Giới thiệu khái quát huyện Quảng Điền

huyện Quảng Điền - Tỉnh Thừa Thiên Huế

Giới thiệu khái quát huyện Quảng Điền

I. LỊCH SỬ HUYỆN QUẢNG ĐIỀN:

Quảng Điền là một huyện có lịch sử từ nhiều thế kỷ. Năm Mậu Ngọ nguyên niên (1558), Thái Tổ Gia Dụ Hoàng đế (tức chúa Nguyễn Hoàng) gây dựng cơ nghiệp ở miên Nam, gồm đất xứ Thuận Quảng dựng dinh ở Ái Tử, đổi huyện Đan Điền thành huyện Quảng Điền.

Năm Đinh Mão nguyên niên (1687) Anh Tôn Hiếu Nghĩa Hoàng đế (chúa Nguyễn Phúc Trăn) dời dinh đến Phú Xuân. Mùa hạ năm Tân Dậu (1801), Thể Tổ Cao Hoàng đế (Gia Long), trích đất 3 huyện Quảng Điền, Hương Trà, Phúc Vinh đặt là dinh Quảng Đức. Quảng Điền lúc này là cương vực dinh Quảng Đức.

Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), đổi dinh Quảng Đức thành Thừa Thiên phủ. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835) cắt bớt đất hai tổng huyện Quảng Điền cho huyện Phong Điền (3 huyện Phong Điền, Hương Thuỷ, Phú Lộc là đất được cắt ra từ 3 huyện Quảng Điền , Hương Trà, Phú Vang). Quảng Điền lúc này có 5 tổng, 58 xã, thôn, phường, ấp Trực thuộc Thừa Thiên phủ.  

Năm Tự Đức thứ 6 (1853) hiệp Quảng Trị và Thừa Thiên đặt thành đạo Quảng Trị. Năm Tự Đức 29 (1876) lại tách thành hai tỉnh. Quảng Điền lúc này là một huyện của tỉnh Thừa Thiên.

Dưới thời Pháp thuộc, với chính sách “chia để trị”, năm 1886 thực dân Pháp cải tổ bộ máy hành chính chia Việt Nam thành 3 kỳ. Quảng Điền là một huyện của tỉnh Thừa Thiên trực thuộc xứ Trung Kỳ.

Năm 1954, thực hiện chính sách “chia để trị”, bằng  Nghị định số: 214/HC, ngày 17 tháng 5 năm 1958, ngụy quyền Sài Gòn đã xáo trộn địa bàn hành chính với nhiều bậc trung gian. Tỉnh Thừa Thiên bị chia nhỏ thành 9 quận trực thuộc Trung nguyên – Trung phần. Trong Tinh thần đó, Quảng Điền bị cắt một số xã của quận Hương Điền, một số xã của quân cũng bị cắt nhập thành các xã mới.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đến ngày 01 tháng 5 năm 1976 Thừa Thiên Huế hợp nhất với Quảng Bình, Quảng Trị thành tỉnh Bình Trị Thiên. Thực hiện chủ trương đó, tháng 3 năm 1977 Quảng Điền hợp nhất, Hương Trà, Phong Điền thành huyện Hương Điền. Tháng 10 năm 1990 tách ra thành huyện Quảng Điền với Địa bàn hành chính như cũ. 

       II. Điều kiện tự nhiên huyện Quảng Điền

       1.1. Vị trí địa lý huyện Quảng Điền

Quảng Điền là một huyện phía Bắc tỉnh Thừa Thiên Huế, cách thành phố Huế 15 km về phía Bắc. Huyện Quảng Điền có trung tâm huyện là thị trấn Sịa.

– Phía Đông và Nam giáp huyện Hương Trà;

– Phía Tây và Tây – Bắc giáp huyện Phong Điền;

– Phía Bắc và Đông – Bắc giáp biển Đông.

Với giới hạn đó Quảng Điền nằm gọn trong khoảng 16o30’58”- 16o40’13” vĩ độ bắc và 107o21’38”- 107o34’ kinh độ đông.

Diện tích tự nhiên của huyện 16304,5 ha, hình thành 3 vùng: Vùng đất thịt ruộng lúa phì nhiêu của lưu vực sông Bồ, vùng đất cát khô cằn và vùng ven biển, đầm phá, nguồn thuỷ hải sản khá phong phú.

Bình quân đất tự nhiên theo đầu người năm 2017 là 1993,8 m2/ người.

       1.2. Chế độ khí hậu, thời tiết huyện Quảng Điền

     Thừa Thiên Huế nói chung và Quảng Điền nói riêng có một mùa mưa lệch pha so với hai miền Nam – Bắc. Mùa mưa ở đây trùng với mùa Đông – lạnh. Vì vậy, cỏ cây, hoa, lá, động vật ở Quảng Điền cũng nằm trong vùng đệm giữa thế giới sinh vật Ấn Hoa (Indo – chine).

     – Nằm gọn trong vùng nhiệt đới gió mùa, địa hình vừa có duyên hải, vừa có cao nguyên, khí hậu Thừa Thiên Huế nói chung và Quảng Điền nói riêng có hai mùa rõ rệt:

     + Mùa khô từ tháng 3 đến tháng 8, chịu ảnh hưởng gió Tây Nam nên không khí khô nóng, oi bức.

     + Mùa mưa từ tháng 9 năm trước đến tháng tháng 2 năm sau. Tháng 9, 10 thường kéo theo lũ lụt. Tháng 11 mưa dai dẳng.       

1.3. Đặc điểm thuỷ văn huyện Quảng Điền

Sông ngòi ở Thừa Thiên Huế phần trung lưu ngắn và dốc, phần hạ lưu hầu hết chảy qua đồng bằng ven phá Tam Giang. Dòng chảy các con sông chịu ảnh hưởng của mưa là chính.

Sông ngòi chảy qua huyện Quảng Điền có sông Bồ bắt nguồn từ dãy núi Sơn Hồ chảy qua bên Phú Ốc đến Phú Lễ chia ra một chi chảy quanh ra phía Bắc đến các làng Cổ Tháp, Sơn Tùng, chảy qua Nam Dương hiệp với sông Nam Phù chảy vòng lại phía Đông Bắc đến thôn An Xuân rồi đổ ra phá Tam Giang; sông Kim Đôi ở phía Đông Nam huyện là một nhánh của sông Hương. Từ địa giới làng Thanh Phước thuộc huyện Hương Trà chia ra một nhánh chảy về phía Bắc, đến sông Kim Đôi hiệp lưu với sông Thanh Hà chảy qua đông bắc đến chỗ Quán Cửa rồi trút vào phá Tam Giang.

Đây là hai con sông lớn nối liền với nhiều kênh, mương khá dày đặc, là nguồn nước, nguồn phù sa màu mỡ bồi đắp cho nhiều cánh đồng phì nhiêu của các xã Quảng Thọ, Quảng Phước, Quảng An, Quảng Thành, Quảng Vinh, Quảng Phú…

Nguồn nước ngầm ở Quảng Điền khá dồi dào, rất dễ khai thác và sử dụng có hiệu quả vào mục đích sản xuất, sinh hoạt.

Tóm lại, với vị trí địa lý, chế độ khí hậu – thời tiết và thuỷ văn nêu trên của huyện Quảng Điền, rất thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng.

III. GIAO THÔNG VÀ HỆ THỐNG SÔNG NGÒI:      

Là một huyện vùng trũng tỉnh Thừa Thiên Huế, nằm phía Bắc lưu vực sông Bồ và phía Tây phá Tam Giang nên giao thông rất tiện lợi. Về đường bộ có đường tỉnh lộ nối với quốc lộ 1A-Sịa-An Lỗ; Sịa Tây Ba-Bao Vinh-Huế, Sịa-Phong Lai liền với nhiều xã Phòng Điền, tuyến đường ven biển Hương Trà, Quảng Điền, Phong Điền đến Hải Lăng (Quảng Trị)-đường 68, hầu hết các xã đều có đường ôtô đi lại thuận tiện.

Về đường thuỷ, có sông Bồ bắt nguồn từ dẫy núi Sơn Hồ chảy qua bến Phú Ốc đến Phú Lễ chia ra một chi chảy quanh ra phía Bắc đến các làng Cổ Tháp, Sơn Tùng, chảy qua Nam Dương hiệp với sông Nam Phù chảy vòng lại phía Đông Bắc đến thôn An Xuân rồi đổ ra vùng phá Tam Giang.

Sông Kim Đôi ở phía Đông Nam huyện là một nhánh của sông Hương. Từ địa giới làng Thanh Phước thuộc huyện Hương Trà chia ra một nhánh chảy về phía Bắc, đến sông Kim Đôi hiệp lưu với sông Thanh Hà chảy ra đông bắc đến chỗ Quán Cửa rồi trút vào vùng biển Tam Giang. Đây là hai con sông lớn nối liền với nhiều kênh, hói, ngang dọc khác, là nguồn nước, nguồn phù sa màu mỡ bồi đắp cho nhiều cánh đồng phì nhiêu của các xã Quảng Thọ, Quảng Phước, Quảng An, Quảng Thành, Quảng Vinh, Quảng Phú….

Quảng Điền có nhiều đầm phá thông với biển cả. Vùng biển Tam Giang (phá Tam Giang) – xưa gọi là “biển can” (Hạc Hải). Năm Minh Mạng Thứ 2 (1821) đổi tên là phá Tam Giang. Từ bờ phía Nam đến bờ phía Bắc dài 35 dặm, từ bờ phía Đông đến bờ phía Tây rộng độ 6 dặm; từ sông Lương Điền chảy xuông vùng biển, phía Tây Nam có ngã 3 sông: Cửa Tả Giang, Cửa Trung Giang, Cửa Hữu Giang. Mỗi sông đều chảy 2-3 dặm rồi nhập tại cho nên gọi là vùng biển Tam Giang; rồi chảy qua Đông Nam 25 dặm rồi hiệp với sông Hương chảy ra cửa biển Thuận An.

Đầm Bát Vọng đầm Hạ Lạc nằm giữa địa phận 2 huyện Hương Trà và Quảng Điền. Đầm An Gia và An Xuân nằm ở phía Đông và Đông -Nam huyện.

Chính hệ thông đầm phá này đã đem lại cho Quảng Điền nhiều thế mạnh, nhân dân quanh đó ở xã Quảng Ngạn, Quảng Phước, Quảng An, Quảng Thành thường chở hàng xuôi ngược tấp nập xuốt đêm ngày trên đầm phá.

IV. KINH TẾ:

Vốn là một huyện từ xưa có nhiều ngành thủ công truyền thông, tuy có một số nghề ngày nay đã mai một (như trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa….) nhưng có một số nghề vẫn tồn tại và phát triển như đan lát ở Bao La, làng tơi nón ở Ô Sa, nuôi vịt đàn, ấp trứng ở Thủ Lễ, là bún ở Thanh Cần, mộc nề vùng Sịa, Tây Ba, trồng rau màu ở Thành Trung….Từ nền kinh tế đó, đã tạo nên nhiều chợ lớn, nhỏ và có nơi đã thành trung tâm mua bán, lưu thông có tiếng như Sịa, Tây Ba…. những vùng đất -vệ tinh-gắn bó với kinh đô Huế một thời.

Quảng Điền là một vùng đất thấp trũng, vựa lúa của tỉnh, chiếm diện tích hơn 8684ha. Đây là địa bàn quần tụ dân cư rất sớm. đời sống cư dân chủ yếu là kinh tế nông nghiệp như các xã Quảng Thọ, Quảng Phước, Quảng Phú, Quảng An, Quảng Thành….

Vùng cát nội địa, diện tích 4718ha; đại bộ phận đất chua phèn, úng ngập về mùa mưa, khô hạn về mùa nắng. Đời sống dân cư chủ yế là nông nghiệp, kết hợp một số cây công nghiệp như Quảng Lợi, Quảng Thái…

Vùng cát biển, đầm phá, diện tích 2292ha; đất trơ trụ, đại bộ phận là đất cát trắng, nghèo dinh dưỡng. Đời sống dân cư chủ yếu là ngư nghiệp. vùng này còn đang trỗi dậy việc triển khai kinh tế nuôi trồng hải sản (nuôi tôm, cua xuất khẩu…).

V. VĂN HOÁ:

Về đời sống văn hoá, Quảng Điền có nhiều lễ hội đặc sắc: Đua thuyền mùa xuân, viếng thăm, ca múa vào mùa hạ, lễ an táng người chết thường có múa hát trước quan tài là “hò đưa linh”, trong hỏi cưới thường dùng tiền “mắt ngỗng” là của giá thú; trong các dịp cúng bái, tế lễ ngoài cổ bàn linh đình còn có hát chầu văn…..

VI. CON NGƯỜI:

Nhiều tên đất, tên làng khi nhắc đến đã gợi nhớ tinh thần ham học, cầu tiến của nhân dân từ thời Hán học cực thịnh với nền học vấn khoa Bảng như: Phước Yên, Xuân Tùy, Phổ Lại, Niềm Phò… Trọng nhân nghĩa, đạo lý; sống có thuỷ có chung; đượm tình người, lòng nhân ái bao la…là phong cách sống có từ ngàn xưa của người dân Quảng Điền. Có người đỗ tiến sĩ, Phó bảng không chịu ra làm quan, có người làm quan thì rất liêm khiết và có dũng khí đấu tranh chống bọn xâm lược như Trần Thúc Nhẫn (Niêm Phò) – một đại thần đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp giữ cửa biển Thuận An năm 1883; Đặng Huy Phổ – là tri huyện Quảng Điền cũng từ bỏ con đường hoàn lộ theo Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết chống giặc Pháp xâm lược, bị xử chém; Phò mã Nguyễn Đình Tứ (Phước Yên) cùng hai em là Nguyễn Đình Long và Nguyễn Đình Cán tham gia vụ Hồng Tập chống lại Tự Đức, bị xử chém… Những quan lại thanh liêm nổi tiếng như Cao Đặng Đệ (Phước Yên), Trần Đạo Tiến (Đông Lâm Hạ); có người học cao nhưng ghét chế độ thối nát đương thời về “ẩn sĩ” như Ngô Thế Lân (Phù Lai).

Quảng Điền cũng là đất sản sinh ra nhiều tướng tài, nhiều văn thân yêu nước dưới các triều đại khác nhau. Các ông Đặng Tất và Đặng Dung (Bát Vọng) và tưởng giỏi triều Trần (hậu Trần) theo giúp Trần Giản Định và Trần Quý Khoáng đã lừng danh qua các trận đánh chống Trương Phụ (tương nhà Minh) ở Bố Cô và Thái Cảng.

Tiếp nối truyền thống cha ông, trong hai cuộc trường chinh chống Pháp, chống Mỹ cứu nước đã nổi lên hình ảnh những người con ưu tú, những nhà cách mạng trung kiên, những nhà thơ lỗi lạc mà tiêu biểu là Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (Niêm Phò), Tố Hữu (Lai Trung) – là Uỷ viên Bộ Chính trị Đảng cộng Sản Việt Nam, và nhiều đồng chí khác một thời làm cán bộ chính trị, quân sự, khoa học đã góp phần mình trong sự nghiệp giữ nước và xây dựng Tổ quốc, quê hương./.

Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa-lịch sử ở địa phương gắn với phát triển du lịch và dịch vụ.

Với bề dày hơn 700 năm hình thành và phát triển, Quảng Điền là vùng đất ẩn chứa trong mình nhiều giá trị văn hóa lịch sử quý giá, là địa phương có nhiều di tích lịch sử văn hóa, di tích kiến trúc nghệ thuật đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, UBND tỉnh công nhận là di tích cấp Quốc gia, cấp tỉnh như: Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh; Miếu – mộ Đặng Hữu Phổ; Đình và Chùa Thủ Lễ; Chùa Thành Trung gắn với thành cổ Hóa Châu; Miếu thờ Nguyễn Hữu Dật gắn với phủ Phước Yên; Chùa Thiện Khánh gắn với phủ Bác Vọng, Đình Thủy Lập, địa điểm diễn ra Hội nghị Nam Dương. Những năm gần đây, một số di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn huyện đã từng bước được trùng tu, tôn tạo, đã góp phần vào việc giáo dục truyền thống, lịch sử văn hóa cho thế hệ trẻ, tuy nhiên, việc khai thác để gắn kết giữa công tác bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử văn hóa truyền thống với phát triển du lịch và dịch vụ du lịch trên địa bàn huyện vẫn đang còn hạn chế và khó khăn nhất định.

          Hiện nay, tỉnh Thừa Thiên Huế đang phấn đấu để sớm trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, đồng thời thành phố Huế đã được xác định là trung tâm văn hóa du lịch đặc sắc của cả nước thì việc chúng ta quan tâm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương gắn với phát triển dịch vụ du lịch là một hướng đi thiết thực và có tính khả thi. Để làm được điều này thì cần thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm:

          Thứ nhất là việc nghiên cứu và phát triển các lễ hội dân gian truyền thống. Phát huy truyền thống của vùng đất văn hóa, các lễ hội dân gian truyền thống mang tính đặc trưng của địa phương cần được phục dựng và duy trì như: lễ hội cầu ngư của cư dân vùng đầm phá, ven biển như ở thôn An Xuân, xã Quảng An hay thôn An Lộc xã Quảng Công, thôn Tân Mỹ xã Quảng Ngạn; các lễ tế thu, tế thành hoàng của các làng văn hóa; Đặc biệt cần khôi phục và duy trì lễ tế Bà Tơ ở làng Bác Vọng, xã Quảng Phú mà địa phương vừa phục dựng thành công tại lễ hội Sóng nước Tam Giang năm 2012 – Bà Tơ là nhân vật gắn liền với lịch sử mở cõi của Chúa Nguyễn ở vùng đầm phá Tam Giang đã được phong thần và có tầm ảnh hưởng bao trùm trong đời sống tâm linh, đời sống tinh thần của cư dân đầm phá, sông nước vùng Bác Vọng, Hà Đồ, Hà Lạc nói riêng và của cư dân Quảng Điền nói chung. Lễ tế Bà Tơ được phục dựng sẽ trở thành một phần nội dung quan trọng trong lễ hội “sóng nước Tam Giang” khi lãnh đạo các cấp đồng ý đưa vào hoạt động của Festival Huế được tổ chức 2 năm một lần. Bên cạnh đó các loại hình văn hóa dân gian như: hò bả trạo, múa bông, múa Náp, điệu trống Thái Bình… cần được sưu tầm và phục dựng lại. Các hoạt động thể thao, trò chơi dân gian đã được phục dựng trong thời gian qua như: vật truyền thống làng Thủ Lễ vào ngày mồng 6 Tết, đua ghe, đu tiên, chọi  gà và các trò chơi dân gian mang đặc trưng của cư dân đầm phá cần phải được khuyến khích để phát triển…                  

          Thứ hai là tiếp tục quan tâm đầu tư, bảo tồn, tôn tạo, nâng cấp các đình, chùa, các di tích lịch sử văn hóa đã được xếp hạng như Khu lưu niệm đại tướng Nguyễn Chí Thanh, địa điểm tổ chức Hội nghị Tỉnh ủy tại Nam Dương, di tích Miếu- Mộ Đặng Hữu Phổ, chùa Thành Trung nằm trong quần thể di tích thành cổ Hóa Châu, Chùa Thiện Khánh gắn với phủ Bác Vọng, Miếu thờ danh tướng Nguyễn Hữu Dật gắn với phủ Phước Yên; Đình Thủ Lễ gắn với Hội Vật truyền thống hàng năm,…. Sớm tiến hành trùng tu lại ngôi Miếu Bà Tơ ở làng Bác Vọng theo đúng nguyên trạng ban đầu kết hợp lập hồ sơ để đề nghị xếp hạng đối với di tích Miếu bà Tơ ở làng Bác Vọng, xã Quảng Phú. Các di tích như thành Hóa Châu, Phủ Phước Yên, Phủ Bác Vọng cần được tiếp tục khai quật khảo cổ để có cơ sở lập hồ sơ đề nghị công nhận di tích, trên cơ sở đó lựa chọn địa điểm để xây dựng nhà trưng bày đối với các di tích trên nhằm phục vụ khách du lịch khi đến tham quan. 

          Thứ ba là chú trọng phát triển các làng nghề thủ công truyền thống. Ngoài những thế mạnh như cảnh quan thiên nhiên, những nét văn hóa đặc sắc thì phát triển làng nghề truyền thống cũng là hình thức góp phần vào việc đa dạng hóa sản phẩm du lịch. Chúng ta đã có những làng nghề thành danh như Bao La- một trong 7 làng nghề được vinh danh toàn quốc và mới đây đã có 2 nghệ nhân của làng nghề đã được UBND tỉnh công nhận, 6 sản phẩm của làng nghề được công nhận là “sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu” của khu vực miền Trung. Các làng nghề như làng rau Thành Trung, nghề nón Vân Căn, Bún Ô Sa, làng hoa cây kiểng La Vân Hạ, rau má Phước Yên. Các nghề sản xuất những sản phẩm phục vụ ẩm thực đặc trưng như: tôm chấy, chả da, gạo đỏ, gạo thơm, xôi đường Phước Yên, bánh ướt thịt heo Phú Lễ, nưa Quảng Thọ, rượu Lai Hà, rượu An Thành; các món ăn, đặc sản của vùng đầm phá Tam Giang… cũng cần được quan tâm. Phát triển du lịch làng nghề sẽ là giải pháp hữu hiệu để bảo tồn nghề truyền thống và từng bước giảm nghèo tại nông thôn. Nghiên cứu để xây dựng một làng nghề nông nghiệp sản xuất theo phương pháp thủ công truyền thống với những cây trồng và vật nuôi mang tính bản địa. Đây chính là hình ảnh của làng quê xứ Sịa ngày xưa và sẽ là sản phẩm du lịch hấp dẫn đối với du khách.

          Thứ tư là tiếp tục khai thác yếu tố sông nước của cộng đồng cư dân sống ven phá của Quảng Điền để hình thành sản phẩm du lịch như đã từng thực hiện ở làng Ngư Mỹ Thạnh, xã Quảng Lợi bởi vì cư dân lao động của Quảng Điền về cơ bản mang đặc trưng của đời sống nông- ngư nghiệp. Đặc điểm này đem lại một đời sống lao động phong phú vừa có nét chung, vừa có nét riêng, chính vì vậy cần khai thác yếu tố nầy để tiếp tục sưu tầm và từng bước xây dựng, tái hiện lịch sử của quê hương, cuộc sống lao động của cư dân ngư nghiệp đầm phá và cư dân nông nghiệp. Nếu được thực hiện thành công thì đây là sản phẩm du lịch không kém phần hấp dẫn đối với du khách…

          Có thể khẳng định: Bảo tồn và phát huy một số giá trị lịch sử, truyền thống văn hóa của địa phương là cách giải quyết có hiệu quả mối quan hệ, sự gắn bó giữa kinh tế và văn hóa. Tuy nhiên, việc khai thác các giá trị văn hóa của địa phương mới chỉ là tiền đề, yếu tố giúp cho dịch vụ du lịch phát triển, góp phần tăng trưởng kinh tế phải nhờ sự vào cuộc, sự đầu tư của nhà nước, sự quan tâm giúp đỡ của các ngành, các cấp về cơ sở hạ tầng du lịch đồng bộ như: hạ tầng giao thông tạo sự liên kết giữa các tuyến điểm du lịch; đầu tư hệ thống các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Nếu coi thế mạnh của du lịch Quảng Điền là phá Tam Giang gần bên bờ biển thì cùng với việc giải tỏa sắp xếp lại nò, sáo khai thác thủy sản theo hướng bảo tồn đa dạng sinh học vùng đầm phá cần có thêm sự đầu tư quy hoạch và xây dựng khu vực tổ chức không gian lễ hội, dịch vụ tổng hợp phục vụ du lịch, khu vực nhà chồ, nhà nghỉ trên bờ phá và ven biển….v.v.

          Bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống của địa phương là một trong những nội dung trọng tâm của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Và nếu biết khai thác những tiềm năng, thế mạnh đó để gắn kết giữa bảo tồn với phát triển du lịch, dịch vụ du lịch, tạo thêm những nguồn thu nhập chính đáng cho nhân dân địa phương là việc cần làm. Tuy nhiên để làm được điều này phải cần có sự phối kết hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành, các địa phương trong và ngoài huyện; sự quan tâm tạo điều kiện về nhiều mặt của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và các ngành chức năng cấp tỉnh trong việc đầu tư, hỗ trợ kinh phí, nguồn lực để đầu tư, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa, các làng nghề truyền thống, cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch…có như vậy thì Quảng Điền mới từng bước khai thác được tiềm năng, thế mạnh của vùng đất có bề dày lịch sử văn hóa gần 700 năm hình thành và phát triển.

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây