Giới thiệu khái quát huyện Bình Liêu

huyện Bình Liêu - Tỉnh Quảng Ninh

Giới thiệu khái quát huyện Bình Liêu

  1. Vị trí địa lý, diện tích tự nhiên 

Bình Liêu là huyện miền núi, biên giới, dân tộc nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Quảng Ninh, có diện tích tự nhiên là 475,1 km2 (chiếm khoảng 8% diện tích tỉnh Quảng Ninh).

– Về tọa độ địa lý:

+ Từ 21026’15” đến 21039’50” vĩ độ Bắc;

+ Từ 107016’20” -107035’50” kinh độ Đông.

– Vùng tiếp giáp:

+ Phía Bắc giáp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

+ Phía Nam giáp huyện Tiên Yên và huyện Đầm Hà.

+ Phía Đông giáp huyện Hải Hà.

+ Phía Tây giáp huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn.

Huyện Bình Liêu có 8 đơn vị hành chính. Trong đó, có 7 xã và 1 Thị trấn; 6/7 xã biên giới, 5 xã đặc biệt khó khăn; chia thành 104 khu phố, thôn bản. Bình Liêu có cửa khẩu Hoành Mô, có 43 km đường biên giới tiếp giáp với huyện Phòng Thành (tỉnh Quảng Tây-Trung Quốc). Cửa khẩu Hoành Mô đã được đầu tư xây dựng mới, mở ra nhiều khả năng cho sự giao lưu mậu dịch, thông thương hàng hoá giữa nước ta với nước bạn Trung quốc.

Mạng lưới đường bộ trên địa bàn huyện: Đường Quốc lộ 18C chạy dọc chiều dài của huyện là 33 km, đường liên xã 101 km, đường nội thị 7,5 km, đường thôn, xóm 201 km. Trong đó, đường Quốc lộ 18C là huyết mạch nối huyện Bình Liêu với các huyện thị, khu kinh tế Cửa khẩu Quốc tế Móng Cái và các trung tâm kinh tế – xã hội của tỉnh và ngược lại. Tuyến đường đang được nâng cấp cải tạo, hiện tại cơ bản các ngầm đã được thay thế bằng cầu cứng kiên cố, giao thông khá thuận lợi.

Nhìn chung, vị trí địa lý của huyện có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế đối ngoại, thúc đẩy sự phát triển kinh doanh dịch vụ trên địa bàn song cũng nẩy sinh nhiều thách thức, khó khăn trong việc phát triển mọi mặt nói chung, bảo vệ An ninh – Quốc phòng, quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu và kiểm soát chống buôn lậu nói riêng.

  1. Đặc điểm địa hình, khí hậu

2.1.  Địa hình

Bình Liêu là huyện có địa hình miền núi, độ cao trung bình từ 500 – 600 m so với mặt nước biển, có xu hướng thấp dần từ Đông Bắc – Tây Nam, với nhiều đỉnh núi cao trên 1000m (Cao xiêm 1.330m; Cao Ba lanh 1.113m; Ngàn Chi 1.160 m…) Về cấu trúc địa hình huyện Bình Liêu đa dạng, phân dị, bị chia thành 3 tiểu vùng:

  1. a)Tiểu vùng núi thấp và trung bình Tây Bắc sông Tiên Yên

Độ cao trung bình trên 600m, gồm phần nửa phía Bắc các xã Vô Ngại, Tình Húc, Lục Hồn, Đồng Tâm, Hoành Mô. Địa hình bị chia cắt mạnh tạo thành nhiều dãy hướng núi, có nhiều đỉnh núi cao 800 – 1.000m dọc trên đường biên giáp Trung Quốc. Độ dốc bình quân khoảng 30 độ và có nhiều sườn dốc hiểm trên 35 độ. Đất đai bị xói mòn, rửa trôi khá mạnh, phần lớn là đồi núi trọc hoặc cây lùm bụi, cỏ tranh.

  1. a)Tiểu vùng núi thấp và núi trung bình Đông Nam

Độ cao trung bình 600 – 700m, độ dốc bình quân khoảng 25 – 28 độ, gồm các xã Đồng Văn, Húc Động, phía nam xã Hoành Mô, một phần các xã Đồng Tâm, Lục Hồn, Tình Húc. Đặc điểm cấu trúc địa hình khá phức tạp, tạo thành những dãy núi lớn với nhiều đỉnh cao trên 1000m (Cao Xiêm 1.429m), những dãy núi cao nằm trên đường phân thủy huyện Bình Liêu với huyện Hải Hà, Đầm Hà (Đỉnh Nam Châu Lãnh 1508m)… Đất đai của  tiểu vùng chưa bị thoái hóa nhiều, có những điểm mặt bằng dưới 15 độ, thích hợp với các loại cây đặc sản như hồi, quế, sở…

  1. b)Tiểu vùng đồi núi thấp và thung lũng ven sông Tiên Yên

Từ Đồng Văn đến Vô Ngại theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, độ cao trung bình khoảng 300 – 400m, độ dốc thấp dưới 15 độ. Tiểu vùng này chủ yếu là đồi thấp, dốc thoải, nhiều ruộng bậc thang, được sử dụng để sản xuất nông nghiệp, diện tích trồng lúa nước tập trung ven sông.

Địa hình đa dạng, phân dị phức tạp, bị chia cắt như trên nên rất khó khăn cho sản xuất nông – lâm nghiệp cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng. Tiểu vùng (c) là địa bàn sản xuất nông nghiệp chính, nông – lâm kết hợp, trang trại vườn rừng, trồng cây ăn quả. Ở các vùng sâu, vùng xa có những khó khăn về địa hình, giao thông không thuận tiện, dân cư thưa thớt…đã ảnh hưởng đến sản xuất nông – lâm nghiệp. Những đặc điểm và cấu trúc địa hình của huyện là những khó khăn, thách thức lớn đối với phát triển của huyện nói chung, xây dựng nông thôn mới ở các xã nói riêng hiện tại và trong tương lai.

2.2. Đặc điểm và tính chất các loại đất

Trên địa bàn huyện Bình Liêu hình thành các loại đất chính thuận lợi cho phát triển sản xuất nông – lâm nghiệp sinh thái đa dạng:

– Đất feralit biến đổi do trồng lúa.

– Đất thung lũng dốc tụ, phù sa ngòi suối.

– Đất feralit đỏ vàng vùng đồi núi phát triển trên đá phiến thạch sét.

– Đất feralit đỏ vàng đồi núi thấp trên đá macma axit.

– Đất feralit vùng đồi và núi thấp phát triển trên đá sa thạch, cuội kết phân bố ở hầu hết diện tích đồi, núi thấp độ cao dưới 700m.

– Đất feralit có mùn phát triển trên đá macma axit phân bố trên đỉnh và các sườn núi ở độ cao trên 700m ở  hai khu vực Bắc và Nam sông Tiên Yên.

2.3. Đặc điểm khí hậu, thủy văn

Do ảnh hưởng của vị trí địa lý và cấu trúc địa hình, khí hậu của huyện Bình Liêu là khí hậu miền núi khá điển hình, phân hóa theo đai cao, tạo ra những tiểu vùng sinh thái nhiệt đới và á nhiệt đới thuận lợi cho phát triển đa dạng các loại cây trồng, vật nuôi. Ở vùng đồi núi cao, ven khe suối thích nghi với các loại cây công nghiệp như hồi, quế, trẩu, sở; vùng thấp phù hợp với các loại cây ăn quả như nhãn, vải, cam, hồng…

Yếu tố hạn chế của khí hậu là trong mùa khô rất thiếu nước, chịu ảnh hưởng của các hiện tượng thời tiết bất lợi như băng giá, sương muối. Nhiệt độ trung bình trong năm từ 18C – 28C, nhiệt độ trung bình cao nhất mùa hạ từ 320C – 34C, nhiệt độ trung bình thấp nhất mùa đông từ 5C – 15C, thỉnh thoảng có sương muối, băng giá ở vùng núi cao. Lượng mưa khá cao, nhưng không điều hòa, bình quân từ 2000 – 2400 mm/năm, số ngày mưa trong năm là 163 ngày, khoảng 70% lượng mưa tập trung từ tháng 5 đến tháng 9, sườn phía đông các dãy núi mưa nhiều từ 2400-2800mm.

Bình Liêu có nhiều sông suối nhỏ, ngắn và dốc, tụ hội chảy vào sông Tiên Yên bắt nguồn từ vùng núi biên giới Việt – Trung, chảy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, có độ dốc lớn, lòng sông nhiều thác ghềnh.

Thủy chế các sông suối miền núi khá phức tạp, mà sự tương phản chính là sự phân phối dòng chảy không đều trong năm. Mùa mưa lượng nước dồn nhanh về sông chính, tạo nên dòng chảy lớn và xiết, gây lũ ngập lụt. Về mùa khô trên các xã vùng cao tình trạng thiếu nước rất phổ biến vào các tháng mùa đông (từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau)  dòng chảy cạn kiệt, mực nước sông rất thấp.

Điểm du lịch và đặc sản của huyện

– Nhiều người ví Bình Liêu như Sa Pa của vùng Đông Bắc Việt Nam. Nơi đây nổi tiếng với phong cảnh miền núi, biên giới hùng vĩ, những thửa ruộng bậc thang, các di tích danh thắng như thác Khe Vằn, bãi “Đá thần” ở đỉnh núi Cao Ba Lanh, núi Cao Xiêm… Bình Liêu còn có nhiều phong tục tập quán đặc sắc của dân tộc người Dao, Tày, Sán Chỉ. Bình Liêu đang từng bước khai thác thế mạnh này để tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo, thu hút du khách.

Huyện đã tiến hành khảo sát, lập hồ sơ trình tỉnh công nhận 3 tuyến và 8 điểm du lịch: Thác Khe Vằn; đình Lục Nà; cửa khẩu Hoành Mô và cột mốc biên giới 1317; chợ trung tâm huyện; chợ Đồng Văn; bản, thác Khe Tiền; bản Sông Moóc; núi Cao Ba Lanh.

– Bình Liêu có các đặc sản nổi tiếng xôi 7 màu, miến dong Bình Liêu, cá suối nướng, canh rau rừng… mật ong tự nhiên, rượu thảo dược, rượu men lá, rượu khoai; lá tắm cho mẹ và bé sau sinh. Có rất nhiều món ăn đặc trưng của từng dân tộc được chế biến cầu kì, mang đậm nét đặc trưng như: các loại bánh, khau nhục, nằm quắt…

Lịch sử – văn hoá – xã hội

Đồng bào các dân tộc ở Bình Liêu có truyền thống đánh giặc giữ nước từ lâu đời. Trên đỉnh núi Cao Ba Lanh giáp biên giới có những hòn đá rất lạ, gõ vào đá phát ra tiếng kêu gần giống tiếng chuông và lại nghe tiếng vang ở cả các hòn khác. Có truyền thuyết về những ‘’hòn đá thần’’ có tiếng vang làm quân giặc bên kia biên giới gục ngã. Lại có chuyện người dũng sĩ cưỡi ngựa đánh giặc nay còn ghi dấu ở nhiều địa danh như Bãi Dáo, Mạ Trạt (ngựa trượt) và chuyện về giống tre mọc ngược do lời thề của người dũng sĩ khi chống gậy dừng chân. Sử sách còn ghi lại những trận đánh đuổi giặc cướp từ bên kia biên giới tràn sang, nhất là cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX-những năm đầu thời Nguyễn, bên kia là thời nhà Thanh. 
Trong thời thuộc Pháp, từ đồn Bình Liêu, viên đội người Tày Thàm Cam Sláy, thường gọi là Đội Sáng, đã tổ chức binh sĩ làm binh biến. Được nhân dân hưởng ứng, sau khi đánh đồn Bình Liêu nghĩa quân ra vùng rừng núi phía đông lập căn cứ, căn cứ mở rộng đến vùng núi phía bắc Hà Cối và vùng núi PanNai của Móng Cái. Lực lượng đông dần lên tới vài trăm người, đã nhiều lần tập kích cả đồn Hà Cối và uy hiếp Móng Cái. Cuộc khởi nghĩa kéo dài gần 2 năm, chấn động cả vùng Đông Bắc, từ cuối năm 1917 đến giữa năm 1919 mới chịu thất bại. 
Đến Cách mạng Tháng Tám, khi mấy sĩ quan Nhật vừa rút chạy, nhân dân Bình Liêu và binh lính đồn Bình Liêu đã nô nức chào đón Việt Minh. Tháng 11-1945 Bình Liêu thành lập chính quyền cách mạng. Giữa năm 1946 bọn Việt Cách theo chân quân Tưởng tràn vào Bình Liêu và đầu năm 1947 quân Pháp quay lại chiếm đóng, nhân dân Bình Liêu kiên cường kháng chiến. Cùng với Chiến dịch Biên giới, ngày 25-12-1950, quân đội ta vây đánh đồn Bình Liêu, buộc quân Pháp rút chạy, Bình Liêu được hoàn toàn giải phóng và trở thành căn cứ kháng chiến của tỉnh Hải Ninh. Các cơ quan đầu não của tỉnh từ đây tiến về các huyện đẩy mạnh chiến tranh du kích. 
Về văn hoá, Bình Liêu có tập quán và nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian đặc sắc của nhiều dân tộc. Đồng bào không theo tôn giáo nào, cả huyện không có chùa, nhà thờ, chỉ có mấy ngôi đình nhỏ thờ thành hoàng. Các gia đình và dòng họ chỉ có tục thờ cúng tổ tiên. Sinh hoạt văn hoá xưa kia tập trung nhất là hội au-pò của người Tày và người Sán Chay vào các ngày 14,15,16 tháng 3 âm lịch. Những ngày đó, nam nữ thanh niên từ các bản kéo về thị trấn huyện lỵ gặp gỡ tâm tình, hát đối đáp giao duyên bằng các làn điệu dân ca. Người Tày có các điệu sli, tì làu, then. Người Sán Chay có hát xoóng cộ và thường từng đôi bạn gặp nhau suốt ngày 16. Trong ngày hội au-pò và những ngày đầu xuân ở bản làng, bà con còn chơi đàn tính, ném còn, chơi gụ.

 

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây