Tác giả Lê Xuân Thông

Tiến sĩ Lịch sử Lê Xuân Thông

LÊ XUÂN THÔNG

Trình độ: Tiến sĩ Lịch sử
Cơ quan công tác: Viện Khoa học Xã hội vùng Trung Bộ
Email: thongdsvh@gmail.com.
Số điện thoại: 0979.716.109
Địa chỉ liên hệ: Lê Xuân Thông, Viện Khoa học Xã hội vùng Trung Bộ, đường Nam Kỳ khởi nghĩa, phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

 

NHẬN DIỆN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÀNG XÃ VEN BIỂN ĐÀ NẴNG
ĐẦU THẾ KỈ XIX QUA TƯ LIỆU ĐỊA BẠ

TS. LÊ XUÂN THÔNG*

Là một thành phố duyên hải, Đà Nẵng có nhiều làng xã định cư dọc theo đường bờ biển từ chân đèo Hải Vân (phía tây bắc) đến Ngũ Hành Sơn (phía đông nam), kéo dài khoảng 50 km. Hầu hết, các làng xã này được khai phá, xác lập vào thời chúa Nguyễn (thế kỉ XVI – XVII).

 Bài viết này tập trung tìm hiểu về quy mô làng xã, tình trạng đất đai và tình hình sở hữu ruộng đất đầu thế kỉ XIX, trên cơ sở nguồn tư liệu địa bạ của năm làng, gồm: Cổ Mân, Hoa Ổ, Nam An, Tân An và Thanh Khê. Bấy giờ, những làng này thuộc hai huyện Diên Khánh và Hòa Vang, phủ Điện Bàn, dinh Quảng Nam1. Dĩ nhiên, số làng xã này chưa phải là toàn bộ khu vực ven biển Đà Nẵng. Nhưng, với sự phân bố trải đều trên các địa bàn khác nhau, lại tương đồng về lịch sử hình thành, có thể coi là cơ sở đảm bảo cho kết quả nghiên cứu.

Địa bạ được sử dụng đều do chúng tôi sưu tầm từ dân gian (tức là bản Bính). Về niên đại, bốn địa bạ thuộc Gia Long thứ 13 (1814) và Gia Long thứ 14 (1815); riêng địa bạ xã Hoa Ổ thuộc Khải Định thứ 8 (1923). Tuy nhiên, đây là bản do Bộ hộ sao lục từ bản gốc được lưu trữ tại kinh đô có niên đại Gia Long thứ 13, để giao cho tỉnh Quảng Nam và làng Hoa Ổ. Bởi lúc bấy giờ, tỉnh Quảng Nam đang giải quyết tranh chấp đất đai giữa hai làng Hoa Ổ và Xuân Thiều nhưng địa bạ làng Hoa Ổ đã bị mất2. Như vậy, thực chất về nội dung, đây là địa bạ thời Gia Long.  Tất cả các địa bạ đều được viết trên giấy dó, đa phần còn nguyên vẹn, duy địa bạ Tân An bị hư nát cục bộ nên đôi chỗ mất chữ, song nội dung cơ bản của nó – các loại đất đai và tình hình ruộng đất – thì vẫn còn đầy đủ.

  1. Quy mô diện tích làng xã

          Thống kê từ địa bạ cho thấy, quy mô diện tích giữa các làng là không đều nhau mà có sự chênh lệch rất lớn. Nam An là làng lớn nhất có diện tích 351.1.9.0 (351 mẫu 1 sào 9 thước 0 tấc); nhỏ nhất là làng Cổ Mân có diện tích 90.8.5.2. Tổng diện tích của năm làng là 994.6.13.7.7 (994 mẫu 6 sào 13 thước 7 tấc 7 phân). Quy mô bình quân của một làng là 198.9.5.7.5.4 (198 mẫu 9 sào 5 thước 7 tấc 5 phân 4 ly) (xem bảng 1).

Bảng 1: Quy mô diện tích làng xã khu vực ven biển (Đà Nẵng)

TT Tên làng xã Diện tích (m.s.th.t.p) Quy mô bình quân
1 Cổ Mân 90.8.5.2.0  

 

Khoảng trên

198 mẫu/làng

2 Tân An 103.9.2.0.0
3 Hoa Ổ 134.4.3.9.0
4 Thanh Khê 314.3.8.6.7
5 Nam An 351.1.9.0.0
Tổng cộng 994.6.13.7.7

Nguồn: Địa bạ của năm làng Cổ Mân, Tân An, Hoa Ổ, Thanh Khê và Nam An

Trong khi đó, từ số liệu 937 làng (có địa bạ) của dinh Quảng Nam và 365 làng (có địa bạ) của phủ Điện Bàn mà Nguyễn Đình Đầu giới thiệu3, ta biết mức bình quân của một làng, lần lượt là khoảng 219 mẫu và 236 mẫu. Như vậy, có thể thấy quy mô làng xã ven biển Đà Nẵng nhỏ hơn với nhiều làng xã khác trong vùng, nhất là trong nội phủ Điện Bàn. Tuy nhiên, đây mới là so sánh trên đại thể, chung nhất. Để dễ hình dung và đồng thời làm sáng tỏ hơn quy mô làng xã ven biển Đà Nẵng, chúng tôi đem so sánh với các làng xã khác trong bối cảnh không gian nhỏ hơn – tức ở thành phố Đà Nẵng ngày nay – trên cơ sở những khác biệt cơ bản về địa lí – địa hình, như với làng vùng đồng bằng ven sông, vùng gò đồi – bán sơn địa.

Trước hết xin nói đến các làng thuộc khu vực đồng bằng ven sông. Đại diện tiêu biểu cho khu vực này là những làng nằm bên các con sông Thúy Loan, Cẩm Lệ, Cổ Cò và sông Yên, vốn được khai phá sớm – có thể nói thuộc nhóm những làng xã có lịch sử lâu đời nhất Đà Nẵng – từ giữa thế kỉ XVI đã được Ô châu cận lục nói đến. Kết quả thống kê từ 10 làng cho thấy, làng xã ở đây có quy mô lớn, với mức bình quân là khoảng 626 mẫu/làng xã (xem bảng 2).

Bảng 2: Quy mô diện tích làng xã khu vực đồng bằng ven sông (Đà Nẵng)

TT Tên làng xã Diện tích (m.s.th.t.p) Quy mô bình quân
1 Lỗ Giản 153.1.3.5.6  

 

 

 

 

Khoảng trên

626 mẫu/làng

2 Cẩm Lệ 199.9.1.0.0
3 Quá Giản 365.9.9.5.6
4 Thúy Loan 462.3.5.6.0
5 Cẩm Nê 480.5.14.8.0
6 Lệ Sơn 597.7.9.8.0
7 Yến Nê 705.1.10.2.0
8 Cẩm Toại 808.3.5.5.0
9 Hóa Khuê Đông 927.3.13.6.0
10 Hóa Khuê Trung Tây 1566.0.3.9.0
Tổng cộng 6266.6.5.5.2

Nguồn: Nguyễn Đình Đầu, Sđd

Còn đây là số liệu quy mô làng xã khu vực gò đồi – bán sơn địa. Khu vực này chính là dải đất hình cánh cung nằm về phía tây – tây nam của thành phố Đà Nẵng hiện nay, bấy giờ tương ứng với hầu hết các làng xã thuộc hai tổng Hòa An Thượng và Phước Tường Thượng của huyện Hòa Vang, gồm 54 làng (trừ 4 làng Bình An Trung, Hòa Mỹ, Hòa An (Yên) và Phú Lộc)4, tổng diện tích là 9497.5.13.6.2; mức bình quân khoảng 175 mẫu/làng (xem bảng 3).

Bảng 3: Quy mô diện tích làng xã khu vực gò đồi – bán sơn địa (Đà Nẵng)

TT Tổng Số làng xã Diện tích (m.s.th.t.p) Quy mô bình quân
1 Hòa An Thượng 28 4955.4.3.6.5 Khoảng trên

175 mẫu/làng

2 Phước Tường Thượng 26 4542.1.9.9.7
Tổng cộng 54 9497.5.13.6.2

Nguồn: Nguyễn Đình Đầu, Sđd, tr.307,322.

            Từ những thống kê trên, ta dễ dàng nhận ra rằng, so với khu vực đồng bằng ven sông, quy mô làng ven biển có thể nói là rất nhỏ, chỉ chưa bằng 1/3, nhưng so với khu vực gò đồi – bán sơn địa thì nó lại trở nên vượt trội (xem bảng 4). Rõ ràng, sự khác biệt về địa lí – địa hình đã dẫn đến sự khác biệt về quy mô làng xã ở Đà Nẵng.

Bảng 4: Quy mô bình quân làng xã theo khu vực (địa lí) ở Đà Nẵng

TT Khu vực Quy mô bình quân
1 Gò đồi – bán sơn địa Khoảng trên 175 mẫu/làng
2 Ven biển Khoảng trên 198 mẫu/làng
3 Đồng bằng ven sông Khoảng trên 626 mẫu/làng
  1. Tình trạng đất đai

          Cũng như nhiều làng xã khác nằm ở rìa cuối của đồng bằng duyên hải miền Trung vốn được tạo nên chủ yếu bởi sự vận động nâng lên của đất liền, sự bồi tụ của phù sa biển và thêm nữa, là những cồn cát di động, nên đất đai làng xã ven biển Đà Nẵng rất xấu, đa phần là cát trắng với những bãi hay gò nổng; ruộng đất khan hiếm và manh mún.

1 2 - Tác giả Lê Xuân Thông

Đình làng Nam Thọ (phường Thọ Quang, quận Sơn Trà)

          Trong năm làng được nghiên cứu thì Hoa Ổ là làng hoàn toàn không có ruộng đất thực canh, tức không có điền (ruộng lúa) cũng chẳng có thổ (đất trồng các loại cây khác). Những làng có ruộng đất thực canh thì chỉ có điền mà không có thổ, với một tỷ lệ hết sức nhỏ bé trong diện tích tổng thể. Cao nhất như Thanh Khê cũng chỉ chiếm 28%; số khác, không vượt quá 11% (như Cổ Mân 10,71%, Nam An 9,47% và Tân An 2,80%). Tính chung cho năm làng, diện tích ruộng chỉ gần 14% trong tổng thể đất đai. Tỷ lệ này rất thấp so với mức bình quân của dinh Quảng Nam là 59% 5, và còn thấp hơn nữa so với nhiều địa phương khác trong cả nước  cùng thời kì. Trong khi đó, đất cát trắng hoang nhàn, gò nổng chiếm tỷ lệ không nhỏ. Chẳng hạn làng Thanh Khê, đất đai loại này là 22,30%. Hoặc, trở lại với làng Hoa Ổ, cát trắng hoang nhàn, rừng rú chiếm tỷ lệ đến 59,56% tổng diện tích.

Bảng 5: Cơ cấu đất đai theo mục đích sử dụng

TT Loại đất Diện tích (m.s.th.t.p) Tỷ lệ %
1 Điền 138.3.9.8.7 13,91
2 Đất khác (thổ cư, mộ địa, hoàng nhàn, thần từ phật tự) 856.3.3.9.0 86,09
Tổng cộng 994.6.13.7.7 100

          Nguồn: Địa bạ của năm làng Cổ Mân, Tân An, Hoa Ổ, Thanh Khê và Nam An

          Sự nghèo nàn về ruộng đất không chỉ biểu hiện ở số lượng mà còn ở chất lượng. Bởi, như ta thấy ở bảng 6: ruộng hạng 1, hạng 2 cực kì ít ỏi, chưa đến 2% (và đều thuộc làng Cổ Mân);  ruộng hạng 3 và ruộng thu6 – hai mức thấp cuối cùng trong thang phân loại đẳng hạng ruộng đất lúc bấy giờ – chiếm ưu thế tuyệt đối, trên 98% (xem bảng 6).

          Tính manh mún của ruộng đất cũng thể hiện rất rõ qua số sở ruộng và quy mô diện tích bình quân của nó. Có tổng cộng 493 sở ruộng, bình quân 1 sở khoảng 0.2.12.0.9.9 (0 mẫu 2 sào 12 thước 0 tấc 9 phân 9 ly) (xem bảng 7). Trong đó, sở ruộng dưới 1 sào rất phổ biến. Làng có nhiều sở ruộng nhất và cũng manh mún nhất là Nam An .

Bảng 6: Cơ cấu ruộng đất theo đẳng hạng

TT Hạng ruộng Diện tích (m.s.th.t.p) Tỷ lệ %
1 Hạng 1 0.6.0.0.0 0,40
2 Hạng 2 2.1.4.3.0 1,50
3 Hạng 3 29.1.7.9.0 21,10
4 Ruộng thu 106.4.12.6.7 77,00
Tổng cộng 138.3.9.8.7 100

Nguồn: Địa bạ của bốn làng Cổ Mân, Tân An, Thanh Khê và Nam An

Bảng 7: Quy mô sở ruộng

TT Làng xã Điền (m.s.th.t.p) Số sở
1 Cổ Mân 9.7.5.2.0 27
2 Nam An 33.2.9.0.0 265
3 Tân An 2.9.2.0.0 13
4 Thanh Khê 92.4.8.6.7 188
Tổng cộng 138.3.9.8.7 493

          Nguồn: Địa bạ của bốn làng Cổ Mân, Tân An, Thanh Khê và Nam An

          Điểm đáng chú ý là các làng xã đã dành một phần diện tích không nhỏ cho mộ địa. Tổng hợp từ địa bạ bốn làng Hoa Ổ, Nam An, Tân An và Thanh Khê7, đất loại này là 178.8.0.0.0 (178 mẫu 8 sào), lớn xấp xỉ 1,4 lần đất ruộng (128.4.6.7) và chiếm gần 20% toàn diện tích (903.8.8.5.7). Làng có diện tích mộ địa nhiều nhất là Thanh Khê (50 mẫu); nhưng chiếm tỷ lệ cao nhất trong cơ cấu đất đai là làng Tân An (42%). Một cách giải thích hợp lí nhất trong trường hợp này, có lẽ, là do đất đai quá xấu.

          Còn hai loại đất đai khác nữa, đó là thổ cư và đất công trình tín ngưỡng tôn giáo. Có điều, nó không phải xuất hiện đầy đủ trong tất cả các địa bạ. Nghĩa là, có địa bạ ghi đất loại này mà không có loại kia và ngược lại; hoặc như địa bạ làng Cổ Mân hoàn toàn không thấy ghi chép. Hiện tượng này ít nhiều phản ánh việc lập địa bạ thời Gia Long chưa phải đã chặt chẽ. Bởi lẽ, không thể không tồn tại các loại đất này trong thực tế8. Đất ở được ghi trong địa bạ là “đồng cư trú” nghĩa là “cùng cư trú”, hoặc “đồng kết lập gia cư” nghĩa là “cùng kết lập đất ở”. Tổng số đất ở của ba làng Hoa Ổ, Tân An và Thanh Khê là 140.2.11.9.0; trong đó, riêng Thanh Khê chiếm hơn một nửa (87 mẫu), lớn gấp hơn 5 lần Hoa Ổ (16.2.11.9.0).

          Đất công trình tín ngưỡng tôn giáo, được ghi cụ thể tùy theo từng đối tượng, bao gồm đất chùa, đình miếu, miếu hội đồng (tức miếu âm linh – cô hồn). Thanh Khê là làng có nhiều đất loại này hơn cả (13 mẫu), tiếp đến là Hoa Ổ (1.3.11.5.0).

  1. Tình hình sở hữu ruộng đất

          Xét ở góc độ sở hữu, ruộng đất có hai loại: ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước và ruộng đất tư hữu. Đến nửa đầu thế kỉ XIX, ở Việt Nam, sở hữu tư nhân về ruộng đất đã trở nên áp đảo, tuy rằng có sự khác nhau về mức độ, quy mô giữa các địa phương. Có nơi (bao gồm cả dinh Quảng Nam), nhiều xã, tổng, thậm chí đến cấp huyện/châu, tư hữu hóa ruộng đất đã diễn ra triệt để9. Trong xu thế đó, ở các làng xã ven biển Đà Nẵng, đầu thời Gia Long, tuyệt nhiên không tồn tại sở hữu nhà nước về ruộng đất – tức chỉ có tư điền, công điền hoàn toàn vắng bóng. Tư điền gồm hai bộ phận: bộ phận do cá nhân làm chủ (tức sở hữu cá thể) chiếm phần ưu thắng; bộ phận do tập thể – cộng đồng làng xã làm chủ (tức sở hữu tập thể)10 không đáng kể (xem bảng 8).

          Tư điền làng xã nói trên không phải phân bố ở tất cả những làng có ruộng mà chỉ xuất hiện ở mỗi làng Thanh Khê, được ghi trong địa bạ là “do bổn xã đồng canh” – tức do làng xã cùng canh tác, không phải cho thuê hay phát canh thu tô. Hoa lợi thu được hẳn nhiên cũng do làng xã quản lí và sử dụng vào việc công, như hội hè đình đám11 … Về nguồn gốc, loại ruộng này có thể được hình thành bởi hai khả năng, hoặc là do tư nhân hiến cúng hoặc là do làng ẩn lậu làm của riêng (lậu điền).

Bảng 8: Các loại tư điền

TT Hình thức sở hữu Diện tích (m.s.th.t.p) Tỷ lệ
1 Cá thể 126.7.12.8.7 91,64
2 Tập thể 11.5.12.0.0 8,36
Tổng cộng 138.3.9.8.7 100

Nguồn: Địa bạ của bốn làng Cổ Mân, Tân An, Thanh Khê và Nam An

          Số tư điền cá thể phân bố cho 82 chủ sở hữu, chủ sở hữu lớn nhất là 18.0.0.6.0, chủ sở hữu nhỏ nhất là 0.1.0.0.0; bình quân mỗi chủ sở hữu khoảng 1.5.6.9.2.5. Làng có mức sở sữu bình quân cao nhất là Thanh Khê (2.4.7.6.2.6); thấp nhất là Tân An (0.4.12.8.3.3).

          Trong 82 chủ sở hữu thì lớp sở hữu từ 1 mẫu trở xuống chiếm ưu thế nổi trội, với 50 chủ sở hữu, chiếm 60,98%; tiếp đó là lớp sở hữu từ trên 1 mẫu đến 3 mẫu, với 24 chủ sở hữu, chiếm 29,27%; còn lại, chỉ có 8 chủ sở hữu trên 3 mẫu, chiếm 9,75% (xem bảng 9).

Bảng 9: Quy mô sở hữu tư điền cá thể

TT Quy mô Chủ sở hữu Diện tích sở hữu
Số chủ Tỷ lệ % Số ruộng  (m.s.th.t.p) Tỷ lệ %
1 Từ 0 đến 5 sào 26 31,71 8.3.12.8.0 6,62
2 Trên 5 sào đến 1 mẫu 24 29,27 18.3.2.8.0 14,45
3 Trên 1 mẫu đến 3 mẫu 24 29,27 41.0.6.6.7 32,37
4 Trên 3 mẫu 08 9,75 59.0.5.6.0 46,56
Tổng cộng 82 100 126.7.12.8.7 100

Nguồn: Địa bạ của bốn làng Cổ Mân, Tân An, Thanh Khê và Nam An

           Quy mô sở sữu trên đặt trong bối cảnh chung toàn quốc thì rõ ràng ở mức thấp, thậm chí quá nhỏ bé. Nhưng vấn đề là ở chỗ, số ruộng đất sở hữu không tương ứng với số chủ mà ngược lại, số chủ nhiều nhưng tư điền lại ít, trong khi số chủ ít nhưng lại sở hữu nhiều tư điền. Cụ thể ta thấy, tư điền của lớp sở hữu thứ nhất chỉ chiếm 21,07% tổng diện tích, trong khi của lớp thứ hai là 32,37% và đặc biệt, của lớp thứ ba lên đến 46,56%. Điều này cho thấy, một mặt là sự phổ biến của đối tượng nông dân tự canh, nhưng mặt khác, là xu hướng tập trung ruộng đất đã diễn ra mạnh mẽ.

          Nằm trong đặc điểm chung của chế độ sở hữu ruộng đất tư nhân ở Việt Nam, đối tượng sở hữu tư điền ở các làng xã ven biển Đà Nẵng cũng bao gồm cả nữ giới và người phụ canh (hay xâm canh), tức chủ sở hữu là người ngoài làng. Số chủ sở hữu nữ giới là 19, chiếm 23,17% tổng số chủ sở hữu; diện tích sở hữu là 15.2.12.1.7, chiếm 12,05% tổng diện tích tư điền.

          Số chủ phụ canh là 31, chiếm 37,80% tổng số chủ sở hữu; diện tích sở hữu là 35.2.11.1.7, chiếm 27,82% tổng diện tích tư điền. Đặc biệt, làng Tân An với số tư điền chỉ 2.9.2.0.0 nhưng hoàn toàn do phụ canh. Số phụ canh làng Cổ Mân cũng đáng chú ý, chiếm 63,63% số chủ và 66,66% diện tích tư điền. Quê quán các chủ phụ canh tuyệt đại đa số ở những làng lân cận thuộc nội tổng.

Bảng 10: Quy mô sở hữu theo dòng họ

TT Họ Chủ sở hữu Diện tích sở hữu
Số chủ Tỷ lệ % Số ruộng  (m.s.th.t.p) Tỷ lệ %
1 Đào 6 7,31 37.3.12.7.0 29,50
2 Nguyễn 25 30,49 30.4.1.2.0 24,00
3 Trương 16 19,50 17.9.5.8.0 14,14
4 Trần 5 6,10 12.9.7.9.0 10,21
5 5 6,10 6.2.8.6.0 4,93
6 Hồ 6 7,32 5.8.13.6.0 4,64
7 Phạm 6 7,32 4.8.8.1.0 3,82
8 Phan 4 4,88 3.7.14.3.0 3,00
9 Bùi 4 4,88 3.4.14.8.0 2,76
10 Đỗ 1 1,22 1.2.11.3.7 1,01
11 2 2,44 1.1.8.0.0 0,91
12 Mai 1 1,22 0.7.11.5.0 0,61
13 Hoàng 1 1,22 0.6.0.0.0 0,47
Tổng cộng 82 100 126.7.12.8.7 100

Nguồn: Địa bạ của bốn làng Cổ Mân, Tân An, Thanh Khê và Nam An

          Xét theo dòng họ, 82 chủ sở hữu trên thuộc 13 họ, gồm: Bùi, Đào, Đỗ, Hoàng, Hồ, Lê, Mai, Nguyễn, Phạm, Phan, Trần, Trương, Võ. Quy mô sở hữu  giữa các họ không đồng đều mà có khoảng cách khá xa nhau. Nổi bật là 4 họ Đào, Nguyễn, Trương, Trần chiếm gần 2/3 số chủ với hơn 77% diện tích. Đặc biệt, không như những họ kia, đối với họ Đào, số chủ và diện tích sở hữu đều thuộc một làng duy nhất là Thanh Khê; số ruộng sở hữu trong nội làng lên đến 46,22%, còn trong tổng thể các làng là 29,50%. Một tỷ lệ rất lớn.  Những họ Hoàng, Mai, Lê, Đỗ chỉ xuất hiện lẻ tẻ 1 đến 2 chủ, diện tích sở hữu cực kì nhỏ bé (xem bảng 10).

          Địa bạ không cho biết cụ thể đối tượng sở hữu thuộc hệ thống chức dịch, chức sắc làng xã.

2 3 - Tác giả Lê Xuân Thông

01 trang trong địa bạ làng Tân Thái (nay thuộc phường Mân Thái, quận Sơn Trà)

3 2 - Tác giả Lê Xuân Thông

01 trang trong địa bạ làng Cổ Mân (phường Mân Thái, quận Sơn Trà)

  1. Nhận xét chung

          Thông qua nghiên cứu các địa bạ cho thấy, trước hết, làng xã ven biển Đà Nẵng có sự đa dạng trong hoạt động sản xuất kinh tế. Sự vắng bóng hoàn toàn về ruộng đất ở làng Hoa Ổ, 100% là ruộng phụ canh ở làng Tân An đã nói lên rằng đây là những làng phi nông nghiệp. Với làng Cổ Mân, sản xuất nông nghiệp cũng không phải là phương thức kinh tế chi phối, bởi trừ đi số ruộng phụ canh, tư điền của làng chỉ còn hơn 3 mẫu12. Nhưng ở những làng khác, đặc biệt là Thanh Khê,  nông nghiệp lại trở nên chủ đạo. Như vậy, ở khu vực này đã hình thành nhiều loại làng: làng phi nông nghiệp, làng vừa phi nông nghiệp vừa kết hợp nông nghiệp và làng nông nghiệp, tuy loại thứ ba không chiếm phần ưu thắng. Rõ ràng, điều này buộc chúng ta phải suy nghĩ lại về những nhận định trong một số tài liệu nghiên cứu lịch sử, văn hóa Đà Nẵng gần đây, khi ở đó không thể hiện sự thừa nhận kinh tế nông nghiệp tại các làng xã ven biển mà luôn coi phi nông nghiệp – cụ thể hơn là ngư nghiệp – là sinh hoạt kinh tế mang tính truyền thống, phổ quát và đặc trưng.

          Trong kinh tế nông nghiệp, trồng lúa là hình thức duy nhất, do không tồn tại loại đất thổ canh. Đây là một khác biệt nếu so sánh với làng nông nghiệp thuộc hai khu vực (đã được nói đến) ở Đà Nẵng. Bởi ở những nơi này, bên cạnh điền thường còn có thổ, nên ngoài lúa là cây trồng chủ yếu còn có cây hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày và cây lương thực khác.

          Về văn hóa – xã hội, xét riêng đối với làng nông nghiệp, từ thực tế hoàn toàn không có công điền (ruộng công làng xã), tư điền đồng canh cũng không nhiều, có thể cho phép nghĩ rằng vai trò tổ chức làng xã trong đời sống cộng đồng có phần mờ yếu, sức gắn kết giữa các thành viên cộng đồng không cao. Trong khi đó sự phân bố chênh lệch tư điền cá thể theo dòng họ, đã phản ánh thế lực dòng họ được xác lập ở một mức độ nhất định trong khuôn khổ làng xã./.

CHÚ THÍCH:

1Theo tên gọi và đơn vị hành chính hiện nay thì đó chính là những làng: Nam Ô (Hoa Ổ) thuộc quận Liên Chiểu; Thanh Khê thuộc quận Thanh Khê; Cổ Mân, Tân Thái (Tân An), Nam Thọ (Nam An) thuộc quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

2 Phần cuối địa bạ này có đoạn: “Nay tiếp tờ tư của tỉnh Quảng Nam về việc tỉnh ấy đang xử khoản tranh chấp giới hạn đất cát trắng của hai xã Hoa Ổ và Xuân Thiều thuộc hạt huyện Hòa Vang. Lúc ấy, châu bạ của xã Hoa Ổ đã bị mất, nên sức soạn sao châu bạ thời Gia Long của xã Hoa Ổ, tổng Bình Thới Hạ, huyện Hòa Vang, phủ Điện Bàn, phát hồi nhận lĩnh tra cứu, đồng thời giao cho xã ấy nhận giữ. Những người trình việc nhân bổn bộ sức cho sao lại châu bạ xin dùng ấn kiềm đóng lên. Sau khi xong sẽ phát giao nhận để làm việc. Vậy nay chép.”

3 Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn – Dinh Quảng Nam, (tập 1), (TP. Hồ Chí Minh: Đại học quốc gia, 2010), 133,137.

4 Những làng này không mang tính đặc trưng về địa hình theo tiêu chí đề ra mà như là sự chuyển tiếp giữa địa hình gò đồi và ven biển. Cả bốn làng nằm gần kề tạo thành một vệt theo chiều bắc – nam, nay tương ứng với khoảng từ phía nam Bến xe trung tâm thành phố chạy ra hướng biển, thuộc hai phường Hòa An (quận Cẩm Lệ) và Hòa Minh (quận Liên Chiểu).

5 Thống kê trên cơ sở số liệu trong sách của Nguyễn Đình Đầu, tlđd, tr133.

6 Ruộng một vụ; cấy vào mùa hạ, gặt vào mùa thu.

7 Địa bạ làng Cổ Mân không ghi mục này; có lẽ, nó được tính chung trong diện tích đất hoang nhàn. Bởi dù sao, các loại đất này đều không bị đánh thuế.

8 Không có căn cứ để suy nghĩ về một khả năng cư trú khác mang tính toàn làng của cư dân nơi đây, chẳng hạn cư trú trên thuyền. Đối với công trình tín ngưỡng, trên lí thuyết, không một làng Việt truyền thống nào không xây dựng cho mình một công trình để thỏa mãn nhu cầu niềm tin. Thực tế, từ tài liệu dân tộc học, văn hóa học và tài liệu lịch sử khác nữa cho phép khẳng định, ít nhất từ thời Gia Long, các làng xã đã xây dựng – thậm chí rất nhiều – thiết chế văn hóa làng xã.

9 Xem, chẳng hạn: Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn – Dinh Quảng Nam, tlđd; Vũ Huy Phúc, Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, (Hà Nội: Khoa học xã hội, 1979); Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang (chủ biên), Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn, (Huế: Thuận Hóa, 1997); Đàm Thị Uyên, Nguyễn Thị Hà, “Tình hình ruộng đất ở huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang qua tư liệu địa bạ Gia Long 4 (1805)”, Nghiên cứu Lịch sử, (Số 9/2009), 30-39.

10 Tất cả địa bạ chỉ có mục tư điền, không có mục ghi công điền. Nhân tiện, xin lưu ý rằng, không nên nhầm lẫn giữa loại ruộng thuộc sở hữu làng xã mà về thực chất, là một loại tư điền với loại ruộng được gọi là ruộng công làng xã. Đây là một loại công điền, do nhà nước nắm quyền sở hữu; làng xã chỉ đóng vai trò là người đại diện quản lí và sử dụng, tuyệt đối không có quyền chuyển nhượng.

11 Dĩ nhiên, làng xã cũng phải nộp tô thuế cho nhà nước, theo quy chế ruộng tư.

12 Với số lượng ruộng đất quá ít ỏi của những làng này, thì ngay cả khi không có hiện tượng phụ canh, chắc chắn, tỷ trọng nông nghiệp cũng chẳng đáng kể gì trong cơ cấu kinh tế của địa phương.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Nguyễn Đình Đầu. 2010. Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn – Dinh Quảng Nam. Tập 1. TP Hồ Chí Minh: Đại học quốc gia.
  2. Vũ Huy Phúc.1979. Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX, Hà Nội: Khoa học xã hội.
  3. Trương Hữu Quýnh – Đỗ Bang (chủ biên). 1997. Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn. Huế: Thuận Hóa.
  4. Đàm Thị Uyên – Nguyễn Thị Hà. 2009. “Tình hình ruộng đất ở huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang qua tư liệu địa bạ Gia Long 4 (1805)”, Nghiên cứu Lịch sử, Số 9, 30-39.

* TS, Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ.

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây