầu chúng tôi cắt xa nhau, sau tôi đến nhìn cháu mới nhớ là phải dùng liềm chải tranh cho sạch. Khi bó tranh tôi siết chậm và vụng. Đạm phải giúp. Dần dà thân nhau, cháu kể nhiều kinh nghiệm ở rừng rất mới lạ đối với tôi. Cháu học lớp ba, nay ít tự học. Tôi khuyên nhủ cháu cố học hành, cảm thấy nhẹ người đôi chút sau phút ngượng ngùng vì thua kém một đứa trẻ. Dù lúa bắp có sẵn rồi, làm ra bữa ăn vẫn không dễ.
Ở Lào, nhân dân và bộ đội đều trút thẳng lúa vào cối giã bằng chày. Đây đóng được cối xay, nhẹ công hơn. Xay lúa ít mệt, đến lúc giã gạo mới gặp thử thách đáng kể. Sau một ngày gùi cõng cật lực, chúng tôi thức đêm giã gạo bằng chày tay trong cối gỗ, hai cánh tay mỏi liệt rất nhanh, hai bàn tay phồng dộp như bỏng lửa, hai chân xuống máu tê dại đi. Lại còn phải giã bắp hột khô cho bong lớp mày cứng bọc ngoài trước khi hầm nhừ, nhai vào bữa trưa không muối và ghế vào cơm sáng cơm chiều. Hai người xay giã cho 21 người đủ ăn, phải đến khuya mới xong và mệt chẳng vừa. Còn phải nấu mới ăn được, tất nhiên. Cô Hương một mình xoay xở, đêm nấu ăn, ngày phơi thóc, nuôi heo, kiếm rau các rẫy cũ, tất bật không ngớt. Một lần cô bị ốm, Việt với tôi nấu thay.
Năm giờ chiều trở đi, khi mặt trời khuất núi và thung lũng chúng tôi ở đã biến thành dòng sông sương khói trắng xóa, mới được phép nổi lửa. Soong nồi thiếu mà phải nấu cơm ghế bắp cho cả cơ quan, cơm không ghế cho người ăn kiêng, cháo cho người ốm, canh sắn tươi thái mỏng hoặc rau lang luộc, nước chè rừng hoặc ngấy hương, tất cả đều làm thật gấp để anh em kịp ăn một bữa nóng không đèn trước khi trời tối sẫm. Sau đó chúng tôi hầm hai nồi bắp to, nấu nhiều nồi nước trút ra thùng chứa, chẻ củi và xếp sấy khô trên giàn bếp, đến 9 giờ rưỡi mới tạm xong. Sáng hôm sau lo dậy lúc 3 giờ, nấu một bữa ăn nóng y như chiều hôm qua, cộng thêm nước uống đủ cho một ngày lao động và nồi rau cám cho heo nữa. Đúng 7 giờ sáng, dù chưa xong cũng phải tắt lửa và nhận những lời chế giễu của anh em!
Chúng tôi lần lượt nếm mùi lóng ngóng trong bếp, và nhẹ người hẳn khi cô Hương đỡ ốm, sáng sáng lại cất tiếng gọi bầy heo thả ăn rong như cũ: “óóók… ók, ók, ók…”. Cũng một tiếng gọi cho ăn ấy, tôi gọi chúng nó lại không đến, rầy rà thế!
Đêm khác, tôi đi giữ rẫy với cậu Bá.
Ban kinh tế nghiêm cấm ăn bắp non, nhưng cơ quan cho phép linh động đỡ đói, ai đến rẫy mà kiểm soát được.
Chúng tôi bẻ bắp nướng trên nền đất dưới chòi rẫy, rồi leo lên sạp cao nằm nhai. Bá vào năm ngoái, nghề đánh máy, kể dài dài bằng giọng Bình Định.
Dạo 1959-1960 cơ quan Ban Tuyên huấn chỉ có 4-5 người, hàng tháng được cấp mỗi người 400 đồng ngụy (một kilô gạo độ 5 đồng ngụy), ăn rất khá. Thuốc men cũng sẵn, viên pôlyvitamin phát từng nắm. Dần dần tụt xuống mỗi tháng 50 đồng với mỗi năm một bộ áo quần, bắt đầu làm rẫy tự túc. Đến nay hoàn toàn không phát tiền, gạo ăn còn được một lon rưỡi (lon gạt) với một lon bắp ghế. Sắp tới có lẽ các cơ quan đều tay làm hàm nhai thôi, chỉ còn bộ đội được cấp lương thực vì bận đánh giặc.
Muối một tháng hai lon, sắp xuống một lon rưỡi, chế độ là vậy nhưng muối đồng bằng không lên được, lũ lụt thế này chắc phải ăn lạt lâu. Đảng viên cần chuẩn bị để nộp đảng phí 6 tháng một lần bằng một con gà hoặc một ang lúa tự làm. Anh em đều đổi gà con ngoài làng về nuôi sẵn.
Chạy ăn khó hơn trước, nhưng việc ở dễ dàng hơn. Dạo trước ở ngay Liên khu bộ trên núi du di( ) cũng cấm nói to, gặp con cọp rình hay voi chặn đường không được nổ súng. Tề điệp và biệt kích sục gần cơ quan. Nay vùng giải phóng mở rộng, ta làm lán trại đàng hoàng hơn, máy bay tăng nhiều nhưng chưa đánh trúng lần nào. Mới đầu năm 1961 này, sau khi ta diệt và bức rút một loạt đồn vùng núi, anh em cao hứng làm luôn một trạm thủy điện tí hon, đủ thắp đèn nê ông ban đêm trông rất sướng mắt, nay phải tháo dỡ vì dễ lộ.
Nói chuyện một lát, chúng tôi lại đột ngột nổi lên hú, hét, đánh mõ, gõ thùng dồn dập đuổi heo rừng. Rẫy sắn lâu năm bị heo ăn còn đỡ hại, củ to chúng ăn mau đầy bụng. Rẫy non chúng ăn lâu no, cứ ủi phá lung tung như cho bõ ghét.
Tính trung bình theo tổng số giờ công trong cơ quan, khoảng 2/3 đến 3/4 thời gian lao động của chúng tôi được dành cho sự tồn tại. Có những tháng nhàn hơn, cũng có những thời vụ phải dồn trăm phần trăm sức người vào sản xuất.

*

Mưa, mưa mãi.
Hửng nắng một lúc, chúng tôi trải mấy tấm cót ra phơi thóc ở chỗ trống, ngồi canh chừng máy bay, lại hối hả xốc các góc cót cho thóc dồn vào giữa, phủ tấm nhựa lên, khiêng chạy vào nhà trong khi những giọt mưa nặng bắt đầu quất xuống lộp bộp. Thóc không khô, khi xay giã thì heo gà được nhờ, con người chỉ ăn tấm đỡ đói.
Chỉ cần nửa giờ sau, con suối xuyên ngang khu nhà vừa xuống thấp và trong xanh được một buổi lại ùng ục dâng cao, nước đặc lại, vàng ênh màu đất lở, cuốn những thứ không bao giờ hết rụng là cành gãy và lá tươi, lá khô. Mưa to thêm một giờ nữa, những thân cây đổ phóng như tên lửa theo con sông bùn mới thành hình thúc vào cây cầu chúng tôi bắc lại nhiều lần, rủ nó theo về biển Đông cho có bạn, để “nhà chuyên môn” biến thành hòn đảo. Đến bữa cơm, các “chuyên gia” lại phải đi vòng xa mới tìm được chỗ vượt sông về nhà bếp. Nhiều mũi lao dài nhọn hoắt từ các bẫy thò của đồng bào gài đâu trên cao bị nước xói lâu cũng tuột trôi xuống. Cho đến những cây rào cắm chung quanh các hố tránh máy bay của chúng tôi nhằm tránh bị sụp khi đi đêm, đều đổ nghiêng, đổ ngửa. Máng nước bằng tre ngã xiêu vẹo, mạch nước nhỏ xíu trên sườn núi hóa ra cái thác bùn, các lối đi quanh nhà thành dòng chảy xiết.
Người dồn cả vào các nhà, làm những việc ít cần ánh sáng. Heo gà cũng chạy theo người. Bầy gà tìm chỗ đất bột khô dưới sạp, cào bới, xù lông quẫy cho bụi xốc mù lên để tắm bụi. Lũ heo thả rông rất hôi thường chui ngủ gần người, đuổi không ra, bỏ cả than lửa vào chỗ chúng núp cũng chỉ xua được một lát. Cơ quan quyết định tẩm bổ cho heo theo kiểu rừng núi, sẽ làm rào và chuồng quây chúng lại, đặt nhà xí ngay trên chuồng heo, mỗi ngày chúng sẽ được thêm mươi cân chất đạm. Đành liều với bệnh giun sán vậy! Những buổi không đi làm ngoài được, chúng tôi họp chi bộ, tổ đảng, cơ quan, học chính trị và sinh hoạt văn hóa. Nhặt góp khắp nơi được những viên pin hết điện, chúng tôi đem nướng, luộc, thêm nước muối vào, đem lắp nghe đài, luồng điện phập phù nên nghe nói và hát đều hổn hển, nhưng vẫn được nghe đài là quý rồi. Tôi trình bày một buổi về truyện Kiều, mưa gõ mái nhà và suối réo rất ồn, đọc thơ Kiều mà quát to như gọi loa địch vận, nhưng anh em vẫn thích và bàn làm thêm một buổi nữa. Mỗi lần kiểm điểm lại một lần sốt ruột. Công việc dồn như núi mà số người ốm cứ tăng mãi. Anh Thạch “chủ tịch nông trường” làm quá sức, nằm liệt. Cậu Vân đi họp bàn về giáo dục, về trùm chăn ngồi run. Cậu Tùng rất to khỏe, vừa bổ rìu vào một thân cây bỗng nghe lạnh buốt dọc sống lưng “như hồn cây nó bắt”. Ăn lạt và sốt rét lâu, anh em đều bị da xanh, mắt vàng, leo một đoạn dốc ngắn đã thở hổn hển và run đầu gối. Xong buổi làm thấy đói cồn cào, nhưng phải gắng gượng mới ăn được một ít bắp hầm không muối và uống nước lá lạnh ngắt.
Chúng tôi cố xoay xở kiếm muối và thức ăn.
Từng cặp ra đi, vượt sông lụt suối lũ bằng tấm nhựa nhồi lá làm phao, năn nỉ vay muối các cơ quan bạn. Ban Binh vận đóng gần, cô Hương được cử đi “binh vận lính binh vận”, được đâu nửa lon muối. Từng người trút áo quần ra các làng tìm đổi heo, gà, chó, nhưng trong kỳ giáp hạt này đồng bào chỉ muốn đổi lấy gạo muối thôi.
Theo lệ “đi không về có”, ai đi công tác đâu cũng cố mang về một chút gì đấy: một đùi thịt chó, ít cá khô, vài nải chuối già nấu canh.
Vùng này đồng bào Thượng đặt nhiều bẫy thò( ) , hố chông, vừa chống địch càn vừa chống thú rừng. Mưa kéo dài, heo rừng và nai mang bị đói cứ xông liều vào rẫy, trúng bẫy chết thối ra đấy, người ngại mưa không đi thăm đều đặn cũng bỏ mất một con thú quý. Một đồng chí cơ quan bạn đi săn bị một mũi thò phóng ra, may chỉ trúng đùi. Tôi xung phong xách các bin đi kiếm thịt rừng, bị cấm. Đành phải soạn lưỡi câu và dây cước mang từ Hà Nội vào, kiên nhẫn trùm nhựa đi câu sông suối. Lúc chạng vạng thường câu được khá, cũng là lúc muỗi bầy đốt đến sưng người. Tôi lý sự với mình: muỗi mang ký sinh trùng sốt rét từ người này sang người khác, vậy nếu đi câu chỗ thật xa vắng thì chỉ bị hút máu chứ không lây sốt rét. Có hôm được tới nửa cân cá loại nhỏ, nấu canh và cháo cho người ốm.
Hai cậu Thư và Việt, dân vùng biển, không thèm câu cò con như tôi. Lâu nay họ xe sợi gai, vá xong cái lưới gai rách, nhuộm lại bằng thứ huyết heo để cho thối đúng 20 ngày. Đống lưới treo trong nhà lúa gần đầu võng tôi nằm, bốc mùi khủng khiếp.
– Ráng chịu thối mới có cá ăn. Nước rút là đánh được ngay!
– Bao giờ mới rút?
– Chắc phải hết mùa mưa…
Một đồng chí xem lịch, phát hiện ra tết Trung thu là ngày 24/9/1961. Phải kiếm gì làm quà cho cháu Đạm chứ! Cậu Nam đi đào khoai, chưa có củ. Tôi câu, gặp vận đen không được gì. Cơ quan họp quanh đống lửa, kỷ niệm ngày Nam bộ kháng chiến 23/9 và mừng cháu Đạm trước Trung thu một hôm. Anh Phương cho xài sang thắp đèn thêm một lát, các chú Nam, Hà, Bốn Gương kể chuyện thiếu nhi miền Bắc, biếu cháu một khăn tay mới, thế là vui vẻ cả.
Đài Tiếng nói Việt Nam báo tin bão khẩn cấp cho đồng bào phía nam vĩ tuyến 17, nhắc đi nhắc lại cuối mỗi bản tin. Mở đài Sài Gòn chỉ nghe cái giọng chua đanh của ả nào đó đọc tin “diệt trừ cộng phỉ” hết tỉnh này đến tỉnh khác, đáng lẽ chúng nó phải mị dân một tí cho dễ nghe chứ! Bão vào gần bờ biển, Hà Nội không còn theo dõi sát nút được nữa, chỉ hướng dẫn chống bão liên tiếp. Sáng 24/9, đúng Trung thu, bão đến vùng tây Trà My thật.
Trong mưa dữ dội bỗng nổi lên một thứ gió lạ, âm ấm như gió nóng từ bếp lùa ra, nhưng chúng tôi đi xem không thấy chỗ nào có lửa. Gió mỗi lúc một mạnh, ào qua từng luồng tách rời nhau như một chuỗi máy bay nối đuôi. Cây vật vã quằn quại, được dây leo níu chằng thành cụm nên khó trốc gốc. Chúng tôi chống cột nhà, neo dây rừng khá chắc, gió đổi chiều vẫn không bị sập nhà, tốc mái. Gió ấm từ đồng bằng lên dường như mang theo không khí nóng bỏng của quê nhà dưới kia, dù là gió bão vẫn gợi cho chúng tôi rất nhiều nhớ thương.
Ngớt bão tôi đi câu, được một xâu cá rất đáng kể, đặc biệt là lần đầu được cá to trong con suối nhỏ. Không hiểu sao giống cua cũng hiện ra nhiều, kẹp đứt luôn hai lưỡi câu tốt nhất. Tôi tự gọt được lưỡi câu, không ngại.
Xách cá về được nghe thông báo: cơn bão trong mùa lúa đang chín này không mạnh lắm nhưng làm lúa rụng nhiều, rất tai hại. Càng phải chuẩn bị gấp hơn để ngớt mưa là suốt lúa ngay. Chúng tôi đốt lửa, giao người mệt yếu soi đóm bằng tre nứa khô, đan tre và cót đến khuya.
Chung quanh đống lửa luôn luôn có người đổi chỗ: những gốc củi to vác về đều ẩm ướt, không bửa và sấy được, gió thổi tạt hết hướng này đến hướng khác, xua người chạy tránh né trong căn nhà không phên. Việc túi bụi đấy, nhưng câu chuyện vẫn xoay quanh cô Liễu nào đó rất thích bắt tay con trai, mỗi ngày gặp mười lần là chìa tay ra bắt đủ một chục, nắm chắc và kéo dài. Nhà lúa đầy gió lùa, khói mù, mùi lưới thối, heo gà phá quấy, vẫn cuốn hút anh em ở nhà chuyên môn và nhà thông tấn chạy xuống vừa làm, vừa tán phét. Cô Hương cũng rời giang sơn riêng một cõi là chốn hỏa dầu vụ (theo tên gọi chính thức của quân ngụy), sà tới góp chuyện và cười rung mái nhà, cho đến lúc Bí thư chi bộ Hiền nói tỉnh bơ: “Bây giờ đề nghị đồng chí Hương đi vắng mười lăm phút để hội nghị nghe một chuyện tiếu lâm cao cấp!”.

*

Trời hửng.
Chúng tôi mang vác mọi thứ lỉnh kỉnh, đi suốt lúa. Rẫy lúa là nơi dễ lộ nhất nên phải làm xa các cơ quan, cách chỗ chúng tôi ở độ 5 tiếng, bên kia sông Tranh. Chúng tôi sẽ ở lại đấy đến khi suốt lúa xong, phơi khô và cõng về kho nhà. Gần cơ quan chỉ phát rẫy nhỏ trồng sắn, bắp, khoai, rau, cũng đủ để cung cấp luôn củi khô cho nhà bếp.
Mỗi chúng tôi đeo một cái teo rộng miệng trước bụng, dùng ngón cái và ngón trỏ tuốt từng bông lúa cho hạt tóe vào teo. Anh em “lão nông trí rẫy” tuốt vèo vèo bằng hai tay mà không để sót bông nào, còn đồng bào Thượng tuốt bằng cả 8 kẽ ngón trên hai bàn tay! Lúa rẫy chín rất dễ rụng, không cắt bằng liềm hái được.
Bắt đầu suốt chỗ ven rừng trước cho lũ khỉ đỡ phá. Chúng nó tinh ma đến nỗi đàn bà con gái ra đuổi không thèm chạy, chỉ khẹc khẹc rung cành trêu tức, nhác thấy đàn ông kẹp súng đi đằng xa đã gọi nhau chạy như bão rừng. Sáng ra lúa ướt đẫm sương, rất nhiều vắt và bọ mắt công kích nhiều tầng, nắng lên mới giảm dần. Bông lúa sưởi nắng cũng khô giòn dễ suốt hơn. Bỏ lại những bông còn xanh, sau ít lâu sẽ đi mót.
Buổi đầu, tay tôi chưa đau mấy, nhưng da hai ngón cái và trỏ đã mỏng đi rõ rệt. Đỡ đau lưng hơn gặt lúa ruộng bằng liềm hái, nhưng sẽ đau tay đấy. Mỗi khi cái teo gần đầy, chúng tôi trút sang một gùi tre to, lát sau cõng về phơi. Cõng nặng đi xuống sườn dốc khá vất vả vì cây lúa mất bông vẫn đứng nguyên, che kín đá lồi lõm, gốc nhọn, dây gai bò trong cỏ. Tôi cố giữ không bị xóc gốc cây hay trượt đá trẹo chân, lại bị gai rạch ngang đùi nhiều lần, những cành cây cháy thành than quệt nhọ khắp người.
Bao ngày chờ nắng, hôm nay cái nắng tháng Tám âm lịch đốt cháy lưng và gáy. “Nắng tháng Tám nám trái bưởi”, đẫm hơi nước bốc lên oi nồng. Mồ hôi mặt bốc lên mờ kính cận, tôi phải lau luôn, mà gỡ kính bỏ túi thì dễ bỏ sót những bông lúa mọc thấp, nấp kín!
Máy bay qua nhiều. Chúng tôi ngồi thụp xuống, kéo vài bụi lúa che lưng, gặp chỗ lúa thưa quá phải chặt những cây lụp bụp rậm lá vác theo để che thân khi cần. Không có giờ nghỉ, núp máy bay là nghỉ đủ rồi. Khát nước thì mỗi lần cõng lúa về chòi rẫy lại uống. Ăn trưa xong chỉ ngồi một lát cho tiêu cơm, tàn điếu thuốc là ra rẫy luôn. “Thêm muời lăm phút để rút ngắn đau khổ của miền Nam!”. Chúng tôi nói câu ấy rất tự nhiên như bàn chuyện lúa khoai, không ai định động viên ai. Mười lăm phút ấy thường kéo dài ra nửa giờ, một giờ, vì buổi chiều dễ gặp mưa dông, phải nghỉ sớm.
Xế chiều, đang nắng chói chang bỗng thấy bầu trời mờ đục dần, một lớp khói tim tím từ dưới tỏa lên phủ các hòn núi xa khiến cho chúng nhích lại gần và sầm mặt tỏ vẻ hăm dọa. Sắp phải chạy rồi, liệu thu dọn là vừa. Một luồng gió mát rượi thổi ào tới, thế là chúng tôi sấp ngửa cõng gùi lúa tuôn về chòi rẫy để kịp khiêng những cót phơi thóc trên vạt đất san phẳng trước chòi. Mưa xối xuống rất nhanh. Chúng tôi dồn đống lại trong chòi hẹp, lau mồ hôi, nhân màn mưa mà nấu thêm nước uống.
Mỗi chiều mưa như thế, tôi bắt để dành một mớ cào cào châu chấu, trùm nhựa ra bờ sông thả cần đúng thời cơ nước bắt đầu đục, thường được một xâu cá tàm tạm đủ nói khoác với anh em. Thư, Việt, Dung B vác lưới đi suốt đêm, sáng về lại chẳng được con nào!
Tôi cố ý chọn chỗ suốt lúa bên cạnh “anh em trung châu”, cà rà hỏi chuyện dưới kia. Anh Thạch gầy đen và mắt kèm nhèm hay kể chậm rãi về sưu thuế, ruộng đất, tô tức mà anh hiểu khá sâu. Thư và Việt đã tham gia vụ kiện chia xã khá gay go nhằm tách riêng xã Kỳ Xuân ra khỏi cái ổ phản động ở xã Kỳ Hà bên cạnh. Dung B hay Dung nhỏ mới ngoài 20 tuổi, học sinh ở Bình Định hồi chống Pháp, đã cứu thoát hai cán bộ ta trước khi “nhảy núi”, thích cho ra những chuyện rất ly kỳ giật gân và cũng sẵn rất nhiều trò tếu.
Nghe trong khi làm việc, tôi chỉ ghi lại trong những giờ mưa to phải nghỉ việc. Buộc võng gần cái chòi quá chật và tối, tôi kê sổ tay trên đùi, viết dưới ánh sáng mờ đục xuyên qua tấm tăng nhựa màu xám nhạt. Từ trong chòi vẳng ra tiếng hát quấy của Dung: “Ta rờ mi, ta rờ mi xí, mi la mi ré mi la ta phá đồ mi, phá đồ mi…”. Việt quảng cáo cho bài Khúc nhạc ngày mùa mai mốt sẽ sáng tác, quẹt vào vành nón lá thay búng ghita, hát: “Xồm xồm xồm dê xồm. Xồm xồm xồm dê dê…”. Cậu phụ trách rẫy cũng tên là Việt – Việt B – sau một lần sai lời hứa nào đó, được tặng một câu ca dao: “Nói lời phải giữ lấy lời. Đừng như lão Việt nói rồi lại quên”. Cái chòi hẹp từng lúc muốn bay mái vì tiếng cười.
Qua ngày thứ hai, thứ ba, tôi đã phải bọc giẻ trên hai ngón tay suốt lúa. Giẻ trên ngón tay cái tuột đi ngay, đành chịu. Giẻ trên ngón trỏ rách nát sau vài giờ, đủ biết sức cọ xát của bông lúa chẳng phải vừa. Đứng lâu nhiều ngày, hai chân xuống máu gấp nhiều lần so với khi giã gạo, những vết xây xát và vắt cắn sưng tấy và làm mủ. Càng phơi nắng đổ mồ hôi càng thèm muối. Đang ngày mùa nhưng chúng tôi tự giác ăn đúng số gạo bắp như anh em ở lại cơ quan, thức ăn cũng không hơn gì, lùng kiếm mãi mới đổi được một miếng da heo rừng để nấu canh.
Chiều ngày thứ ba, chợt hai phát súng nổ dồn, tiếp tiếng rống của heo rừng bị thương vẳng tới. Kỷ cao và Nam cà lăm lập tức mang gùi và dao đi ngay. Dân Tuyên huấn có khác, các cậu trịnh trọng bắt tay chúc mừng và khen lấy khen để đồng chí lực lượng( ) vừa bắn heo, sốt sắng “giúp xẻ thịt”, trong khi người săn cao hứng kể mãi chiến công của mình. “Chúng tôi ở hai đơn vị khác nhau…”, thế là được thêm phần thịt biếu thứ hai.
Việt và Dung B vẫn cay cú với tấm lưới gai nhuộm huyết heo nặng mùi. Tôi xung phong đi đánh cá đêm với hai cậu.
Đêm tạnh không trăng trên bờ con sông nhỏ kẹp giữa những núi có đỉnh nhô răng cưa. Bóng núi in xuống nước hơi nhạt màu hơn núi thật. Nước đen lánh, khá lạnh, điểm những mảng bọt trôi trắng xốp. Sợi mây song kéo bè thõng xuống nhúng mặt nước, cản bọt dồn lại thành một vệt trắng dài đâm ngang sông như lưỡi gươm chọc vào chân núi bên kia. Chúng tôi nhặt củi đốt một đống lửa trên bãi, máy bay địch chưa mạo hiểm quần đêm trên vùng núi cao lởm chởm này. Tôi soi pin cho hai cậu lội xuống bủa lưới. Việt bơi đứng, đầu tóc biến nhanh vào nước đen, chỉ nghe tiếng khịt mũi, phun nhổ, thở phì phò. Dạo nước nhỏ thường đánh lưới ngang sông, hôm nay nước to phải bủa dọc bờ.
Bủa xong anh em lên bờ suối. Tôi hỏi thêm về nghề lưới. Khi xưa tôi chỉ chuyên câu cắm, móc hang, có tập vãi chài đôi chút nhưng còn vụng lắm.
Bỏ ra độ một ngàn đồng ngụy, gửi cơ sở vùng biển mua một tay lưới cước 40 sải thì luôn luôn có ăn, đánh cá ban ngày cũng được. Hoặc mua cước số 40-50 chừng 1.600 mét, thêm 50 mét cước to số 8 làm viền, đem về núi đan cũng dễ, đi đâu mang theo rất gọn nhẹ. Lưới gai như tấm của chúng tôi, nếu giao một người chắp gai, xe chỉ, đan liên tục cũng mất ít nhất 20 ngày, lại khó được cá gặp khúc sông cá quen lưới thì chịu phép.
Một tiếng sau, hai cậu ném đá ầm ầm, xuống nước đập chân tay túi bụi trước khi gỡ lưới. Chỉ được bốn năm con bằng ba ngón tay, xoàng quá.
Chúng tôi đi dọc bãi sông, tìm chỗ mới. Một đống lửa lập lòe đằng xa. Chúng tôi ghé lại, gặp nhóm đánh cá của K.15 đang kéo lưới. Lưới cước của họ ngon lành làm sao, chỉ một túm nhẹ màu trắng xanh, trong veo, thấy rõ cá mắc lấp lánh trong ánh lửa. Cũng như lúc chiều đi xẻ heo rừng, chúng tôi không tiếc lời ca ngợi và ra tay “giúp gỡ cá”. Con bị thít chết cứng, con đang quẫy, mới trông tưởng ít mà gỡ ra tới 23 con! Cậu Hạnh K.15 được dịp nói phét tới tới: “Thạo nghề mới có cá ăn chớ…”. Cậu bạn cùng nhóm khiêm tốn hơn, nói thật mẻ này trúng là nhờ một bầy rái dưới kia đuổi cá chạy thốc lên lưới. Hạnh biếu chúng tôi năm con kha khá. Họ đi rồi, Dung B mới chìa ra một con nữa nặng gần một cân mà cậu biển thủ rất tài trong khi gỡ giúp, chính tôi cũng không thấy. Tôi đốt lửa to, mổ cá, xóc dây dọc thân, cắm đứng chung quanh bếp than hồng, nướng luôn vì không có muối để ướp. Không có gì nấu cháo bồi dưỡng trong khi hai cậu lặn hụp đánh tiếp mẻ khác.
Hôm sau và hôm sau nữa, chúng tôi để lại bốn người mệt yếu để thay nhau phơi thóc, cõng mỗi người một gùi nặng kéo về K.40. Mùa màng tuy bị bão nhưng tạm được thêm nhiều sắn bắp vào thì năm sau không đến nỗi đói. Về đến nhà, chúng tôi bật cười: chi ủy tham công tiếc việc đã kiếm sẵn một đống dây khoai để héo vừa đúng độ trồng, báo tin từ sáng mai tất cả cơ quan sẽ đi cuốc đất trồng khoai, kẻo dây giống sắp hư!
Cơ quan vừa thêm một tổ quay phim 5 người nữa mới vào. Trần Đống là tổ trưởng, người Bắc chính hiệu và khá đẹp trai. Họ chỉ nghỉ mấy ngày rồi đi quay luôn. Chà chà, mang được máy và phim theo người thì hạnh phúc thế đấy! Quay xong một đợt, họ sẽ về làm rẫy trong khi phim được đưa ra tráng in tại Hà Nội.
Rồi thêm hai đồng chí văn nghệ đi công tác tỉnh Gia Lai vừa về. Hiền Minh, biên đạo múa, cho tôi xem tập thơ vài chục bài và mấy bản nhạc anh sáng tác thay cho múa. Cậu Len cao lớn, nhạc sĩ viôlông người dân tộc Bana, nay chơi cây đàn gông, tự tay làm bằng một ống tre, hai khúc vỏ bầu khô và mười một đoạn dây điện thoại. Nghe đâu các dụng cụ văn hóa văn nghệ trên đường dây được xếp thứ 7 trong thứ tự ưu tiên: Nhất vũ khí, nhì thuốc men, ba trang bị quân sự…
Càng đông càng vui, nhưng càng lo cái ăn thiếu hụt. Xong đợt khoai sẽ đến đợt khác và đợt khác nữa… Chúng tôi không trồng khoai theo kiểu thả bò lan như đồng bào Thượng, nhiều dây mà ít củ. Cuốc vun thành vồng hẳn hoi, sau đó chặt nhiều cành lá thả và cắm lộn xộn, ngụy trang những chỗ đất cuốc thành hàng lối. Chắc hẳn bọn lái máy bay trinh sát của địch không thạo nghề ruộng rẫy, chưa phân biệt được hai kiểu trồng khoai để tìm ra cơ quan của Việt cộng đóng giữa vùng rừng núi trập trùng này đâu. Nhưng nếu chúng chụp ảnh đem về nghiên cứu thì dễ sinh chuyện, chi bằng cẩn tắc vô áy náy!

P.T.

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây