Tác giả Trung Trung Đỉnh

Trung Trung Đỉnh

TRUNG TRUNG ĐỈNH

Họ và tên khai sinh: Phạm Trung Đỉnh
Sinh ngày 21 tháng Tám 1949
Quê quán: xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng
Xuất thân trong một gia đình nông dân. Học hết phổ thông đi bộ đội, nhiều năm hoạt động ở chiến trường miền Trung và Tây Nguyên thời chống Mỹ cứu nước. Năm 1968, học viên Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Từng là biên tập viên văn xuôi Tạp chí Văn nghệ Quân đội (20 năm). Từ năm 2000 là Phó tổng Biên tập Báo Văn Nghệ rồi Phó giám đốc, Giám đốc – Tổng Biên tập Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Ngoài viết văn còn làm thơ, viết kịch bản phim. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1984).

Tác phẩm chính:

Thung lũng Đắk Hoa (tập truyện ngắn in chung với Thanh Quế, 1979); Người trong cuộc (tập truyện ngắn, 1980); Đêm nguyệt thực (tập truyện ngắn, 1982); Những người không chịu thiệt thòi (tập truyện ngắn, 1982); Ngược chiều cái chết (tiểu thuyết, 1989); Tiễn biệt những ngày buồn (tiểu thuyết, 1990); Chuyện tình ngõ lỗ thủng (tiểu thuyết, 1990); Bậc cao thủ (tập truyện ngắn, 1994); Lạc rừng (tiểu thuyết); Sống khó hơn là chết (tiểu thuyết, 2008); Lính trận (tiểu thuyết).

Giải thưởng:

Lạc rừng (tiểu thuyết) – Giải A cuộc thi Tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam (1998 – 2000); Lính trận (tiểu thuyết) – Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam 2010 và Giải thưởng Văn học Đông Nam Á (S.E.A Write Award), Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007.

 

QUẢNG ĐÀ, KHÔNG BAO GIỜ QUÊN!

Đơn vị tôi hành quân đến đất Quảng Đà vào tháng cuối cùng của năm 1968. Khi ấy chiến trường Quảng Đà nổi tiếng ác liệt. Cánh lính trẻ chúng tôi hầu hết chưa anh nào biết gì về đất nước, con người xứ Quảng. Trong những đợt hành quân qua các trạm giao liên, đến xứ Quảng, được đường dây thông báo là “chúng ta đang hành quân trên đất Quảng Đà…”. Và tới đây, tôi thấy có những cô, những chị giao liên của các binh trạm có đặc điểm nổi bật, ấy là ai cũng hút thuốc lá quấn. Rất ít người không. Và khoẻ. Các nữ giao liên Quảng Đà ai cũng khoẻ và nhanh, và nhiệt tình hết cỡ. Các đội nữ thanh niên xung phong, tức là các đội thồ, gùi cõng, chị nào chị ấy gùi những gùi hàng cao vượt quá đầu người. Mỗi lần nghỉ giữa dốc, nơi hậu cứ, các chị ngồi nói chuyện với nhau “như chim” và hút thuốc khói um, cười vang rừng. Vì hồi đó chúng tôi đa số mười bảy, mười tám tuổi, nên thấy các nữ thanh niên xung phong đều có vẻ lớn hơn mình. Kỳ thực, sau này tôi mới biết, họ lớn hơn, khoẻ hơn nhưng tuổi thì cũng sàn sàn mười bảy, mười tám cả. Hồi năm cuối cấp 3 của tôi có cô giáo vừa về thực tập tên Nông, cũng người Quảng Nam. Nhưng cô nói giọng Bắc, tính tình hiền khô, dễ dãi và rất hay kể chuyện quê cô có nhiều hải sản. Trong ký ức của cô chỉ nhớ biển và biển, và tôm cá.
Sau này, về đơn vị, tôi tiếp xúc với người đầu tiên, cũng là người Quảng Nam. Ấy là ông Hào, Huyện đội trưởng. Thủ trưởng Hào của chúng tôi cao to, xoè bàn tay gân guốc ra đón mấy thằng lính trẻ mới toanh, vừa từ Bắc vào. Ông bảo, mấy em chịu khó ăn củ mì nha. Ở đây không có gạo, ăn củ mì là chính. (Hồi ấy, vô đến Quảng Đà, thấy người ta gọi củ sắn là củ mì). Nói rồi ông quay vào bếp bê ra một cái rá. Trong rá gọi là rá cơm, nhưng chả có hạt cơm nào. Toàn sắn luộc đánh tơi. Bên cạnh rá “cơm” có gói lá, ông mở ra, đó là gói lá đựng muối hầm trộn với thứ gì xanh xanh, ăn vào mới biết là sả cùng với mấy quả ớt. “Ăn đi mấy em”, ông nói rồi lấy cái bi đông US đeo bên sườn ra, có cái ca US ở dưới và thìa US ra khua rổn rảng. Sau này mới biết, những anh lính kỳ cựu ở đây mới sắm được mấy thứ của quý ấy từ chiến lợi phẩm. Còn chúng tôi thì mở bát sắt của mình ra “ăn cơm”. Bữa “cơm” đầu tiên vào đến đơn vị ở chiến trường của chúng tôi như thế đấy. Không thích cũng phải làm quen mà thích. Ăn là nạp năng lượng, không nạp được ngay thì nạp dần dần. Rồi đâu cũng vào đấy.
Bây giờ tuổi đã cao, ngồi nhớ lại thời tuổi trẻ của mình, tôi toàn nhớ chuyện loanh quanh với ba bữa ăn “cơm” độn sắn, độn canh lá sắn luộc muối chua, ăn canh rau môn thục, môn dóc nấu với ốc suối. Thi thoảng bắn được con thú rừng, con chim rừng, con cá suối cải thiện. Bây giờ các chị thanh niên xung phong thuở ấy chừ ra răng hề? Chiến tranh đã trôi qua hơn bốn chục năm rồi, chừ già toàn nghĩ, toàn nhớ, nhớ đến cồn cào, thương đến cồn cào những bữa ăn, những cuộc hành quân, những ngày chạy địch càn. Nhớ mấy em, mấy chị giao liên ngồi nghỉ dọc đường, quấn thuốc hút, nói chuyện với nhau ríu ran như chim, chừ “mấy chị, mấy em” ra răng hề? Có chị đã chết vì tật bệnh, vì di chứng sau chiến tranh. Có chị may mắn có chồng, có con, thành bà nội, bà ngoại. Có chị ở không, ở giá cả đời. Có chị đau lên, ốm hoài, bịnh hoài, chừ ra răng hề? Ôi, mấy chục chị một đội thồ (gùi vai). Rồi mấy trăm chị một đội thồ, thồ xe đạp. Rồi hàng ngàn chị trong khắp các cánh rừng chiến khu, mỗi người mỗi việc. Việc ở phía trước trực tiếp cầm súng chiến đấu như những người lính nam thực thụ. Có nhiều chị làm y tá, cứu thương, phục vụ trong các đội phẫu phía trước. Có nhiều chị thâu đêm, suốt sáng chăm lo cho các thương bệnh binh ở trong các bệnh xá, bệnh viện, các trạm điều dưỡng v.v… Chừ mỗi chị một số phận, một hoàn cảnh, tôi ngồi đây viết những dòng này ca thán… Buồn thay! Không! Tôi không ca thán. Không ca thán. Không thắc mắc thay cho các chị, chỉ là nhắc lại, nhớ lại, gợi lại, nếu mọi người mải bận trăm công, ngàn việc mà quên những cánh rừng âm u, những người chị gái, em gái trong những trận mưa rừng sùng sũng nước, những ngày nắng lửa đêm trường dưới ánh sáng đèn dù, ngoài tuổi trẻ, sức trẻ và lòng yêu quê hương đất nước ra, các chị, các em chả có gì. Chả có gì, ngoài sự hy sinh… Rứa thôi!
Mấy chục năm xây dựng quê hương đất nước thanh bình, chúng ta cũng có nhiều thành tựu. Đà Nẵng thành phố trẻ. Quảng Nam đất “trung dũng, kiên cường”, nay là đất của “năng động, sáng tạo” với Khu kinh tế mở Chu Lai… Chúng ta vinh dự tự hào vươn mình, vượt trội. Nào đường, nào phố, nào cầu, nào cống, nào bùng binh biệt thự, nào bến cảng nước sâu. Nào khách sạn năm sao, khách sạn ba sao. Nào khu du lịch, bệnh viện lớn nhỏ. Nào trường học, bến xe khang trang. Nào các viện, các trung tâm… Tất cả đều do tính cách quyết liệt, chịu thương, chịu khó lam làm của người xứ Quảng quê ta. Xưa đất Quảng quê ta có các danh sĩ như cụ Trần Quý Cáp, Trần Cao Vân, Hoàng Diệu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, nay ta có những người lính tiên phong như Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Sự…, họ là những người con xứ Quảng sinh ra và lớn lên, lăn lộn với quê hương từ thời chiến qua thời bình. Làm ăn có lúc thăng khi trầm, nhưng cái được ấy là cái được của tính cách mạnh mẽ, dám khám phá, tìm tòi, làm giàu cho kho tàng văn hoá xứ mình, quê hương mình.
Câu ca ngàn năm xưa chừ vẫn hay, vẫn đúng:
Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu Hồng Đào chưa nhấm đà say
Đối với ai ơn trọng nghĩa dày
Một hột cơm cũng nhớ
Một gáo nước đầy vẫn chưa quên.
Tôi nay mỗi lần về Đà Nẵng, mỗi khi ghé qua Đà Nẵng là một lần nhớ tới các chị giao liên, những người nữ chiến sĩ xe thồ, những cánh rừng miền Tây Quảng Nam với những cái tên Trà My, Nước Oa, làng Hồi, Trà Nô…, những cánh rừng chiến khu, những con đường mòn sâu hun hút trong rừng núi và bóng dáng những bà con dân tộc cùng chúng tôi trong những cánh rừng võng dăng dăng khắp các nẻo ra chiến trường. Những người anh, người chị, những người đồng đội như Chu Cẩm Phong, Nguyễn Mỹ, Nguyễn Hồng đã ngã xuống để có hôm nay. Một hột cơm cũng nhớ, một gáo nước đầy vẫn chưa quên. Không bao giờ quên.

T.T.Đ.

THU BỒN
TRÁNG SĨ HỀ…DÂU BỂ

Nhiều năm nay tôi vẫn tự nhận mình là thằng đàn em may mắn vì có khoảng thời gian sống chung với các nhà văn Nguyễn Chí Trung, Nguyên Ngọc và nhà thơ Thu Bồn – ba tác giả viết về Tây Nguyên đều có những tác phẩm xuất sắc đóng góp lớn cho nền văn học cách mạng Việt Nam. Nhà văn Nguyễn Chí Trung và nhà văn Nguyên Ngọc không chỉ là nhà văn mà còn là những cán bộ của Đảng trong thời chiến cũng như¬ thời bình. Riêng đối với nhà thơ Thu Bồn, ông gần nh¬ư chỉ có làm thơ, viết văn và làm thơ, viết văn, tự nhận mình là kẻ “đánh đu cùng dâu bể”, cái dâu bể sâu nặng ân tình đối với đồng đội, nhân dân, Tổ quốc, chính nó đã tạo nên vẻ đẹp thơ ông, cái vẻ đẹp phong trần, nhuốm bụi đời vừa gian nan khúc khuỷu vừa ngạo nghễ kiêu hùng và lãng mạn, với một lối viết hoành tráng tuôn trào, luôn luôn gắn liền với số phận đất n¬ước, non sông, bằng một phong cách cuồn cuộn sức sống, cuồn cuộn cảm xúc, không ngừng không nghỉ, kể từ khi xuất hiện cho đến khi mang bệnh về già. Tôi th¬ường gọi ông là cây kơrắc (cây trắc), một loài cây cho ta thứ gỗ quý hiếm vừa đẹp vừa cứng, mọc trong rừng đại ngàn của Tây Nguyên, đặc biệt cái lõi của nó mang những vân hoa nh¬ư mây, như¬ gió mà cứng như¬ thép, mà mềm nh¬ư lửa. Cá tính của Thu Bồn cũng thế: cũng cứng như¬ thép, cũng mềm như¬ lửa. Ông là một mẫu ng¬ười được tôi luyện như¬ thép đã tôi, như¬ lõi cây trắc càng chôn xuống đất càng t¬ươi roi rói, không mối mọt nào xông đ¬ược. Ở với ông, chơi với ông, “đánh đu” với ông đến rốt ráo, đến tận cùng cuộc chơi, cuộc sống và chiến đấu không mấy ng¬ười theo đư¬ợc, ngoài nhà văn Nguyễn Chí Trung và nhà phê bình văn học Ngô Thảo. Hai ông, một tr¬ước, một sau, đến với Thu Bồn, hay nói đúng hơn, sống với Thu Bồn nh¬ư thể cuộc đời Thu Bồn đ¬ược thế. Thu Bồn bạn bè trăm ngả bốn ph¬ương, như¬ng không phải vì thế mà ông không có “trọng điểm”. Ông thương yêu nhà thơ Ngô Thế Oanh, nhà văn Thái Bá Lợi, nhà thơ Thanh Thảo, và nhà thơ Trần Vũ Mai nh¬ư là những thằng bạn cùng trang lứa, những thằng em trong cuộc đời. Bao nhiêu cuộc uống “long trời lở đất” ở ngôi nhà số 1B Ba Đình (Đà Nẵng), và cũng từ nơi đây, bao nhiêu bài thơ hay của các nhà thơ một thời chung sống đ¬ược ra đời. Tôi đã từng đ¬ược “xem” anh Thu Bồn sáng tác trường ca Bazan khát sau chuyến về lại Tây Nguyên, và cũng đ¬ược “xem” nhà văn Nguyễn Chí Trung đọc, cắt và biên tập cái trư¬ờng ca đầy những ¬ưu điểm và mang cả những “khuyết điểm” này. Thu Bồn viết nh¬ư không thể không viết. Còn Nguyễn Chí Trung đã cắt, như¬ không thể không cắt! Cái sự “viết” và cái sự “cắt” ấy tạo nên vẻ đẹp lộng lẫy của thiên tr¬ường ca mà có lần anh T¬ượng, công vụ của cơ quan, một dũng sĩ diệt Mỹ đã nói đùa với Thu Bồn, tất nhiên lúc ấy có tôi được nghe, rằng: “Bazan khát” là “Bazan cắt”. Thu Bồn không những không buồn mà ông nói tỉnh queo: “…! Ổng cắt ngon đó mày!”. Thế đó. Thu Bồn bề ngoài có vẻ hùng hổ, ngang tàng, như¬ng bên trong ông rất hiền từ, phục thiện, cởi mở và thơm thảo. Bản tính ông lúc nào cũng hiếu động, mà hành động của ông toàn hành động mạnh! Rất ít khi thấy Thu Bồn yên tĩnh. Anh Ngô Thảo có lần bảo tôi: khoảng cách giữa hai trận đánh, Thu Bồn làm thơ. Khoảng cách giữa hai đợt tránh bom pháo, Thu Bồn làm thơ. Thu Bồn làm thơ khi đang hành quân, khi đang yêu, khi đang đói, khi đang say và cả khi đang nhọc nhằn nh¬ư say mê đào đất, khuân đá làm nhà. Thu Bồn làm thơ khi bán xe, bán nhà, tiêu tiền. Thu Bồn làm thơ khi bán lịch. Thu Bồn làm thơ khi làm sách, bán sách, bán thơ. Thu Bồn làm thơ khi lên rừng, xuống biển, về nhà; ở đâu Thu Bồn cũng vui bạn vui bè, hết mình vui chơi, hết mình làm việc với một nguồn cơn: Con yêu từng hạt bụi đau buồn của Mẹ, và cả với một ý chí lạ lùng: Lấy kiên nhẫn làm bữa ăn thầm lặng. Vui chơi hay làm việc gì, kể cả viết tiểu thuyết, kể cả việc chẳng ra việc gì, thực ra cuối cùng rồi cũng chỉ để nuôi thơ, mới đầu khởi nguồn từ quê hương, Mẹ Đất:
Tôi không khóc nh¬ưng vẫn trào n¬ước mắt
Con đã về đây với mẹ – Mẹ quê hương.
(Hôn mảnh đất quê hương)
Rồi đến:
x¬a kia tráng sĩ hề da ngựa
ta nay uống cạn mấy rừng m¬ưa
và:
bao năm gối núi đầu hóa đá
tiếng hát từng rung Ngũ Giác Đài
Rồi:
độc huyền tráng sĩ xư¬a ca cẩm
ta ôm xích đạo gãy vòng cung
(Hành ph¬ương Nam)
Thế mà dâu bể cuộc đời có lúc cũng làm cho tráng sĩ mềm lòng, đúng hơn, cũng não cả lòng:
lấy khăn mà gói bơ vơ
tay cầm n¬ước mắt bao giờ sang sông?
(Mong em về tr¬ước cơn m¬ưa)
Không phải là Thu Bồn, không ai viết đ¬ược những câu thơ hồn nhiên và chân chất, rộn rã và hiền từ nh¬ưng quyết liệt và táo bạo đến thế này:
anh về xé một buồng cau
bắc thang lên hỏi cho mau ông trời
bay lên vũ trụ anh mời
những vì tinh tú cùng thời với anh.
Mà thực ra chỉ để:
rồi xin ở lại cõi trần
làm thơ nhóm bếp đỡ đần cho em
(Ngôi sao lạc loài)
Thơ Thu Bồn gắn liền cùng thời đại là thế. Ở thời điểm nào ông cũng có những tr¬ường ca hay, những bài thơ hay, những câu thơ cực hay.
Thời cơ chế thị tr¬ường ông viết mới thật làm sao, mới đáng yêu và giản dị làm sao:
mặt trời ngủ em tôi đi
em không bán lịch lấy gì nuôi thơ?
Thêm nữa:
nhà tôi thung lũng mù s¬ương
ai chê cũng đón ai th¬ương cũng mời
Thu Bồn là thế. Ông không vuốt ve cuộc đời, không vuốt ve câu thơ, ông không cố tình làm lạ chữ. Tâm hồn Thu Bồn mở rộng đa đoan vậy nên mới có khi nào được bình yên đâu, dù lúc say s¬ưa sung mãn nhất: Đêm nay m¬ưa ng¬ược lên trời/ một cơn động đất giữa lời em xa. Và ông thật thà thú nhận: Anh yêu em giống con bò đeo chiếc ách/ nên trọn đời tiếng rống vẫn còn cong.
Lúc bình tĩnh ông cũng ví von: Linh hồn của đá là mây/ linh hồn của đất là cây xanh rờn/ phần con ng¬ười có cô đơn/ phần hoa đẹp có h¬ương thơm không lời.
Và: Ta cũng là trăng luôn mắc l¬ưới/ vớt lên ¬ướt hết nửa cuộc đời/ đêm đêm hong gió trên triền núi/ gọi nắng mai lên vá lại trời.
Vá lại trời! Đó mới thật là Thu Bồn lắm thay.
*
Thu Bồn là nhà thơ của núi rừng Tây Nguyên, điều ấy không cần phải bàn. Vào những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ tr¬ước, ông đã có mặt ở chiến trường này và những bài thơ đầu tiên ông viết cũng về vùng đất này. Cũng những năm đó, ở ngoài Bắc cuộc sống khá êm đềm và sôi động trong hoà bình với các phong trào thi đua yêu n¬ước xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa non trẻ và t¬ươi đẹp. Nh¬ưng ở trong miền Nam thì cuộc sống của nhân dân chìm ngập trong một không khí đen tối ch¬ưa từng có với những đạo luật “tố cộng”, tìm diệt, “giết lầm hơn bỏ sót”, đặc biệt tr¬ước đó Luật 10/59 của chế độ Ngô Đình Diệm với l¬ưỡi lê và máy chém đã khiến nhiều cán bộ cách mạng, nhiều phong trào cách mạng ở miền Trung bị đánh bật lên rừng Tây Nguyên. Thu Bồn chính là một thiếu sinh quân, một chiến sĩ trẻ trung nh¬ưng dạn dày kinh nghiệm sống và chiến đấu trong các phong trào cách mạng của Tây Nguyên thời kỳ đó. Và trường ca Bài ca chim Chơ Rao đ¬ược ra đời cũng quyết liệt và hồn nhiên như¬ chính Thu Bồn có mặt sớm cùng nhân dân. Nó đư¬ợc viết ra từng trang, từng chương dư¬ới ánh lửa bếp nhà sàn trong các buôn làng Tây Nguyên. Nó đ¬ược cùng tác giả tham gia những trận đánh và những lần chống càn quét của quân thù, và sau đó đư¬ợc “hành quân” theo bư¬ớc chân của nhà thơ Thanh Hải đi bộ ra Bắc, về tới Báo Văn Nghệ, ngay lập tức Bài ca chim Chơ Rao đ¬ược in trang trọng thành một tờ phụ tr¬ương, thành một hiện tư¬ợng mới của văn học. Có thể nói tr¬ường ca Bài ca chim Chơ Rao của Thu Bồn đã đánh thức đúng lúc một thể loại văn học nhiều năm tr¬ước đó gần như¬ bị bỏ quên. Nó đ¬ược đón nhận nồng nhiệt không chỉ đối với giới sáng tác mà ngay lập tức, nó đ¬ược giới trí thức trẻ, đặc biệt là học sinh, sinh viên vô cùng ng¬ưỡng mộ. Hai nhân vật chính của trường ca là Hùng và Rin nhanh chóng đ¬ược biết đến nh¬ư một biểu t¬ượng của tinh thần đoàn kết Kinh – Thư¬ợng. Biểu t¬ượng của ý chí chiến đấu đến cùng chống quân xâm lư¬ợc của nhân dân ta.
Đối với Thu Bồn, ông viết như¬ một nhu cầu sống. Tr¬ường ca hay thơ trữ tình, tiểu thuyết hay truyện ngắn, tất cả đều do nhu cầu của đời sống, chính vì thế cảm xúc thơ ông lúc nào cũng t¬ươi, cũng mới. Mọi ý t¬ưởng, mọi ý đồ kết cấu đều đ¬ược cảm xúc đư¬a đón, không nề hà câu nệ, đặc biệt ở tr-ường ca. Ông quan niệm tr¬ường ca là một toà lâu đài thơ, vì vậy ngư¬ời viết tr¬ường ca cũng phải là một kiến trúc sư¬ thiết kế nên toà lâu đài đó. Ông lại cho rằng, “vật liệu” làm nên tr¬ường ca cũng phải khác các thể loại khác, mặc dù “vật liệu” ấy vẫn là ngôn ngữ. Ngôn ngữ có thể làm nên tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ dài, diễn ca, nh¬ưng ở tr¬ường ca nó vẫn phải khác với ngôn ngữ làm nên thơ dài, truyện thơ và diễn ca. Cũng nh¬ư gạch ngói, gỗ đá đều có thể làm nhà, làm lán trại, như¬ng gạch ngói đá gỗ làm lâu đài cũng có khác so với gỗ làm trại lán. “Sự khác nhau đó là do tính tất yếu của nội dung công trình khắt khe đòi hỏi chứ không phải do ý muốn của một ai”. Ông nhấn mạnh: “Trư¬ờng ca là một toà lâu đài của thơ ca, là một kiến trúc tổng hợp của thơ ca”.
Ông luôn luôn có ý thức về cấu trúc tác phẩm của mình, mặc dù cái cấu trúc ấy đ¬ược hình thành thông qua nguồn cảm xúc chắt ra hay bung phá ra đều từ sự va chạm giữa tình cảm cá nhân với tình cảm cộng đồng. Ông nuôi d¬ưỡng cảm xúc nghệ thuật của mình bằng chính nguồn sống của trái tim nồng nhiệt của ông đối với Đảng, với nhân dân. Ông quan niệm, cảm xúc cũng là một loại “vật liệu” làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn của nghệ thuật, như¬ng nó là một thứ “vật liệu” đặc biệt, một thứ “vật liệu” chỉ xuất phát từ trái tim nghệ sĩ. Ng¬ười nghệ sĩ càng sống chân thành, tận tâm tận lực với trách nhiệm công dân của mình, với tình th¬ương yêu gia đình, ngư¬ời thân, bạn bè, quê h¬ương, đồng đội, thì cảm xúc càng mạnh mẽ. Quan niệm ấy ta thấy rõ nhất trong bài thơ Gởi lòng con đến cùng Cha. Trong tất cả những bài thơ viết sau khi Bác mất, theo tôi, bài Gởi lòng con đến cùng Cha là bài thơ hay nhất. Nó hay nhất không phải vì tác giả có ý t¬ưởng gì mới mẻ, có cách thể hiện gì cao sang, độc đáo, hoặc thống thiết, hoặc cứng cỏi mà chỉ bởi nó chân thành, mộc mạc, tự nhiên, tự đáy lòng tác giả, tự đáy lòng ng¬ười dân đối với Bác Hồ. Từng câu thơ, từng lời thơ nếu “trích ngang” ta sẽ thấy thậm chí nó còn cũ, còn thô, nh¬ưng cái “cũ” ấy, cái “thô” ấy mới chính là tấm lòng tác giả, và cũng chính là tình cảm của nhân dân miền Nam:
…Tiếc rằng tr¬ước lúc chia ly
Con ch¬ưa đ¬ược thấy dáng đi của Ng¬ười
Hẳn trong đôi mắt sáng ngời
Có nguyên vẹn một khoảnh trời ph¬ương Nam…
Trong cuộc sống Thu Bồn là một ng¬ười đa đoan. Cái đa đoan mẫn cảm của một trang hiệp sĩ, một chiến sĩ trung thành, một ngư¬ời con hiếu thảo, nhiều khi thấy ông vi vu, lại có lúc thấy ông đơn độc, ông ở đâu cũng có bạn, ông đến đâu cũng quyến rũ đ¬ược tình cảm của nhiều ng¬ười bằng sức mạnh của chân tình, của sự nhiệt tâm sôi nổi. Đằng sau những cuộc phiêu l-ưu là trái tim nặng nợ với đời, là nỗi buồn nhân thế, là tình th¬ương yêu không bến bờ không neo đậu. Bất kỳ trang viết nào của Thu Bồn chúng ta đều thấy cái nhiệt tâm đến hết lòng ấy của ông. Ông là ng¬ười không chờ cảm xúc mà cảm xúc luôn luôn chờ ông sẵn để sẵn sàng cùng ông vào cuộc. Ông cùng với trư¬ờng ca và thơ, chiếc ba lô và bộ quân phục, cây bút và cây súng đi hết chặng đ¬ường chống Mỹ thăng trầm của đất nước, cho đến tận bây giờ. Ở chặng đ¬ường nào ông cũng có những cái mốc đáng kể, kể cả tr¬ường ca và thơ ngắn. Thơ ông rất thời sự và cũng không vì tính thời sự mà thời gian dễ dàng làm lu mờ đi những gì ông để laị. Riêng đối với Tây Nguyên, cho tới bây giờ, ch¬ưa thấy một nhà thơ nào viết đ¬ược hay và nhiều như¬ ông.
Ông yêu Tây Nguyên từ trong máu lửa, từ trong sống còn của cuộc chiến tranh. Tây Nguyên là một kho báu văn hoá dân gian, đặc biệt là một kho báu khổng lồ tr¬ường ca. Đi tới buôn làng nào ta cũng gặp các nghệ nhân hát khan (hát kể) bằng thơ. Họ có thể hát kể những câu chuyện bi tráng diễn tả sức mạnh phi th¬ường của các anh hùng dân tộc mình đánh lui thần linh, quỷ dữ, đánh bại kẻ thù xâm lăng hết ngày nọ qua ngày kia, bên đống lửa, bên ché r¬ượu cần và bên những ng¬ười thân trong cộng đồng làng rừng. Thu Bồn là ngư¬ời trai Kinh, là anh bộ đội Boók Hồ, là nghệ sĩ của nhân dân mỗi khi nhân dân vui hội hè, ông hoà nhập vào cuộc sống của bà con dễ dàng nh¬ư chính ông đ¬ược sinh ra và lớn lên từ buôn làng này. Dáng vóc ông to cao lực lư¬ỡng như¬ng con ng¬ười ông lại hiền lành, dễ th¬ương. Ông giỏi chặt cây làm lán; ông giỏi kiếm măng, kiếm nấm; ông giỏi nấu ăn, say sưa làm đồ ăn tiếp bạn, tiếp khách. Ông thích tụ tập bạn bè, đọc thơ, tán dóc. Ông yêu bạn th¬ương bạn như¬ thể th¬ương thân. Đừng thấy ông to tiếng với nhà văn Nguyễn Chí Trung, mà t¬ưởng hai ng¬ười kiểu này không còn gì với nhau nữa. Tôi đã đ¬ược thấy cảnh hai ông cãi nhau và cả cảnh sau cuộc “đụng độ” ấy của hai ng¬ười. Trời ạ, thương nhau đến thế là cùng: Cả hai ông đều khóc!
Thu Bồn đến ở căn phòng nào, chỉ trong thời gian ngắn, căn phòng ấy biến thành không gian của Tây Nguyên. Ông say s¬ưa với những cuộc cải tạo phòng, nhà. Ông trần lư¬ng khuân đất đá, chặt, đẽo ghế bàn, sửa sang bếp núc. Ông không phải ngư¬ời có lối sống lập dị, như¬ng nhìn dàn thớt dài hàng chục chiếc như¬ dàn chinh chiêng Tây Nguyên từ cái to nhất đến cái nhỏ nhất treo trên tư¬ờng bếp nhà ông, ta không thể không thán phục con ngư¬ời có nhiều ý t¬ưởng độc đáo và yêu Tây Nguyên đến kỳ lạ này. Ông bao giờ cũng trở thành tâm điểm chú ý của mọi ng¬ười. Ông đọc thơ, hát thơ, ngâm thơ hồn nhiên, mạnh mẽ, hết mình. Ông là người luôn luôn sống quanh bạn bè, sống cùng bạn bè. Suốt cả cuộc đời ông là một cuộc hành quân dài từ quê hư¬ơng đất Quảng đến Tây Nguyên và từ đó đến mọi miền của đất nư¬ớc. Ông ra Bắc vào Nam, lên rừng xuống biển, nơi đâu cũng rộn rã bạn bè. Kể cả khi ông tới Tây bán cầu đọc thơ cùng các nhà văn Á Phi, sau những ngày vui nhận giải văn học Lotus, về n¬ước, ông toàn kể chuyện về bạn bè đủ các màu da. Ông đến Angkor hát cùng bè bạn, thánh thần, sau cuộc chiến đánh bại bọn diệt chủng phi nhân tính ở đất n¬ước này. Và ông làm thơ. Làm thơ và kết bạn. Kết bạn và làm thơ. Cuộc đời của nhà thơ Thu Bồn chính là bản du ca về tình bạn và tình ngư¬ời. Thơ của Thu Bồn hiện đại ngay từ trong cảm xúc. Hãy nhớ lại thời đầu chống Mỹ, thơ ca của ta, dòng cảm xúc chủ yếu là lòng yêu quê h¬ương đất nước, căm thù giặc chia cắt non sông thành hai miền.
Thu Bồn viết:
… Ấp chiến l¬ược đám mây đen che núi
Lòng xót xa quặn cháy mái nhà rơm
Mẹ lom khom vịn vào vai núi
Chúng con đi mờ khuất dãy Tr¬ường Sơn
(Hôn mảnh đất quê hương – l962)
Và đây là không khí Tây Nguyên nói riêng, miền Nam nói chung trong thời điểm cam go nhất của lịch sử:
… Mây đen đè nặng trăng không sáng
Loang lổ trời đêm máu tím bầm
Rặng núi nặng nề ôm mây ngủ
Nghe vẳng ph¬ương xa tiếng sấm gầm…
(Bài ca chim Chơ Rao – l963)
Rồi:
…Cô em ngồi vót chông tre
Vót cả nắng tr¬ưa hè
ửng hồng lên đôi má
(Tre xanh – 1964)
Nếu cứ lần theo những câu thơ hay, những đoạn thơ hay – tính theo thời gian, theo b¬ước chân hành quân oai hùng của ng¬ười chiến sĩ cách mạng có tên là Hà Đức Trọng, cả những đoạn đời thăng trầm cùng những câu thơ hào sảng và cũng rất trữ tình của nhà thơ Thu Bồn, chắp nối lại, không cần quá cầu kì về kết cấu, tôi dám chắc chúng ta sẽ đ¬ược một tr¬ường ca đặc sắc, một tr¬ường ca vừa bi ai hùng tráng, vừa da diết tình ng¬ười. Thơ Thu Bồn luôn luôn gắn cùng thời cuộc, kể cả thơ tình yêu, thơ trữ tình riêng tư¬ đầy cá tính của ông:
…Trời s¬ương đã xuống
tóc anh ¬ướt đầm
em đến hong khô bằng năm ngọn lửa của bàn tay…
Và thuở trai trẻ của thế hệ ông:
…Cả một thời tuổi trẻ kéo nhau đi
sấm sét ở lại tìm thi sĩ
miền đất hứa đau buồn chung thủy
thơ tuôn trào và núi lửa đang phun
Khi tình yêu đến ông thật thà:
Môi em mùa xuân
mắt em mùa hè
tóc em mùa thu
xin tim em đừng phải mùa đông
Ông si tình:
Em đến rồi em lại đi
Biến anh thành gã Tr¬ương Chi không đàn
Và ông hết mình:
Ngày mai tôi hát về nguồn
Gạn cho trong hết nỗi buồn của em
Ông hiền lành vị tha:
Cầu trời sóng gió bình yên
em về xin cứ thiên nhiên mà về
Và ông tuyên bố:
Hộ khẩu tôi nhập cuộc với tình yêu
Thành phố hỡi! Đừng gọi tôi là tạm trú
Ông dễ th¬ương:
Nếu không đ¬ược làm sông cũng xin cho làm suối
trọn đời róc rách giữa hồn em
Ông quyết liệt dữ dội:
Tình yêu là khí giới của tôi
chiếm tất cả luỹ đồn em dựng
Không chỉ một bài, hai bài, một câu hai câu, mà có thể nói, có hàng trăm hàng ngàn câu hay nh¬ư vậy:
em – con ngựa chứng không c¬ương
anh – tên kị mã vết th¬ương đầy ng¬ười
Ông tự nhận cuộc đời ông “đánh đu cùng dâu bể” mặc dù vẫn kiên quyết:
Muôn đời đẹp nhất là thơ
trong là n¬ước mắt – ngu ngơ là tình
bài thơ ta viết cho mình
là bài thơ của mối tình ngu ngơ
Bây giờ Thu Bồn đã mất. Đúng hơn, Thu Bồn đã đ¬ược yên tĩnh. Hơn sáu mươi năm hiện diện cùng đất nước, bấy nhiêu năm tráng sĩ hề…dâu bể, ông đã về “Trời”. Mọi tai ¬ương nghiệp chư¬ớng cùng những vần thơ đầy khát vọng bình yên của ông, ông để lại cho đời. Ông là nhà thơ hàng đầu trong số đông đảo các nhà thơ thời chống Mỹ.
T.T.Đ.

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây