Giới thiệu khái quát huyện Kỳ Anh

Giới thiệu khái quát huyện Kỳ Anh

Giới thiệu khái quát huyện Kỳ Anh

Kỳ Anh có diện tích tự nhiên khá rộng, 1.055,99 km , bằng một phần sáu diện tích toàn tỉnh, nhưng 74% lại là đồi núi. Đây là mảnh cuối một chi của dãy Trường Sơn bắc mọc lấn ra biển. Hoành Sơn, không chỉ dãy núi phía nam huyện mang tên ấy, mà thật sự, địa bàn toàn huyện là một “Hoành Sơn”. Qua bờ nam sông Rác cuối huyện Cẩm Xuyên, tầm mắt đã bị núi chắn ngang. Rồi từ địa bàn khe Su vào tận Đèo Ngang là một mạng núi đồi dày đặc từ Tây sang Đông, trừ một vùng hẹp mấy xã hạ lưu Sông Trí. Toàn bộ dải đất này được đặt trên nền đá gốc như một tảng móng vững chải và có tuổi địa chất cùng với khối Trường Sơn bắc (1) .

Bề mặt bào mòn dữ dội, nên trừ vài ngọn ở Hoành Sơn, núi ở đây chỉ có độ cao trung bình từ 200 đến 500m. Hệ thống đồi thấp nối liền các ngọn núi thì hầu như bị san phẳng, có khi chỉ cao hơn đồng ruộng xung quanh vài ba mét. Dọc phía tây Quốc lộ 1A từ Kỳ Phong đến Kỳ Tân, Kỳ Hoa vào tận Kỳ Trinh, Kỳ Long và rải rác ở phía đông quốc lộ, có những dãy đồi, ngọn đồi cao hơn nhưng cao nhất cũng không quá 40m.

Liền với các núi ở Cẩm Lạc, Cẩm Sơn, Cẩm Thịnh (Cẩm Xuyên) phía tây là khối núi đồi Vọng Liệu chiếm ngót nửa diện tích toàn huyện, nằm trên 6 xã “vùng cao”: Kỳ Thượng, Kỳ Tây, Kỳ Sơn, Kỳ Hợp, Kỳ Lâm, Kỳ Lạc. Giữa vùng núi đồi ken dày bị chia cắt bằng những suối, rào và thung lũng hẹp, nổi lên những đỉnh cao, đỉnh Động Cay (301m), Động Chùa (544m), Động Hương (190m), Rú Bòi (501 m)… ở mạn bắc, động Le Le (439m), Động Nậy (646m), rú Khe cấy (200m), rú Bà Hới (193m), động Kẻ Đỏ (459m), động Bá Đen (?), động Hồ Nhuây (494m) ở mạn nam, là phần trên của dãy Hoành Sơn.

Phía bắc huyện, liền lưng với Rú Rác, Rú Cửa (Cẩm Xuyên) là dãy núi chạy từ Kỳ Phong – tây nam, qua Kỳ Bắc ra Kỳ Xuân – đông bắc, có các ngọn rú Voi (Tượng Ty, còn có tên Ngọc Thạch hay Tiên Chưởng), rú Vang (333m – hay rú Cờ-Kỳ Đầu- sách cổ còn có chép là Yên Tâm có ngọn Cờ, ngọn Trống, ngọn Voi…)

Dãy Hoành Sơn phía nam, từ khối núi Vọng Liệu với nhiều ngọn cao 400- 650m đi xuống đông nam, qua các xã Kỳ Thịnh, Kỳ Long, Kỳ Phương, Kỳ Nam, có ngọn Ba Cốc cao tới 823m (2) rối thấp dần đến mút cuối mũi Đao, mũi Độc, Đèo Ngang (256m), là cửa ngõ thông sang tỉnh Quảng Bình.

Từ Vọng Liệu đổ xuống phía đông, lấn tận chân các núi ven biển, cũng là một mảng đồi núi thấp, trong đó nổi lên các ngọn Động Cấp (376m), Ba Cụp (Tam Thai 105m), rú Mười Lăm (45m), Động Chào (225m), rú Lôi Tiên (266m), rú Yên Mã (231m), rú Hoả Hiệu (Rú Mầu).

Dọc mé biển, từ Kỳ Xuân đến Kỳ Nam có nhiều ngọn núi cao thấp như những bức rèm che kín phía đông: rú Trân, rú Dân (243m) ở Kỳ Tiến, rú Hương (Càn Hương), rú Ba Đọ (Bàn Độ- 441m) ở Kỳ Khang, rú Đông Lĩnh ở Kỳ Ninh; rú Voong (hay rú Vương – Cao Vọng, có các ngọn cao 308m, 350m), và rú Sơn (367m), Đỉnh Chùa (230m – trên bán đảo mũi Dòn) ở Kỳ Lợi… Ngoài mũi Dòn có hai hòn đảo: hòn Con Dê (Sơn Dương 133m – có sách chép là Hòn Yến) và hòn Con Chim (ở phía đông bắc hòn Con Dê), cũng thuộc hải phận Kỳ Lợi.

Cuốn “ Thiên nhiên Việt Nam ” (SĐD) viết “Thiên nhiên ở vùng này có vẻ nghiêm nghị hơn với những núi đá màu xám lan ra đến tận biển”. Ở vùng Đèo Ngang, “đặc tính của đá cấu tạo biểu hiện rất rõ rệt trong hình thái của các núi. Những ngọn ở trung tâm trồi lên cao nhất có sườn dốc, đỉnh nhọn, được cấu tạo bằng đá granit, các núi bao quanh thấp hơn nhiều, có sườn hơi dốc đến thoải, gồm có cuội kết, cát kết, túp và riôlit”. Cấu tạo của các núi đá khác cũng tương tự, còn vùng đồi trọc thì bề mặt bị bào mòn và phong hoá.

Mấy câu thơ của tiến sĩ Dương Thúc Hạp cũng miêu tả khá cụ thể cảnh quan Kỳ Anh:

“Sơn tòng Vọng Liệu tằng loan hạ,

Địa thị Kỳ Anh lục thụ đa.

Phiếu Diếu cao phong lâm cự hải

Sà nga liệt bích chướng trường sa”

(Bàn Độ Sơn – Nghệ Tĩnh Sơn Thuỷ vinh) (3)

Núi non tầng tầng lớp lớp từ Vọng Liệu đi xuống

Đất Kỳ Anh cây rừng rợp bóng xanh um.

Những ngọn núi cao chất ngất kéo ra tận biển lớn,

(Như) những bức thành chót vót dăng bủa trên bãi cát dài…)

Thời xa xưa, toàn bộ đất Kỳ Anh bây giờ bao phủ một thảm rừng dày từ Vọng Liệu xuống tận bờ biển. Nhưng ngày nay, rừng đã bị tàn phá, chỉ còn vùng đồi núi ở Kỳ Thượng – một tiểu khu của Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ còn giữ được mọt phần cảnh quan xưa với thảm rừng nguyên sinh và hệ thực vật, động vật phong phú còn sót lại.

(1) Trường Sơn bắc nguyên là một địa máng tồn tại từ đầu đại cổ sinh, qua những pha đầu của vận động uốn nếp Hécxini thì nổi lên và dính liền vào khối Kon Tum. Cả trong chu kỳ tạo núi Indoxini vào đầu đại trung sinh vẫn ổn định. Từ cuối đại trung sinh nằm trong trạng thái yên tĩnh, trong đó hoạt động bóc mòm, xâm thực được tiến hành mạnh mẽ. (“Thiên nhiên Việt Nam” của Lê Bá Thảo)

(2) Có một số sách, tài liệu và bản đồ ghi dãy Hoành Sơn có ngọn cao tới 1064m, 1046 hoặc 1007m, nhưng không chép rõ tên ngọn núi nào. Ở đây, chúng tôi dựa theo bản đồ Hà Tĩnh tỉ lệ 1/200.000, không đề tên cơ quan xuất bản, năm xuất bản

(3) Tư liệu của Võ Hồng Huy

NÚI NGỌC THẠCH VÀ NÚI KỲ ĐẦU

Sách “Kỳ Anh phong thổ ký” (1) chép: “Núi Ngọc Thạch ở phía bắc huyện thuộc thôn Hữu Lễ xã Tuần Tượng (nay là Kỳ Phong và Kỳ Bắc). Núi này là giới hạn hai huyện Kỳ Anh và Cẩm Xuyên. Trên đỉnh núi có tảng đá lớn dựng đứng, thạch nhũ rủ xuống như ngọc, nên núi mang tên là Ngọc Thạch. Hình núi như con voi, phía đông bắc một dãy vươn ra biển như cái vòi voi cuốn nước cho nên lại có tên là núi Voi (Tượng Tỵ). Dưới chân núi có mộ phát tích của quận công họ Lê (2) . Sách “Đại Nam nhất thống chí ” (Tập II) lại chép một tên khác là núi Tiên Chưởng và giải thích “…trên núi có đá lớn đứng sững, thạch nhũ rủ xuống trông như hình ngón tay”. Sách này còn chép về núi Tượng Ty: “hình núi như vòi voi nên gọi tên thế. Đời Lê lập trường nuôi voi ở đây. Lại có núi Lạc Hạ cũng ở địa phận xã này, hình như cái vạc úp”.

Về núi Kỳ Đầu, hai sách trên đều chép tương tự “Núi Kỳ Đầu ở địa phận thôn Như Nhật (Kỳ Xuân), phía tây nối liền với núi Ngọc Thạch, phía đông liền với núi Voi, sông Rác bao quanh. Hình núi như lá cờ giương cao, nên có tên là Kỳ Đầu”. Và đây là một huyền thoại, theoSử ký , “thì khoảng Lê Cảnh Hưng (1740-1786) có tảng đá lớn từ dưới biển tự dời lên tới đỉnh núi, rồi đến đời Tự Đức (1848-1883) tảng đá ấy lại từ đỉnh núi tự dời xuống biển. Đường đá trượt qua, hiện nay vẫn còn dấu ngấn”. Ở thôn Như Nhật còn có núi Yên Tâm “thế núi tôn nghiêm, có các ngọn Cờ, ngọn Trống, ngọn Voi, ngọn Ngựa ở hai bên cùng hướng vào (SĐD).

Ở đây có một đỉnh núi sát biển gọi là “Bằng sư” “mùa hè và mùa thu có chim cu kỳ tụ tập, người địa phương đào lỗ chứa nước nhử chim xuống uống nước rồi đặt bẫy trập để bắt”. Núi này cũng là nơi phong cảnh rất đẹp. Ngọc Minh, trong bài “ Hoành Sơn ca ” viết về đất và người Kỳ Anh đã ca ngợi:

“…Núi cùng biển kề vai sánh bước,

Lên Bằng Sư, xuống trước Bãi Lài;

Cu kỳ vỗ cánh thi tài,

Bay, bay.tô điểm biển trời mênh mông…

Ta với mình đứng trông tiên cảnh,

Gió lành đâu sóng sánh Bằng Sư,

Bồng bềnh thực thực hư hư,

Trời mây cây nước hiện từ Bồng lai…”

  1. Sách do Lê Đức Trinh viết năm 1931, bản dịch của Thanh Minh
  2. Tức Lan quận công Lê Thát, quê ở Hữu Lễ sống vào thế kỷ XVI

NÚI HOÀNH SƠN

Hoành Sơn – dãy núi Ngang – ở phía nam huyện Kỳ Anh, xưa là biên giới tự nhiên giữa hai quốc gia Việt – Chiêm, nay là địa giới hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình. Khối núi này chiếm một diện tích 1.500 km , kéo dài từ phía tây Vọng Liệu (Kỳ Anh) đến Tuyên Hoá (Quảng Bình) đến mút phía đông là mũi Đao, mũi Độc (Kỳ Nam). Núi chỉ có độ cao trung bình 400m, nhưng cũng có đỉnh cao tới 646m (như Động Nậy), hoặc 823m (ngọn Ba Cốc). Đèo Ngang vắt qua núi, từ phía bắc vào là đèo Con rồi đèo Nậy (256m). Từ vùng đèo Ngang chảy xuống, có nhiều dòng khe: khe Bò, khe Du, khe Di, khe Bàn Thạch ở mái bắc; khe Mộc Miên (khe Bông) ở phía nam. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” chép “xã Hoằng Hoá, thuộc huyện Kỳ Hoa phía đông giáp châu Bố Chánh (Quảng Bình) có khe Mộc Miên làm giới hạn”.

Hoành Sơn cũng là biên giới khí hậu bắc – nam. Phía Hà Tĩnh, mùa đông có gió mùa đông bắc mạnh, còn mùa hè gió Lào dữ dội; lượng mưa hàng năm rất lớn 3.000 mm/năm. Trong khi đó, Quảng Bình chỉ cách 10 km mà gió mùa rất yếu. Do điều kiện khí hậu, cây cỏ phát triển nhanh. Ngày xưa toàn bộ dãy Hoành Sơn bao phủ một thảm thực vật dày đặc, những cánh rừng bạt ngàn. Dưới lớp rừng ấy là đủ loại động vật quý: voi, hổ, tê, ngựa, hươu, nai, gà lôi, công, trăn, rắn… “Nhưng những “chú tiều” của bà Huyện Thanh Quan không còn thấy nữa, rừng đã bị tàn phá, bây giờ chỉ còn lại lau và cây bụi khô cằn, mọc trên đất đỏ vàng, che lấp những miếu nhỏ, những thành lũy đổ nát ngày xưa còn lại” (Thiên nhiên Việt Nam – SĐD). Ngày nay, những rừng thông, rừng gỗ mới trồng đã bắt đầu trải màu xanh trên mái núi.

Nằm trên biên giới Việt – Chiêm thời xa xưa rồi thời phân tranh Trịnh – Nguyễn và sau này là vị trí quân sự hiểm yếu, Hoành Sơn luôn luôn là đất chiến địa, đất của gươm đao, súng đạn. Suốt trong quá trình lịch sử, cho đến những ngày chống Mỹ, ở đây không mấy buổi được yên. Huyền thoại về công chúa Liễu Hạnh cũng dựng lên hình ảnh cuộc đấu giữa bà chúa Liễu với Bát bộ kim cang… (1) . Nhưng luôn luôn Hoành Sơn vẫn là một danh thắng nhất nhì ở Nghệ – Tĩnh, với cảnh đèo Ngang kỳ tuyệt, với luỹ cổ Lâm Ấp đồ sộ, với cửa quan Hoành Sơn, với bảo Thống Lĩnh (Xuân Sơn). Phạm Quý Thích (1760 – 1825) có câu thơ về cảnh thiên nhiên bao la (Thái Kim Đỉnh dịch):

“Cát trắng mênh mông, mây cát sôi

Ngàn xanh thăm thẳm, bể xanh trôi…”

Còn Nguyễn Trường Tộ (1828- 1871) lại có câu thơ nhắc lại dấu vết trường tồn của con người (Thái Kim Đỉnh dịch):

“Luỹ chiến đổ rồi, còn vết cũ,

Bia vua dựng đó, dấu non thiêng”.

Và cụ Nghè Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) cũng có bài thơ “ Qua núi Hoành Sơn ” với mấy câu:

“… Một đường xe điện dừng không đứng,

Hai cánh rừng cây dậy muỗi bay.

Thử hỏi nghìn năm hồn nước cũ,

Hồng Lam danh thắng vẫn xưa nay”

 

(1) Xem phần hai

NÚI BÀN ĐỘ

Núi Bàn Độ, tục gọi rú Đọ hay rú Ba Đọ, ở làng Đậu Xá. “ Đại Nam nhất thống chí ” chép ở làng Phú Duyệt, tổng Đậu Chử, nay là xã Kỳ Khang. Sách “Kỳ Anh phong thổ ký” của Lê Đức Trinh mô tả: “Núi nổi lên giữa thôn Đậu Xá cao lớn, rậm rì, phía đông ra tới bể. Trên núi bằng phẳng trông giống như cái mâm vàng đặt qua mặt bể nên gọi là núi Bàn Độ”. Trên núi có đầm, gọi là đầm Tiên. Tương truyền “ngày xưa tiên nữ xuống chơi đầm ấy” (Nghệ An ký) . “Lại có một tảng đá lớn như bàn cờ, tương truyền đó là bàn cờ tiên. Những hòn đá nhỏ la liệt xếp trên đó giống như là những quân cờ. Hành khách đi qua xáo trộn đi, lúc trở về lại thấy đã được sắp lại như cũ. Đây còn là việc mơ hồ, không xác thực…” ( Kỳ Anh phong thổ ký ). Trên núi lại có ngôi chùa cổ, các sách xưa chép là chùa Bàn Độ, còn nhân dân thường gọi là chùa Ngâm (?). “Phía tả chùa có suối dài bảy, tám trượng trên không có nguồn, dưới sâu không đáy, ngày đêm nước chảy, rất trong mát” ( Đại Nam nhất thống chí – Tập II- Bản của Quốc sử quán). Sách Đại Nam nhất thống chí (tập 13, Các tỉnh địa dư chí – 1909) chép thêm: “phía trước chùa có cái kênh nhỏ thông ra biển. Ngày nay cửa kênh đã bị bồi lấp thành đất bằng, nước suối không có nguồn thông, ngày đêm phun tràn rất mạnh. Tương truyền xưa có đám dân đánh cá người Thanh (Trung Quốc) ghé thuyền vào kênh, huênh hoang làm thơ (1) rồi lên núi dựng chùa, làm nhà để trú ngụ khi đến biển Nam đánh cá”.

Gần núi Bàn Độ, ở địa phận xã Kỳ Ninh có ngôi đền thờ Chế Thắng phu nhân Nguyễn Cơ Bích Châu. Người xưa kể thêm một truyền thuyết về núi: “Khi Trần Duệ Tông (1372 – 1377) đi đánh Chiêm Thành, thuyền đến dưới núi không tiến lên được. Vua phải lấy một cung nhân để vào một cái mâm vàng đem thả xuống nước cho thuỷ thần thì thuyền đi được” (Nghệ An ký). Từ hình núi “trông giống như cái mâm vàng đặt qua mặt biển” và từ truyền thuyết “lấy một cung nhân để vào cái mâm vàng thả xuống biển mà người ta luận ra chữ“Kim bàn độ hải” rồi cho rằng đó là xuất xứ của tên núi. Kỳ thật, Bàn Độ chỉ là phiên âm tên nôm rú Đọ, Ba Đọ. (Có người còn đọc là Bán Độ, nửa đường).

Phía đông núi Bàn Độ (ở làng Trung Giáp xã Kỳ Khang) còn có ngôi đền Thánh mẫu (chưa rõ Thánh mẫu đây là bà Bích Châu, hay Thánh mẫu Càn vương, tức bà Thái Hậu nhà Tống như có người nói). Ở mé nam, còn di tích ngôi chùa Đá. Câu ca “lắm hươu Bàn Độ” gợi lên cảnh rừng Bàn Độ giàu có xưa và câu ca “có Hoành Sơn, Bàn Độ mới dĩnh sinh nhân tài” đã chứng minh vị trí của núi trong đời sống tinh thần, văn hoá của đất Kỳ Anh. Từ Dinh Cầu nhìn ra, Hiệp trấn Hoàng giáp Bùi Huy Bích (1744-1818) có câu thơ vịnh cảnh núi Bàn Độ (Thái Kim Đỉnh dịch):

“Nửa bức che ngang diềm bãi cát

Làn mây sà xuống trước châu thành”

Trước đó, năm Giáp Ngọ (1774), các cống sỹ xứ Nghệ về ứng điểm ở Dinh Cầu, đường vào qua dưới núi, có người đề xướng làm thơ vịnh, lấy vần “bàn”, hẹn đi vài chục bước phải xong. Bài thơ “Bàn Độ sơn” của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp (1723- 1804) được bình là hạng nhất. Về sau, còn rất nhiều thi sĩ làm thơ về ngọn núi này… (2).

 

(1) Sách Kỳ Anh phong thổ ký chép bài thơ như sau:

Ngư hàng xuất hải (thuyền chài ra biển)

Nhập để trung châu (vào làm vua trung châu)

Tiền nhất ba vi nhất quân (trước mỗi ngọn sóng là một tên quân)

Hậu nhất sơn vi nhất mã (sau mỗi ngọn núi là một con ngựa)

Quả thật bài thơ không có giá trị gì, có lẽ đây chỉ là câu hát của dân đánh cá Tàu.

(2) Ở làng Vĩnh Ái, nay thuộc Kỳ Khang, còn có rú Hương, các sách cổ chép là núi Càn Hương. Dân gian thường gọi hai ngọn núi này là “Ông Hương, bà Độ”

NÚI CAO VỌNG

Núi Cao Vọng có nơi chép Cao Vương, tục gọi Rú Voong, ở xã Bình Lễ, sau là xã Vĩnh Áng, tổng Hoằng Lễ nay thuộc xã Kỳ Lợi. “Núi nổi cao hai ngọn xế ra biển, phía nam là núi Ô Tôn (phiên âm tiếng Dòn), phía đông liền với biển; có vũng bao quanh như cái ao, gọi là núi Yên Ao. Dưới chân núi có giếng đá, tục gọi là giếng Ếch vị nước rất ngọt. Thuyền buôn qua lại đều tới đây lấy nước uống. Ngày trước ở đây có đồn thú canh giữ” ( Kỳ Anh phong thổ ký ).

Năm 1407, quân Minh mượn cớ đánh nhà Hồ, đưa quân sang xâm lược nước ta. Họ Hồ thua, chạy vào Châu Hoan. Nhưng Hồ Quý Ly đến núi Thiên Cầm, đất Kỳ La, thì bị bắt. Còn Hồ Hán Thương, cùng thái tử Nhuế cũng bị đầu mục của Mạc Thuỷ là Nguyễn Như Khanh bắt ở núi Cao Vọng. Ngày nay, ở núi Thiên Cầm có “hang Hồ Quý Ly” và ở núi Cao Vọng cũng có “hang Hồ Hán Thương”. Sự kiện này còn được chép trong sử sách và truyền đi bằng hai câu thơ cổ:

“Kỳ La hải khẩu ngâm hồn đoạn

Cao Vọng sơn đầu khách tứ sầu”

Thái Kim Đỉnh dịch:

Trước cửa Kỳ La hồn thơ tắt

Đầu non Cao Vọng dạ người đau.

Bùi Huy Bích, trong bài thơ “ Vịnh núi Cao Vọng ” cũng có câu:

“ Trương Phụ lai thời thanh thạch lão

Hán Thương khứ hậu bạch vân lưu”.

Thái Kim Đỉnh dịch:

Đá cũng bạc đầu, Trương Phụ đến

Mây còn trắng núi, Hán Thương đi.

Trên núi Cao Vọng lại có ngôi đền thờ thần Sát Hải (1) và miếu thờ ông ba họ Chu.

(1) Sát Hải tướng quân là vị tướng đời Trần, tên là Hoàng Tá Tốn, quê ở cửa Vích (Quỳnh Lưu) có công trong cuộc chống Nguyên Mông, được sai trấn giữ mạn biển Nghệ An (Nghệ Tĩnh), sau dân nhiều nơi lập đền thờ. Ở Kỳ Anh lại có truyền thuyết: Ông quan giữ cửa Khẩu báo việc bão tố, bị nghi, rồi bị giết oan. Dân lập đền thờ.

II. ĐỒNG BẰNG

Trên mười vạn năm trước, toàn bộ vùng đồi thấp trên đất Kỳ Anh đều ngập sâu dưới nước còn những ngọn núi thì nhô lên như một quần đảo. Sau đó, mặt biển hạ thấp xuống tới 120m, vịnh Bắc Bộ và mé tây biển Đông là dải đất liền nối đảo Hải Nam (Trung Quốc) với quần đảo Nam Dương (Inđônêxia). Cho đến cách đây chừng vài vạn năm, nước biển mới lại dâng lên như mức bây giờ. Tuy nhiên, giữa lòng địa bàn Kỳ Anh và dọc ven biển vẫn còn là vũng biển cạn. Những ngọn rú Hương, rú Đọ, rú Voong, rú Sơn là dãy đảo. Từ sau cuộc vận động kiến tạo đầu kỷ đệ tứ, nâng rìa đá gốc lên, làm đứt gãy một phần rìa đó, tạo điều kiện cho phù sa sông suối và phù sa biển bồi tụ, các vũng biển ở miền Trung, trong đó có Kỳ Anh, được lấp cạn dần. Ngày nay, ta thấy từ Thanh Sơn (Kỳ Văn) xuống Kỳ Thư, Kỳ Châu, Kỳ Hưng, Kỳ Hải, Kỳ Hà, đồng điền khá rộng và bằng phẳng. Đó là vũng biển cũ được bồi lấp qua hàng vạn năm. Đến bây giờ, các sông, hói (sông Kinh, sông Trí, sông Quyền) vẫn còn đổ vào một vũng biển nhỏ cuối xã Kỳ Hà trước khi chảy ra cửa Khẩu và vùng này vẫn tiếp tục bị bồi lấp.

Ngoài dải đồng bằng nhỏ hẹp này, ruộng nương Kỳ Anh hầu hết đều ở ven núi đồi, vừa hẹp, vừa bậc thang. Nhưng ruộng thường có nước, bùn sục (như ở vùng Voi, vùng Vọng Liệu) có nơi là ruộng nẩy (như ở bắc khe Miệu, Đại Hào, Du Phong). Các xã dọc sông Kinh; ở mạn bắc, đồng điền nằm ven núi đá, đồi trọc, mùa mưa thường ngập nước (có nơi ngập từ 0,5- 1m), mùa nắng một số nơi có nước ngầm. Dọc biển ở mạn bắc là dải cát hẹp cao hơn đồng ruộng có khi tới 1- 2 m. Còn ở mạn nam từ Kỳ Lợi vào Kỳ Nam là dải phù sa biển dồn lên như những đợt sóng, cao 2-3m, có nơi cao 6-7 m. Cùng với phù sa, sông nước mặn tạo thành cánh đồng cát pha Hoằng Lễ (Kỳ Phương, Kỳ Nam) (1).

(1) “…Đồng bằng duyên hải Kỳ Anh chỉ còn là một dải phù sa biển hẹp, trên đó nổi lên những cồn cát cao (Thiên nhiên Việt Nam – SĐD). “… Vùng này có những quả núi xen kẽ với những đồng ruộng bạc màu. Những quả đồi bị mài mòn vì nước biển, những đụn cát và những lớp sò hoá thạch nằm trong đất, làm phát lộ nguồn gốc địa chất…” (Bờ- rờ – tông An Tĩnh cổ – H.le Berton, Le Vieux An Tinh – Bản dịch của Nguyễn Bân).

III. SÔNG NGÒI

Kỳ Anh là vùng đất núi đồi, bị chia cắt bởi mạng lưới khe, hói dày đặc, nhưng không có sông lớn. Những khe, suối vùng rú Cày, động Chùa, động Cấp, mạn tây bắc đổ vào sông Rác và hói Dành mà chảy ra cửa Nhượng (Cẩm Xuyên). Ở vùng Vọng Liệu, tây nam, hàng trăm khe suối từ cụp Thao (Cẩm Xuyên) động Chùa, động Hồ Nhuây, động Nậy, rú Yên Mã, rú Bá Bạc, rú Bà Hợi đổ vào rào Trâm, rào Móc, rào Trà, rào Mọn (dài 26 km) rồi chảy sang đất Quảng Bình. Phía đông bắc, các khe suối từ rú Voi, rú Vang và các đồi núi xung quanh đều dồn nước vào sông Kinh chảy về đông nam, ra cửa Khẩu. Các khe suối vùng động Chào hợp lưu chảy qua Kỳ Văn, Kỳ Thọ, xuống Kỳ Ninh dài khoảng 8km, đổ ra cửa Khẩu. Các khe từ vùng Trại Cày, các khe Đồng Tràn, khe Ông, khe Côn từ Đại Đồng chảy xuống Thanh Sơn (Kỳ Văn), Đan Du (Kỳ Thư) và khe Cầu bắt nguồn từ rú Yên Ngựa, chảy vào hói Trí, rộng dần thành sông, đi qua Nhân Lý (Kỳ Hoa), Cầu Thị (Kỳ Châu), Văn Yên (Kỳ Hải), cùng sông Đình ở Hưng Nhân (Kỳ Hưng) đều đổ ra cửa Khẩu. Sông Trí dài khoảng 18 km, hạ lưu sông rộng từ 80 – 100m là con sông được coi là quan trọng ở Kỳ Anh. Hiện nay ở thượng nguồn sông Trí đã xây dựng hồ nước Kim Sơn (Kỳ Hoa) tưới cho ruộng đất năm xã ven sông.

Từ phía bắc dãy Hoành Sơn, mấy con khe Bò, khe Du, khe Di hợp lưu chảy qua làng Ngưu Sơn (Kỳ Nam) thành sông Nước Mặn (Xích Mộ hay Xích Lỗ), đổ ra cửa Nước Mặn. Còn khe Luỹ, khe Dâu, khe Miên, khe Lau, khe Đá Hát, khe Đầu Voi, khe Đá Bàn đều chảy theo hướng đông bắc đổ vào sông Quyền. Sông này tiếp tục chảy theo hướng bắc, qua Kỳ Phương, Kỳ Long, Kỳ Lợi, Kỳ Thịnh vòng lên phía tây đền Quyền Hành (Kỳ Trinh) hợp với khe Đá Bàn và ngoặt xuống sông Vịnh – cửa Khẩu (25km). Kênh Thần đầu đào từ đời Lê (7) gồm hai đoạn là kênh Sa Tắc (Cát Lấp) và kênh Trường Lang nối các đoạn sông Quyền tạo nên con đường thuỷ thông từ phía bắc huyện vào tận mé ngoài mũi Đao.

Như vậy, sông ngòi ở Kỳ Anh thật ra chỉ là một mạng lưới khe hói chảy trên vùng núi đồi và đổ vào những con sông hẹp, con rào hẹp và cạn, rồi theo hướng khác nhau mà ra biển. Các khe suối phía tây bắc đổ sông Rác, chảy ra cửa Nhượng (Cẩm Xuyên), phía tây nam đổ vào sông Gianh (Quảng Bình) và phía đông chảy ra cửa Khẩu, cửa Nước Mặn (cửa biển nay đã bị bồi lấp) .

SÔNG KINH HẠ

Sông Kinh Hạ thường gọi là sông Kinh, xưa kia gọi là kênh Rác, kênh Voi, là con sông đào cổ xưa, nối sông Rác ở Cẩm Xuyên với cửa Khẩu. Sông dài khoảng 35km, rộng trung bình từ 20 đến 25 m, có vài đoạn rộng tới 100 – 150m; đi qua các làng Văn Thai, Tư Dung, Nhân Mỹ (nay là xã Cẩm Lạc, Cẩm Xuyên), Hữu Lệ (Kỳ Phong), Yên Hạ (Kỳ Tiến), Phú Thượng (Kỳ Phú) chảy vào con hói qua vùng Kỳ Giang, Kỳ Khang, Kỳ Thọ, đến sông Cửa Khẩu (sông Vịnh) rồi ra biển.

Sách “ Đại Việt sử ký ” – Kỷ nhà Trần chép “Giáp Dần, năm Long Khánh thứ 2, đời vua Duệ Tông (1374), “tháng ba, xuống chiếu cho Thanh Hoá, Nghệ An đào kênh đến cửa biển Hà Hoa” (Cửa Khẩu). Đó là hệ thống những đoạn kênh đào nối sông Đáy ở cửa Thần Phù với các sông tự nhiên khác, cho đến Kênh Hạ là đoạn cuối. Đối với Trần Duệ Tông, việc đào kênh sông này chỉ nhằm mục đích quận sự. Trước đó, thuyền bè từ Bắc Hà vào đến đất Hà Tĩnh bây giờ, đều phải ra cửa Nhượng Bạn rồi ra biển mà vào châu Ô, châu Lý. Để tránh bớt nguy hiểm trên đường biển, vua Duệ Tông sai đào sông và đoàn chiến thuyền của ông lần đầu tiên đã ra cửa Khẩu để vào đánh Chăm-pa (1377).

Xưa kia Lê Đại Hành đã cho đào kênh Gai (Đa Cái) ở Nghệ An. Đời Hậu Lê, trên đất Hà Tĩnh bây giờ, một số đoạn kênh cũ được đào nắn thẳng hoặc khơi sâu thêm (như đoạn sông Đò Trai ở Đức Thọ, đoạn sông Thượng Trụ ở Can Lộc) do đó nhiều người quen gọi là hệ thống kênh này là kênh nhà Lê.

Năm Tự Đức thứ 12 (1859), đời Nguyễn, Hiệp tá Hoàng Giáp Lê Tuấn, người Mỹ Lũ (Kỳ Văn) được cử ra đổng lý việc đào khơi lại nhiều đoạn kênh để thông đường thuỷ với Bắc Thành. Sách “ Đại Nam nhất thống chí ” (Tập II) chép là “đào lại kênh Rác và kênh Thần Đầu”

Đến năm Thành Thái thứ 11 và 12 (1899- 1900), Tuần phủ Hà Tĩnh Tôn Thất Hân và công sứ Pháp Xăng-đơ-rê (Sandré) lại tổ chức đào sông Kinh Hạ, khơi sâu thêm 4-5 thước (1,6-2m). Nhiều bài vè thời ấy đã kể lại sự kiện này.

“… Hai năm liền Tý, Hợi (1900,1899) đào sông,

Tốn tiền tốn của lại mất công đã nhiều…”

(Vè “ Đi phu sông Voi ”)

“…Vua Thành Thái ngồi rồng,

Tây bắt đào phần sông

Nghĩ thương dân đói khát,

Thương dân tình đói khát.”

(Vè “Đi phu sông Rác” )

Ở phía tây cầu Yên Hạ (Kỳ Tiến) có tấm bia đá ghi về sự kiện đào sông này.

SÔNG TRÍ

Sông Trí bắt nguồn từ núi Yên Ngựa (Mã Yên), chảy theo hướng nam qua địa bàn các xã Kỳ Tân, Kỳ Hoa, rồi chảy về hướng đông, bao quanh Dinh Cầu (Kỳ Châu) chảy qua phía bắc xã Kỳ Hưng, phía nam xã Kỳ Hải, đến ngã ba sông Văn Yên (Kỳ Hà) thì hợp lưu với sông Quyền đổ về cửa biển Hải Khẩu, dài 26 km với lưu vực 57 km . Sông Trí là đường thuỷ quan trọng, thuyền buôn từ Ròn (Quảng Bình) vào cửa Khẩu, thuyền trong tỉnh qua sông Kênh Hạ rồi ngược sông Trí đến chợ Dinh Cầu (Thị trấn Kỳ Anh). Sông Trí cũng là nguồn thuỷ lợi tưới cho đồng điền vùng giữa của huyện, là cơ sở để xây dựng công trình cung cấp nước sạch cho một vùng rộng lớn. Hiện nay nguồn nước hồ Kim Sơn đã cung cấp cho Nhà máy nước Thị trấn Kỳ Anh (công suất 3.000 m /nđ), nhà máy nước Vũng Áng (công suất bước đầu 40.000 m /nđ; dài hạn sẽ là 100.000 m /nđ. Đoạn sông qua Thị trấn và các xã lân cận đã được kè đá chống xói lở và mở đường hai bên, tạo nên quang cảnh trên bộ dưới thuyền thông thoáng tiện lợi.

SÔNG VỊNH (SÔNG CỬA KHẨU)

…”Cá lui về sông Vịnh, chim ngược ngàn kiếm đôi” là câu hát của người Hà Tĩnh nói về con sông này. Sông Vịnh là đoạn cuối của sông Kinh Hạ, dài trên 10km; nơi rộng nhất là 300 – 400 m, sâu nhất là đoạn chảy qua thôn Xuân Hà, Hải Khẩu ra tận cửa biển. Sông Vịnh ngày xưa đến Hói Lỗ thì chảy ngược lên Ngọn Troong mà ra biển. Giữa các thôn Đồng Nghĩa, Yên Điềm còn di tích cồn Sèng. Sau khi ông Quận Phạm Tiêm cho “lấp Cửa Lỗ, trổ Eo Bù” , sông chảy thẳng về phía núi Cao Vọng, ra cửa Khẩu như bây giờ.

Sông Vịnh rộng và sâu, tàu thuyền lớn chở hàng chục tấn có thể ngược lên 5-10km, vào đến chợ Ngâm làng Thuận Định. Trong bài Văn tế sống Hội Lựu (một nhà buôn ở thôn Hải Khẩu trước năm 1945), tác giả là thầy Chỉnh đã ghi lại cảnh buôn bán ở đây:

…” Kẻ Kinh, Quảng thông thương- Người Trung hoa du lịch ;

…” Nào Nghệ An, Nam Định, Hà Nội, Hải Phòng,

Nào thuyền nào bến nào buồm gió chèo trăng

Sống cạnh tranh đeo đuổi cảnh thương thuyền

Cuộc tài hoá đã từng phen gióng giả …”

Sau năm 1945, xí nghiệp vận tải vôi Sơn Hải và tàu thuyền huyện Kỳ Anh đã nhờ đường sông Vịnh mà kinh doanh phát đạt một thời. Sông Vịnh vừa tạo điều kiện để phát triển các đồng muối lớn, các vùng rừng ngập mặn vừa là môi trường sống lý tưởng của các loài hải sản (tôm, cua, ngao, hàu, sam, sứa, hải sâm, giun biển, cá ngứa, cá mú, cá vược, các loài chim (cò, cói, sếu, vạc, vịt trời).

SÔNG QUYỀN

Sông Quyền là tên phiên âm chữ Hán-Việt của sông Quèn, mà thượng nguồn là toàn bộ các khe suối từ dãy Hoành Sơn đổ xuống (khe Luỹ, khe Dâu, khe Miên, khe Đá Hát, khe Đầu Voi, khe Đá Bàn) qua địa phận các xã Kỳ Phương, Kỳ Liên, Kỳ Long, đến Kỳ Thịnh, Kỳ Lợi, Kỳ Trinh thì lòng sông mở rộng dần, có tên sông Quèn. Từ đây sông chảy lên đông bắc lại sang tây bắc, gặp sông Trô rồi chảy về hướng đông, hợp lưu với sông Trí ở địa đầu xã Kỳ Hà, đổ vào lạch Quèn, hoà cùng sông Vịnh mà ra cửa Khẩu. Toàn bộ hệ thống sông Quyền dài 34 km, có lưu vực rộng 216 km 2. . Sông Quyền nối với sông Vịnh, tiếp nối với kênh Hạ (kênh đào) là con đường thuỷ thông suốt từ phía bắc huyện Kỳ Anh vào tận Thần Đầu (Kỳ Phương).

KÊNH THẦN ĐẦU

Kênh Thần Đầu (“ Đại Nam nhất thống chí” chép là kênh mới Thần Đầu), đào năm Tự Đức (1859) nối các khe ở xã Thần Đầu (Kỳ Phương, Kỳ Liên) với khe Đá Hát từ Kỳ Long xuống, chảy vòng vèo qua Kỳ Lợi, Kỳ Thịnh đến ngã rào Ngã Ba rồi đổ vào sông Quèn tạo nên con đường thuỷ thông từ mé bắc huyện vào gần mé ngoài dịch trạm Thần Đầu xưa, chẳng bao lâu kênh bị cát lấp. Phía Phác Môn (Kỳ Lợi) có đoạn kênh đào dở dang dài chừng 300 m gọi là hói Bền. Tương truyền con kênh này dự định đào thông từ sông Quèn ra biển, do ba ông họ Chu đề xướng và chỉ huy động dân địa phương làm từ đời Lê. Công việc chưa xong thì cả ba ông đều chết. Dân nhớ công lao lập miếu thờ các ông ở chân núi Cao Vọng.

GIẾNG VỌT (VIỆT TỈNH TUYỀN)

Giếng Vọt không phải là giếng, cũng không phải là khe lộ thiên, mà là một suối nước ngầm, nước phun ra mé một ngọn đồi nhỏ ở làng Hưng Nhân, xã Phú Nghĩa, nay thuộc địa phận thị trấn Kỳ Anh. Sách “Nghệ An ký” mô tả “Một dải gò động bằng phẳng, thung lũng rộng lớn, liên lạc với núi Hoành Sơn, vách đá cheo leo, cây cối xanh tốt, từ trong hang đá chảy ra một dòng suối mát trong sạch, thơm ngon. Dân địa phương lấy cây gỗ khoét rỗng làm máng hứng nước như máng mái nhà hứng nước mưa. Nước suối chảy ra tưới các ruộng, nên lúa đều được xanh tốt. Tương truyền ngày xưa có một viên Đốc trấn cấm dân không được lấy nước suối ấy, thì tự nhiên suối bế tắc lại, không chảy nước ra nữa. Sau nghe lời một tiên sĩ, giết trâu cúng thần và bãi lệnh cấm, thì suối lại chảy ra như trước” (1) . Cũng sách này chép: “Nước ở Nghệ An (Nghệ Tĩnh), có ba nơi được khen là giai phẩm: một là sông La ở huyện La Sơn, hai là suối Việt Tỉnh ở huyện Kỳ Hoa, ba là khe Hau Hau ở núi Nam Giới, huyện Thạch Hà”.

Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” cũng chép “Suối Việt – đông (tức giếng Vọt) ở bên tả trấn thành, một dải sườn núi bằng phẳng, thung lũng rộng rãi, nối liền với núi án ngữ của trấn. Ở bên đó có núi đá đứng thẳng như vách, cây cối um tùm, trong khe đá chảy ra suối nước trong mát, ngon ngọt. Người biết thưởng thức vị nước, cho nước suối ấy ngon nhất ở Hoan Châu”. Giếng Vọt nước quý, lại là kỳ quan ngày trước. Hoàng giáp Bùi Huy Bích (1744 – 1818) khi làm quan ở đây, thường đến chơi bên suối và có bài thơ “ Vịnh Việt tỉnh” nguyên văn chữ hán, Thái Kim Đỉnh phỏng dịch:

Một phiến đá mé Hoành San

Từ xưa, đệ nhất Châu Hoan suối này.

Nghe róc rách dưới rừng cây,

Lâng lâng làn khói nhẹ bay, mơ màng.

Đời đời dòng nước xuyên ngang,

Người qua nào thấy bóng Hằng nga đâu.

Lòng trần lay tận đất sâu

Đến đây tắm rửa sạch làu, nhẹ lâng.

(1) Sách Nghệ An ký còn chép bài thơ “Quá Việt tỉnh cương” của Đỗ Tử Vi đời Trần, và cho rằng bài thơ ấy vịnh giếng Vọt ở Kỳ Anh, là lầm. “Việt tỉnh cương” trong bài thơ của Đỗ là ở vùng Trâu Sơn, huyện Vũ Ninh, nay thuộc Hà Bắc. Dưới đây là nguyên văn bài thơ của Bùi Huy Bích “ Vịnh Việt tỉnh ” ở Kỳ Anh:

“Phiến thạch Hoành Sơn bạn,

Hoan Châu đệ nhất tuyền.

Sàn sàn xuyên mật thụ,

Tế tế dạng khinh yên.

Lưu thủy mạn chung cổ,

Hành nhân bất ngộ tiên.

Trần tâm huy mặc địa,

Tẩy chước tạm phiên nhiên”.

IV. BỜ BIỂN

Kỳ Anh có 63 km bờ biển, chạy theo hướng tây bắc – đông nam. Ngoài khơi nhìn vào, người ta thấy nhấp nhô những dải núi lấn ra biển thành những bán đảo. Từ trong ra, đó là mũi Độc, mũi Đao, mũi Con Voi, mũi Dòn, mũi Thằn Lằn, mũi Dung, mũi Đa, Mũi Dòn (Bản đồ thường ghi mũi Ròn) có mũi Dòn Con, mũi Dòn Nậy, là một bán đảo vươn ra biển tới 8 km từ tây nam lên đông bắc.

Bài vè “ Nhật trình đi biển ” (đi ra) kể về bờ biển Kỳ Anh:

“… Ngồi buồn kể nhật trình chơi,

Vũng chùa, Trộ Đó là nơi dựa thuyền.

Kéo cánh buồm lên cho khỏi Hòn La,

Sơn Dương ở đó ắt là mũi Dung.

Bãi lum nhum cửa Khẩu ở đó,

Chạy qua mũi Đọ thì tỏ mũi Lài.

Hòn Én nằm trữa chẳng sai

Đây là Lạch Nhượng, vòi voi ắt là…” 1)

Khác hẳn với bờ biển bốn huyện phía bắc tỉnh (Nghi Xuân, Can Lộc, Lộc Hà, Cẩm Xuyên), bờ biển Kỳ Anh có nhiều nơi núi mọc lấn ra mé nước (Kỳ Xuân, Kỳ Phú, Kỳ Khang, Kỳ Ninh, Kỳ Lợi, Kỳ Phương, Kỳ Nam), nên không có những dải biển ngang dài, rộng. Bờ biển chỉ là dải cát hẹp xen giữa núi đồi. Có nơi, như ở mạn nam, cát dồn lên thành gò cao tiếp liền với dải đồng hẹp phía trong, có nơi (như vùng Trảo Nha) làng xóm, ruộng nương cũng bị cát lấp. Tuy núi mọc sát biển, nhưng nhiều nơi, khi thuỷ triều xuống, dưới chân núi vẫn còn một dải cát hẹp dốc thoải, tạo nên những đoạn đường đi bộ trên mé nước và có nơi (như vùng Đèo Ngang) trở thành bãi tắm tốt. Mực nước biển trong vòng 1km trở vào trung bình là từ 6-7 m, và sâu nhất như ở mạn Kỳ Khang, Kỳ Phú cũng chỉ từ 7-9 m.

Phía nam cửa Khẩu, vòng quanh mũi Dòn, núi lấn ra biển tạo nên những vũng ăn sâu vào đất liền: Vũng Do, vũng Lố, vũng Ná, vũng Môn. Đặc biệt có Vũng Áng vừa có độ sâu 8 sải (12 m) trở lên, lại được dãy Cao Vọng che chắn, nên lúc bão tố vẫn được lặng êm. Từ Vũng Áng qua eo Rồng là Vũng Môn (làng Phước Môn), vũng này có độ sâu lớn và kín đáo như cái ao, nên gọi là Vũng Yên.

Kỳ Anh có hai cửa biển: Cửa Khẩu và cửa Nước Mặn. Cửa Khẩu tức là Hà Hoa hải khẩu, ở địa phận xã Hải Khẩu (nay là xã Kỳ Ninh). Những con sông lớn nhất huyện (sông Kinh, sông Trí, sông Quyền) và nhiều khe hói khác từ ba hướng bắc, tây, nam đều dồn nước vào một vũng biển nhỏ gọi là sông Vịnh, hay sông Cửa Khẩu, dài 4 km, rồi đổ ra biển. Đời Lê, nhất là từ khi có trấn lỵ Dinh Cầu, cửa Khẩu là cửa biển quan trọng đối với việc cung cấp vật chất và bảo vệ trấn thành (2) .

Phía nam mé Hoành Sơn, thuộc địa phận thôn Ngưu Sơn, xã Hoằng Hóa (sau là xã Thần Đầu, nay là xã Kỳ Nam) có cửa Xích Mộ (Nước Mặn). Cửa này nay bị bồi lấp, nhưng ở thế kỷ 15 còn rộng, cả đội chiến thuyền có thể vào được.

(1) Theo tài liệu của Hoàng Thái Cát- Bản Thanh Minh ghi (Trong tư liệu của TKĐ) có mấy chỗ khác.

(2) Ở xã Kỳ Ninh dọc bãi biển bồi trên lạch cũ cửa Khẩ, có vô số mảnh gốm,mảnh sành đủ các loại hình gốm sành lẫn trong cát. Do đo,có ý kiến cho ràng của Khẩu, xưa là “thương cảng lớn”. Chúng tôi cho nhận xét này chưa đủ căn cứ. Có hai giả thuyết: hoặc xưa có lò gốm của người Chàm, người Việt ở đây; hoặc sóng biển đã dồn những mảnh gốm từ nơi khác đến (như hiện tượng thường có). Qua lịch sử, ta thấy có thể từ thế kỷ X, đat là nơi qua lại của thuyền chiến, thuyền lương Chàm. Còn dưới các triều Trần, lê, nhất là sau khi có trấn lỵ Dinh Cầu, cửa Khẩu là nơi đóng thủy quân bảo vệ trấn dinh. Đường vận tải hàng cung cấp cho Dinh Cầu đi qua kênh chỉ có thể nơi qua lại, ẩn nấp của thuyền cá, thuyền buôn (kể cả thuyền nước ngoài) mà thôi.

CỬA KHẨU

Cửa Khẩu là tên gọi tắt của “Kỳ Hoa hải khẩu”- Cửa biển Kỳ Hoa (ở đây, chữ “Hải Khẩu” là danh từ chung được dùng như danh từ riêng). Có sách xưa, như “Nghệ An ký” chép là “Khẩu hải khẩu”, hay như “Lịch triều hiến chương loại chí” chép là “Cửa Loan Nương”. Cửa Khẩu nằm trên toạ độ 106,21 ’ 36 ’’ độ kinh đông và 18,06 ’ 48 ’’ độ vĩ bắc, thuộc địa phận xã Hải Khẩu (nay là xã Kỳ Ninh). Sông Kinh từ phía bắc, sông Trí từ phía tây và sông Quyền từ phía nam cùng đổ ra một vũng nhỏ dài khoảng 10 km, rộng từ 300- 400m (nước lên có thể rộng tới 1.000 m) sâu 3-4 m đến 7-8 m, có tốc độ chảy 0,5m/giây gọi là sông Cửa Khẩu hay là sông Vịnh. Ca dao: “Cá lui về sông Vịnh, chim ngược ngàn kiếm đôi” . Lạch sông và cửa biển thời xa xưa đi về phía bắc, sát gần rú Đọ, còn bây giờ đã chuyển về phía nam, mé rú Voong.

Trong lịch sử, cửa Khẩu, là cửa biển quan trọng ở nam Đại Việt. Nhiều sự kiện quan trọng đã xảy ra ở đây. Sử sách ghi chép là vào thời thuộc nhà Tùy, tháng Giêng năm Ất Sửu (605). Hoan Châu đạo hành quân tổng quân Lưu Phương và bọn đại tướng Trương Tốn đem quân từ cửa biển quận Tỵ Ảnh (cửa Sót hay cửa Nhượng) vào đánh Chiêm Thành. “Tháng ấy quân đến cửa Hải Khẩu”.

Người Cham-pa từ khi lập quốc, TKII, thường đưa thuyền vào cửa Khẩu và cửa Nước Mặn cướp phá, bắt người. Trong các đợt vượt Hoành Sơn lấn chiếm đất Đại Việt (803-808 và khoảng 907, 910- 981), cửa Khẩu có vị trí quan trọng đối với quan, quân của họ. Chắc chắn là thuyền chiến, thuyền lương của họ phải đóng chốt và qua lại ở đây để phục vụ cho việc cai trị vùng chiếm đóng. (1)

Thời Lý, Trần người Chiêm Thành thường hay đến cướp phá ven biển hoặc bắt người bán vào Chân Lạp, nên ở cửa Khẩu có đồn binh canh giữ. Sau khi đào sông Kinh Hạ, thuyền bè từ bắc vào thông đến cửa Khẩu ra biển.

Đời Lê, từ các cuộc nội chiến Lê- Mạc, Trịnh-Nguyễn, cửa Khẩu càng trở thành vị trí quân sự trọng yếu. Ở đây có một đội giã (thuỷ quân) có khoảng 300 người đóng giữ để bảo vệ Trấn lỵ Dinh Cầu và bờ biển phía nam. Khoảng mồng ba đến mồng 6 tháng 6 năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ kéo quân ra diệt Trịnh đến cửa Khẩu. Đó là một sự kiện lịch sử quan trọng sau việc hai ông vua Trần Duệ Tông và Lê Thánh Tông đi qua đây vào các năm 1377 và 1470-1471. Đời Nguyễn, vị trí cửa Khẩu không còn như trước nữa nên chỉ đặt tấn cửa Khẩu một tấn thủ trông coi, kiểm soát thuyền bè đi lại.

Ngày 11 tháng Chạp Hồng Đức năm đầu (1470) vua Lê Thánh Tông “Đóng quân tại cửa bể Hà Hoa, đêm khuya ngồi nghe tiếng mưa, sinh lòng thương cảm” (Nguyên chú), có bài thơ, Ngô Linh Ngọc dịch:

“Ngủ tựa đầu nhan thuyền lạnh vắng,

Rèm xanh mỏng tựa cánh ve xanh

Gió đông vỗ biển trời muôn dặm

Đêm tối tràn mưa mộng mấy canh

Hun hút tầm xa nhoà sóng nước,

Vèo trôi ngày tháng tiếc thời gian

Luống thương chiến sĩ dầm chân đất,

Chết thiếu tiền mua cỗ áo quan”.

Nhà vua còn có bài “Nghỉ lại ở cửa biển Hà Hoa”, Đỗ Ngọc Toại dịch:

Mưa mai mù mịt bến Hà Hoa,

Ngắm bể mênh mang bốn phía xa.

Mây mến đầu non lơ lửng đứng,

Sóng theo con nước rập rờn qua.

Thủy tiên đầm nọ đầy sương ráng,

Chế Thắng đền kia rực cỏ hoa.

Say tựa bên mui càng nảy hứng,

Lòng thơ dạ khách khó khuây khoa”.

CỬA XÍCH MỘ (NƯỚC MẶN)

Cửa Xích Mộ cũng đọc Xích Lỗ hay Tích Lỗ (cửa Nước Mặn) chảy qua địa phận làng Ngưu Sơn, tổng Hoằng Lệ, sau là thôn Minh Đức nay là xã Kỳ Nam. Nước Khe Bò, khe Du, khe Di từ đèo Ngang đổ xuống, tạo thành con sông nhỏ cùng tên, chảy mé đông bắc dãy Hoành Sơn rồi đổ xuống cửa biển này. Con sông và cửa biển Xích Mộ nằm tách biệt khỏi hệ thống sông ngòi trong huyện. Ở thế kỷ XV, cửa biển Xích Mộ khá sâu, rộng. Đoàn thuyền chiến của vua Lê Thánh Tông, đi đánh Chiêm Thành năm 1470- 1471, đã đỗ lại đó. Nhà vua có bài thơ “Xích Mộ hải môn lữ thứ” (Nghỉ lại cửa biển Xích Mộ), Ngô Linh Ngọc dịch:

“Trên sông Xích Lỗ lướt chèo hoa,

Đất khách bâng khuâng nỗi nhớ nhà.

Phòng biển sông quây thành vách luỹ, (2)

Đầu mom tre đẵn ghép rui xà.

Thuyền về bến vạn cơn mưa giục,

Triều tới ven bờ ruộng Lạc xa.

Chạnh nhớ ngày xưa gương sáng để,

Đè mây vượt sóng bước xông pha”.

Sách “An Tĩnh cổ lôc” (SĐD) viết: “Trong vùng đồng bằng Hoằng Lễ chúng ta thấy khe Bò uốn lượn để đổ ra cửa Xích Mộ. Chắc rằng cách đây vài ba thế kỷ, cửa sông này phải nằm dịch ra phía bắc, vì có một công sự phòng ngự lối qua lại đây đã bị chôn vùi dưới đồi cát, nằm theo chiều tây bắc- đông nam”.

Cửa Xích Mộ xưa đã bị bồi lấp, nằm ở vị trí thôn Minh Đức bây giờ. Cửa biển bây giờ chuyển xuống phía nam, hẹp và cạn.

(1) Năm 803 quân Hoàn Vương (Chămpa) tràn sang đánh đuổi quân đô hộ nhà Đường, chiếm hai châu Hoan, Ái (Thanh Nghệ Tĩnh) đến năm 808, tướng nhà Đường là Trương Chu sang cai trị Giao Châu mới đẩy lùi được. Lại năm 907-910, người Chiêm Thành (Chămpa) lại lấn chiếm vùng bắc Đèo Ngang ra tận núi Nam Giới, và đặt quân cai trị 70 năm. Năm 981- Lê Đại Hành mới vào đánh đuổi được (Xem phần thứ hai).

(2) Đời Lê ở đây có đồn hải phòng, do đội lính thú canh giữ. Nguyên văn câu này “Chử đầu hải thú hà vi bảo”; có bản chép “Đào đầu hải thú sa vi bảo” (Đầu sông, đồn canh biển cát dồn lên làm luỹ)

I. KHÍ HẬU – THỜI TIẾT

Khối Hoành Sơn không cao và chiếm 1500km nhưng do hướng chạy của núi, đã trở thành một ranh giới khí hâu thật sự. Hà Tĩnh và Quảng Bình, hai tỉnh ở kề nhau mà chịu hai chế độ khí hâu hoàn toàn khác nhau. “Hà Tĩnh đã thuộc về khí hậu miền Bắc, trong khi Quảng Bình trở đi đã mang rõ những nét của khí hậu miền Nam”. (Thiên nhiên Việt Nam – SĐD). Do dãy Hoành Sơn chắn ngang phía nam với vùng núi phia tây, hình thành một vòng cung, Kỳ Anh trở thành một “vùng đất chảo lửa túi mưa” (Lời nhận xét của một nhà báo).

Mùa nóng, từ tháng ba đến tháng bảy, thường có gió Lào thổi mạnh, “cây cỏ lại xao xác dưới hới thở nóng hầm hập” ( Thiên nhiên Việt Nam – SĐD). Nhiệt độ lên tới 35 C có khi lên tới 38 C. Mùa này thường hạn hán kéo dài. Năm 1988, 10 tháng liền không mưa và năm 1993 hạn cũng kéo dài suốt 5 tháng; từ đầu năm đến hết tháng 6 lượng mưa chỉ mới là 260,2 ly, chưa bằng 1/10 lượng mưa trung bình hàng năm. Từ tháng 7 đến tháng 10, tháng 11, thường mưa rất to, lượng mưa trung bình là 2800 – 3000 ly/năm, có năm lên tới 4400 ly, cao hơn rất nhiều so với lượng mưa trung bình trong tỉnh, thời gian này cũng là mùa bão lụt. Trong 30 năm (1961- 1991) có 37 cơn bão đổ bộ vào Kỳ Anh; hơn 1/3 số cơn bão là ở cấp 11-12. Riêng trong thập kỷ 80 của thế kỷ XX, có 14 cơn bão và lụt lớn.

Mùa đông – xuân cũng kéo dài với gió mùa đông bắc và nhiệt độ xuống 12 C, có năm xuống tới 8 C. Nắng lắm, mưa nhiều, nhiệt độ và độ ẩm ở Kỳ Anh đều cao, là vùng khí hậu khắc nghiệt. Mùa nắng hạn, ruộng đồng nứt nẻ, cây cỏ héo khô. Kỳ hạn hán năm 1988, nhân dân 17 xã ở Kỳ Anh nước không đủ uống và sinh hoạt. Mùa mưa bão thì đồng điền mạn thấp nước ngập, bình thường cũng ngập từ 0,5 đến 1m, nhà cửa, đường sá thường bị hư hỏng, giao thông rất khó khăn, nhất là các xã vùng thượng. Riêng cơn bão số 5 (30/8/1990) toàn huyện bị thiệt hại 23 tỷ đồng (Theo báo Tiền Phong số 43 (26/10/1993) và báo Hà Tĩnh số 3240 (13/7/1993).

Trung bình hàng năm có 2 đến 4 cơn bão đổ bộ vào Kỳ Anh, gây mưa lớn ở thượng nguồn, lũ lụt ở đồng bằng ven biển. Vận tốc gió lớn nhất lúc bão V = 48m/s (chu kỳ 50 năm lặp lại). Cơn bão năm 2007 đã làm ngập lụt thiệt hại lớn (đường Quốc lộ 1A nhiều nơi ngập 0,50-1m). Rất nhiều năm nước từ thượng nguồn đổ về cộng với thuỷ triều dâng làm nước sông Quyền, sông Trí, sông Vịnh dâng cao, tràn qua đường sá, lở nhiều đoạn đê xung yếu gây thiệt hại về người và tài sản.

Phụ chép:

KHÍ HẬU – THỜI TIẾT

(Số liệu của trạm thủy văn Kỳ Anh)

1. Nhiệt độ

– Nhiệt độ trung bình hàng năm 24 C

– Nhiệt độ cao nhất vào mùa hè (tháng 6) có lúc lên tới 38 C, trung bình là 29,8 C

– Nhiệt độ thấp nhất vào mùa đông (tháng 1) là 7,5 C, trung bình là 17 C

2. Độ ẩm

Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm đo ở trạm thủy văn Kỳ Anh là:

Tháng

1

Tháng

2

Tháng

3

Tháng

4

Tháng

5

Tháng

6

Tháng

7

Tháng

8

Tháng

9

Tháng

10

Tháng

11

Tháng 12
clip image001 - Giới thiệu khái quát huyện Kỳ Anh 90 92 91 88 80 74 71 77 88 88 88 88

– Độ ẩm trung bình hàng năm: 86%

– Độ ẩm thấp nhất trong mùa đông: 35%

– Độ ẩm thấp nhất trong mùa hè: 27%

– Lượng bốc hơi: Lượng bốc hơi trung bình hàng năm 1033,8mm

3. Chế độ gió

– Mùa hè: Gió tây nam và đông nam từ tháng 3 đến tháng 6 có gió Lào (Tây Nam) khô nóng, lượng bốc hơi lớn làm hạn hán xảy ra thiếu nước ngọt cho dân sinh và cho nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, tốc độ gió lớn nhất trung bình ở đồng bằng ven biển có thể đạt 15-20m/s.

– Mùa đông: Gió đông bắc

– Tốc độ gió trung bình: 2,3m/s

– Tốc độ gió lớn nhất: 48m/s

Bảng: Tốc độ gió trung bình (m/s) tháng trong năm

Tháng

1

Tháng

2

Tháng

3

Tháng

4

Tháng

5

Tháng

6

Tháng

7

Tháng

8

Tháng

9

Tháng

10

Tháng

11

Tháng

12

2,2 2,1 1,8 1,8 2,2 2,8 2,4 2,4 1,9 2,3 2,6 2,3

Bảng: Tốc độ gió (m/s) hàng tháng trong năm

Tháng

1

Tháng

2

Tháng

3

Tháng

4

Tháng

5

Tháng

6

Tháng

7

Tháng

8

Tháng

9

Tháng

10

Tháng

11

Tháng

12

36 35 42 45 48 47 48 49 50 50

4. Chế độ nắng

Bảng: Số giờ nắng các tháng trong năm

Tháng

1

Tháng

2

Tháng

3

Tháng

4

Tháng

5

Tháng

6

Tháng

7

Tháng

8

Tháng

9

Tháng

10

Tháng

11

Tháng

12

79 60 96 152 142 228 253 187 171 127 79 85

Tổng số giờ nắng trong năm: 1.536 giờ

5. Chế độ mưa

Mùa mưa từ tháng 7 đến tháng 11

– Lượng mưa trung bình năm: 2513,4mm, năm lớn nhất 3000mm

– Số ngày mưa trung bình năm: 165 ngày

– Lượng mưa ngày lớn nhất trung bình: 519,1mm

– Lượng mưa trung bình hàng năm: 2858 mm

– Lượng mưa (mm) lớn nhất 5 ngày liên tục ứng với các tần suất (%)

Trạm Tần suất (%)
1 2 5 10
Kỳ Anh 1554 1365 1120 930

6. Đặc trưng thuỷ văn

Kỳ Anh chịu ảnh hưởng của chế độ thuỷ văn của hệ thống sông suối như: sông Trí, sông Quyền, sông Vịnh. Mực nước thuỷ triều tại cửa Khẩu, sông Quyền cao nhất trung bình nhiều năm 1,77m, tần suất 10% = 2,22m, tần suất 5% = 2,416m

* Sông Trí: Bắt nguồn từ vùng núi phía tây thuộc xã Kỳ Hoa, ở Tây Bắc huyện Kỳ Anh chảy theo hướng tây bắc – đông nam đổ vào sông Quyền ở cửa Hải Nam, chiều dài 26 km, diện tích lưu vực 57 km . Theo số liệu của chi cục thuỷ lợi, Sở Nông nghiệp và Phát trển Nông thôn, mực nước lên trong bão số 5 năm 2007 làm ngập đường Quốc lộ 1A từ 0,3 – 0,6m. Theo số liệu thống kê mực nước dâng trong bão năm 1987 = 2,218m, năm 1989 = 2,68m.

II. TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN

Kỳ Anh vốn là vùng tài nguyên thiên nhiên phong phú. Do khí hậu nhiệt và ẩm, thời xa xưa, toàn bộ đất (núi đồi) Kỳ Anh là một cánh rừng từ Vọng Liệu xuống tận bờ biển. Cũng như rừng Trường Sơn Bắc, rừng Kỳ Anh có nhiều cây gỗ quý như: lim xanh, táu mật, trường mật, giỗi, gụ và các loại cây nứa, dang, song, mây, lá tơi, lá nón…Rừng ở đây còn rất nhiều cây ăn củ, ăn trái như: sắn rai, khoai mài, khoai từ, khoai vạc…, cây làm thuốc như: sa nhân, thảo khấu và cây dầu sơn (dầu trảo), cây tràm (khuynh diệp) (1) . Theo số liệu mới nhất, đất lâm nghiệp toàn huyện có 41.959 ha. Rừng kinh tế có 31.950 ha (trong đó, rừng kinh doanh là 20.224 ha, rừng phòng hộ 11.726 ha), đất đồi không có rừng 10.009 ha.

Dưới thảm thực vật dày đặc ấy, xưa kia cũng là nơi cư trú của những đàn hổ báo, tê ngưu, bò rừng, trâu rừng, dê rừng, lợn rừng, nai, hoẵng, gấu, lợn, khỉ, gà lôi, trĩ, công, trăn, rắn, rùa… Cho đến cuối thế kỷ XIX, hổ vẫn còn rất nhiều, ngay ở đền Chào, cạnh đường quốc lộ, hổ thường lui tới. Khe Cà có tiếng là lắm hổ: “Khái khe Cà, ma cồn Mụ” . Đặc biệt Kỳ Anh là đất của hươu và voi. Đến thời cận đại, con hươu vẫn đi vào ca dao:

“ Vác súng anh dạo cảnh Hoành Sơn,

Săn con hươu lấy lộc, trả công ơn mẹ thầy 

Và:

Nhất cao là núi Hoành Sơn

Lắm hươu Bàn Độ, to lườn chợ Voi ”.

Chợ Voi ở làng Tuần Tượng, xưa kia là trại nuôi Voi (Tuần Tượng trại), luyện voi chiến, voi tải. Sách xưa chép: “Kỳ Hoa là một vùng đất điệp trùng, rừng mọc lan tận biển. Dãy Bàn Độ hươu sao từng đàn. Hổ, gấu, lợn rừng, sói và voi thì khắp vùng đều có” (2) . Sách “ Lịch triều hiến chương loại chí – Dư địa chí” của Phan Huy Chú, chép “Xã Hoằng Hoá thổ sản có các vật lạ như: thông thiên tê (tê ngưu), công, đồi mồi, trầm hương, dây mây tía, dây mây hoa long, trúc hoá long…”. Cùng với thảm thực vật rừng, cả thế giới động vật cũng mất dần, đến nay hầu như không còn nhiều loại quý hiếm. Tuy nhiên so với các nơi khác, rừng Kỳ Anh nay vẫn còn ít gỗ quý (gụ, lim, giỗi, mỡ…), chim, thú quý (khỉ, gà lam (3) )

Trong lòng đất nhiều loại khoáng sản quý như: Than bùn, măng-gan (manganese), vàng; trên bãi biển: cát Titan, Ê-mê-nhít và các ngọn núi chứa tới hàng tỷ m đá granít.

Bờ biển Kỳ Anh nhiều rạn ngầm, eo, vũng với các loại hải sản có giá trị kinh tế cao như: cá chim, cá thu, cá bù, cá ngứa; tôm sú, tôm hùm, mực, cửu khổng, rong biển (rong câu, rong mơ tên khoa học là Sazgesium). Có nơi như ở Vũng Áng, do kín gió, nước lặng và nhiều thức ăn, cá xuất hiện dày đặc. Một “trộ cá” ở Eo Bạch có lần đánh bắt được 70 tấn cá thiều. Hàng năm với khả năng và phương tiện hiện nay, các xã ven biển vẫn có thể đánh bắt được từ 5.500 đến 6.000 tấn hải sản các loại. Việc nuôi thủy sản nước lợ cũng phát triển, nhất là ở các xã Kỳ Hải, Kỳ Hà, Kỳ Khang, Kỳ Ninh (4) . Ở đảo Sơn Dương, ngoài cửu khổng, trước kia còn có yến sào (vì thế đảo này được gọi là Hòn Én). Ở ven biển làng Như Nhật (Kỳ Xuân) có loại chim Cu Kỳ (Sơn Cưu) cũng là đặc sản quý.

Kỳ Anh được thiên nhiên ưu ái về núi, rừng, biển, đảo, vũng vịnh, khe suối, bãi tắm, đầm hồ và cả danh thắng di tích nổi tiếng. Với tiềm năng và lợi thế đó, trong tương lai không xa Kỳ Anh sẽ phát triển mạnh mẽ về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ.

(1) Các nhà khoa học đều thống nhất ý kiến là vùng Trường Sơn Bắc (mà Kỳ Anh là một mảnh) là nơi gặp gỡ của hai luồng thực vật di cư: một luồng từ Hymalaya qua Vân Nam lan xuống, và một luồng từ Mã Lai lên. Vì vậy mà người ta có thể gặp ở đây bên cạnh các cây họ dầu, cây săng lẻ, cây huỳnh của miền nam, những cây đề, sồi, hạnh đào, cây họ chà là và cây họ mộc lan của miền bắc (Thiên nhiên VN- SĐD)

(2) Theo một số tài liệu thì đời Lê (và có thể sớm hơn, từ đời Trần, ở đây đã có trại luyện voi. Thời Tây Sơn, Nguyễn Tiến Thiệu, tổ họ Nguyễn ở Kỳ Bắc bây giờ, được giao nhiệm vụ cai quản trại Tuần Tượng.

(3) Nhà sinh vật học, GS Võ Quý đã phát hiện ra loài gà lam ở rừng Kỳ Anh và đặt tên khoa học là Laphủra Hatinheis để ghi nhớ quê Hà Tĩnh

PHONG TỤC TẬP QUÁN

“ Kỳ Anh phong thổ ký ” viết năm 1930, chép: “Dân trong hạt vốn tính chất thuần phác, phong tục đôn hậu, chăm nghề ruộng nương, buôn bán mà ít ham học hành, tính cầu an, thủ cựu, không thích canh cải. Mức tiến hóa văn minh so với các hạt khác thì còn chậm. Việc hôn nhân thì không bàn đến của cải. Việc tang lễ thì theo lệ cũ. Ở đình trung thì trọng kẻ chức tước, quý người có tuổi tác. Các bậc văn nhân khoa bảng cũng được trọng vọng. Miếu mạo, văn chỉ, đền chùa nơi nào cũng có. Trong dân, qua xuân thu, lễ tiết vui mừng, việc qua lại rất là đôn hậu. Đại để phong tục tập quán so với các hạt trong miền Nghệ Tĩnh gần gần giống nhau…”

Nhận xét trên đây khá xác đáng nhưng đó cũng là những nét chung của Hà Tĩnh, của xứ Nghệ mà thôi. Kỳ Anh, vùng núi non ở miền biên viễn xưa, cho đến thế kỷ XVI, XVII vẫn là nơi chửng lại, tụ lại của dòng người từ phía bắc vào. Sống trong môi trường gần như khép kín, thiên nhiên khắc nghiệt, chiến tranh triền miên, sản xuất lạc hậu, con người chịu nghèo nàn, cực khổ lâu đời thì trở nên hẹp hòi, thủ cựu là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, điều kiện sống như vậy cũng tạo cho con người những đặc tính có phần đậm nét hơn nhiều nơi khác. Người dân ở đây chân thật đến mộc mạc, có ý thức cộng đồng làng xã cao, tự khép mình vào kỷ luật nghiêm ngặt, có khi rất khắt khe và không dễ dàng tin theo cái từ ngoài đưa đến do đó không cuồng tín. Xưa, ở đây có câu: “ Thần Đầu vô lưu nha chi án; Cấp Dẫn vô tà đạo chi dân ”. Ở Thần Đầu (Kỳ Phương, Kỳ Nam) mọi người giữ luật lệ rất nghiêm và buộc người ở xã khác đến đây cũng phải làm như vậy, họ phục tùng tuyệt đối người đứng đầu làng, đầu hạt, họ cùng nhau bàn bạc, giải quyết mọi việc ở địa phương, không bao giờ phải thưa kiện lên quan trên. Còn dân Cấp Dẫn thì không theo đạo, ở các nơi khác giáo dân cũng không phải là “ngoan đạo” lắm. Những đặc điểm trên vừa là cái hay lại vừa là biểu hiện của nếp sống cộng đồng xa xưa, nếu thiếu sự hướng dẫn đúng đắn, có thể trở ngại trên đường đi tới.

Người dân Kỳ Anh có sức bền bỉ chịu đựng gian khổ đến mức không giới hạn lại giàu nghị lực để khắc phục khó khăn và rất đỗi khí khái, quật cường. Chỉ một việc đối phó với bão tố, tinh thần ấy cũng đã rất rõ: người ta không chỉ chống, giằng nhà mà có khi dỡ hạ mái xuống, kể cả mái ngói, sau cơn bão mới lợp lại. Tính chung hàng năm, dân phải chi tới 42,9% thu nhập gia đình để làm lại và sữa chữa nhà cửa bị thiên tai tàn phá. Trong mọi hoạt động thường ngày nhất là trong các phong trào yêu nước, cách mạng, các cuộc kháng chiến, những đức tính này càng thể hiện cao độ, chói ngời. Sống tình nghĩa, thủy chung, mọi người gắn bó với nhau, với hàng xóm, người làm quan về cũng ít xa dân. Tình quê hương thắm thiết. Người ta ít muốn rời khỏi làng và người đi xa thường muốn trở về quê. Tình cảm này, lúc nào đó là sự trở ngại cho sự tiến thủ song lại là động lực thúc đẩy những hành vi tốt đẹp, những hy sinh cao cả vì quê hương, đất nước.

Nhưng cũng cần nói rằng, người Kỳ Anh xưa nay không phải hoàn toàn ít giao lưu, thiếu chí tiến thủ. “Hai ông Trạng Thần Đầu” lúc già đã từ bỏ nơi đô hội về sống với vùng quê hẻo lánh, nghèo nàn, nhưng từ thiếu thời đã quyết ra đi không chỉ để kiếm sống, mà còn để được học hành thành đạt. Trước cách mạng, không chỉ có những người buôn bán vùng chợ Cầu, cửa Khẩu…đi đó đi đây và có những người đã thành nhà doanh nghiệp trong nước hay nước ngoài mà cả những người dân làng Đồng Ngãi (Kỳ Ninh), từ 18 tháng Giêng cũng kéo nhau vào tận xứ Nam Kỳ kiếm việc làm ăn, tối năm mới lại về quê. Tưởng cũng không phải nói nhiều về hàng vạn người từ cách mạng tháng Tám 1945 lại nay đã rời quê đi làm nghĩa vụ, đi xây dựng quê mới, hay đi làm ăn, học tập ở khắp nước và nước ngoài.

Những đặc điểm tinh thần, tâm lý của người Kỳ Anh trên đây tuy có phần nào là hạn chế, nhưng chủ yếu là thuận lợi cho việc huy động lực lượng, xây dựng quê hương.

Ở Hà Tĩnh ngày trước, phong tục đại để giống nhau, nhưng mỗi huyện, mỗi vùng lại có tập quán riêng, dễ nhận. Kỳ Anh là huyện địa đầu nên còn có những điểm gần giống với Quảng Bình, phía nam. Ví như ở đây không giã gạo bằng cối đạp mà giã tay chày đôi, chày tư, vừa giã vừa hò hát theo nhịp chày. Có thể thời xa xưa, vùng đất này còn chịu ảnh hưởng đậm của văn hóa Chăm nữa. Ngày Tết, ngày hội, nhiều làng Kỳ Anh có đu tiên. Theo nhà nghiên cứu Bờ-rơ-tông (H.Le Breton) thì chơi đu tiên là một hình thức tế lễ mang tính chất tôn giáo của người Chàm, du nhập từ Ấn Độ (?). Ở Kỳ Anh ngày trước lại có loại giếng vuông, bốn bờ ghép ván. Người ta nói đó là kiểu “giếng Chàm” (1) . Đây chưa phải là những chứng cứ xác đáng nhất nhưng có thể gợi ý cho việc tiếp tục tìm hiểu vấn đề này.

Mặc dầu gần rừng, nhiều gỗ, nhưng dân nghèo và thường năm nhiều bão tố, nên nhà ở Kỳ Anh cũng như Thạch Hà, Cẩm Xuyên ngày trước đều nhỏ và thấp. Lâu đời, hình thành một quan niệm là nhà ở phải “vô bái nhà, ra bái ngõ”, nghĩa là nhà phải thấp để vào, ra phải cúi đầu cho khỏi va chạm.

Về ăn mặc thì người Kỳ Anh cũng không khác người các nơi ở Hà Tĩnh. Dân dã, bền chắc, vẫn dùng vải Đồng Môn khổ hẹp, nhuộm nâu, nhuộm đen. Quan niệm về cái đẹp hình thể vẫn là sự khỏe khắn: “ Đàn ông đóng khố đuôi lươn – đàn bà mặc ướm hở lườn mới xinh ” và đã có tiếng đồn: “ to lườn chợ Voi 

Để bạn đọc có thể hình dung được cách ăn mặc của người Hà Tĩnh, người Kỳ Anh thưở trước, xin ghi mấy nét đại thể: Dân dã thì đàn ông ngày thường đóng khố, ở trần hay mặc áo ngắn năm thân, bốn (tứ) thân (áo khách) quần dài quá gối. Tết nhất, hội hè, đình đám…thì mặc áo dài (năm thân) vải thâm hoặc nhuộm nâu bầm, quần trắng, khăn vấn thủ rìu hay vấn vành, đi guốc quai mây hoặc chân đất. Đàn bà mặc áo cánh nâu, yếm nâu, váy đen (thường là nhuộm nâu bầm, nhúng bùn đen), khăn thâm hoặc nâu non. Khá hơn thì có cái áo dài nâu non mặc ngoài thắt qua ra phía sau. Người đàn ông giàu có, chức dịch, nho sĩ thì ngày thường cũng mặc như kiểu dân dã, chỉ khác loại hàng tấm và dôi dài hơn, thường áo quần nái hay lụa để trắng hoặc nhuộm nâu da bài, ngoài là áo dài the, lương đen (rất sang mới mặc gấm, xa-tanh), quần trắng “tây cống”(2), dây lưng nái hoặc lụa, vấn khăn nhiễu hoặc đội khăn đóng, đi guốc “xà goòng” hoặc giày hạ…Đàn bà mặc áo vải trúc bâu nhuộm nâu non, hay áo lụa, áo cát bá trắng, yếm đào hoặc trắng, váy sồi hay lụa, dây lưng sồi, khăn nhiễu hay xa-tanh, thường đi chân đất; mặc ngoài có áo dài the hoặc vải nhuộm nâu non, sang nữa thì có bộ áo “mớ ba”(3), đi guốc hoặc giày mỏ cong. Từ năm 1930 đến trước cách mạng, thanh niên học sinh, trí thức dần dần thay đổi cách ăn mặc. Con trai đội mũ cát, có người mặc đồ Âu. Lẻ tẻ, một số thiếu nữ mặc áo dài tân thời, quần cẩm cuốn, đi guốc cao gót… Đội đầu thì người Kỳ Anh xưa chỉ có cái mầu đan bằng tre, hoặc cái lịp là kiểu nón Thượng (Đức Thọ), sau mới dùng nón Ba Đồn (Quảng Bình), nón Kinh. Giàu sang thì đàn ông đội nón dửa Gò Găng, đi ô, đàn bà đội nón bằng, quai thao (nón Hạ).

Kỳ Anh vốn ruộng xấu, năng suất thấp (4) nên ngày trước thường xuyên thiếu gạo, dân phải ăn khoai sắn là chính. Có nơi phải ăn quả muồng (5) ; có nơi ngày giỗ chạp cũng dùng cả cây chuối ri thái nhỏ trộn với tép moi, bóp kỹ làm nham (nộm); miền biển cũng dùng cây rau mít bám trên đá (một loại rau câu) làm thức ăn, mắm tôm (ruốc) trộn với riềng cũng được chuộng lắm. Tuy nhiên, một bộ phận nhân dân vẫn thích và được dùng những món ăn cao cấp: cá gỏi, thịt thui, chim cu kỳ, tôm hùm, xôi vò… Đàn ông thích uống rượu nhưng không hút thuốc lào. Phường săn có lệ chia phần thịt cho bất cứ ai có mặt trong lúc đuổi bắt con mồi. Dân gian có tục đi ăn giỗ, ăn cưới, chỉ dùng đồ nước, còn thức khô thì chia làm phần gói về cho người già, trẻ con.

Lễ tang, lễ cưới cũng không có gì khác nhiều với các huyện trong tỉnh. Duy ở các xã phía nam huyện có lệ khi gả con gái phải có “ruộng hoa nữ”, thường gọi là “ruộng nhà trai” (khi nhà trai đến nạp tài thì trao giấy chuyển ruộng luôn). Vài nơi có tục “đón đường” khi đám rước dâu đi qua, họ nhà gái phải mời trầu và tặng một ít tiền, mới tiếp tục đi. Đưa dâu có người đón là điềm tốt đẹp.

Các làng cũng có một số tục lệ riêng: vùng Thần Đầu, làm lễ hạ điền vào ngày đông chí. Làng chọn một lão nông có “ông mụ song tuyền, con cháu đông đúc” xuống cấy, sau đó dân làng mới được cấy. Ai cấy trước bị làng phạt 5 quan tiền. Có làng cứ 27 Tết thì nhà nào cũng phải quết bánh dĩ (bánh dày) để cúng tất niên. Làng Đại Hào vào dịp mồng 5 tháng 5 hoặc mồng 10 tháng 10, mọi người đều dọn cỗ bánh chưng và mật mía đưa lên cúng thần Thành hoàng. Làng Ngưu Sơn có lễ làm “ruộng sãi”. Ai đến tuổi 50 thì được nhận ruộng cấy. Thu hoạch xong, đến rằm tháng tám phải biện mười cỗ chay (xôi chè) đưa đến cúng ở miếu Liễu Hạnh, ai làm “ruộng sãi” thì năm đó được miễn tạp dịch. Những lệ làng này từ sau cách mạng đều đã mất.

(1) Ở vùng biển xưa, chưa có điều kiện ghép, xây đá, người ta phải ghép ván để chống cát sạt lở, mà muốn ghép ván thì phải đào giếng hình vuông. Người Việt hay người Chàm cũng phải làm như vậy.

(2) Tây cống: Tiếng Quảng Đông chỉ Sài Gòn-“Xà goòng” là cách người Nghệ Tĩnh nói trại tiếng Sài Gòn. Đây là loại vải ngoại và loại guốc buôn từ Nam ra Bắc.

(3) Áo dài của phụ nữ xa xưa bằng the lụa mỏng, một bộ ba chiếc: ngoài cùng áo màu tím sẫm, trong là áo màu ngại (ngãi), rồi màu hồng.

(4) Vùng biển Kỳ Thọ, Kỳ Ninh, Kỳ Khang, Kỳ Lợi, Kỳ Phương…ruộng nhiễm mặn nặng, phải cấy giống lúa “hai hom” năng suất thấp.

(5) Trái muồng có hai loại, có nhiều ở vùng núi Bằng Sư, Chóp Cờ (Kỳ Xuân). Đến mùa trái, người ta hái về phơi khô, giã, rây thành bột, đến mùa mưa gió, nấu khoai khô, có nếp càng quý, giã trộn với bột hạt muồng. Loại muồng trên, hạt như hạt đậu ván, hái về phải ngâm nước năm, sáu ngày, luộc lên, giã nhỏ, trộn với vừng, lạc…Loại thức ăn này dùng lúc đói kém, thay cơm.

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây