Giới thiệu khái quát tỉnh Lạng Sơn

Lạng Sơn

Giới thiệu khái quát tỉnh Lạng Sơn

Vị trí địa lý: Lạng Sơn là tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc, nằm ở vị trí đường quốc lộ 1A, 1B, 4A, 4B, 279 đi qua, là điểm nút của sự giao lưu kinh tế với các tỉnh phía Tây như Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, phía Đông như tỉnh Quảng Ninh, phía Nam như Bắc Giang, Bắc Ninh, thủ đô Hà Nội và phía Bắc tiếp giáp với Trung Quốc, với 2 cửa khẩu quốc tế, 2 cửa khẩu quốc gia và 7 cặp chợ biên giới. Mặt khác, có đường sắt liên vận quốc tế, là điều kiện rất thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế, khoa học – công nghệ với các tỉnh phía Nam trong cả nước, với Trung Quốc và qua đó sang các nước vùng Trung Á, châu Âu và các nước khác…

Khí hậu:

Nền nhiệt không quá cao là nét đặc trưng của khí hậu Lạng Sơn. Mùa đông tương đối dài và khá lạnh, lượng mưa trung bình năm là 1.400 – 1.500 mm, với số ngày mưa là 135 ngày trong năm. Nền địa hình cao trung bình là 251 m, do vậy tuy nằm ở khu vực nhiệt đới gió mùa, nhưng khí hậu ở Lạng Sơn có nét đặc thù của khí hậu á nhiệt đới. Độ ẩm cao (trên 82%) và phân bố tương đối đều trong năm. Sự phân bố khí hậu này đã cho phép Lạng Sơn có thể phát triển đa dạng phong phú các loại cây trồng ôn đới, á nhiệt đới, và nhiệt đới. Đặc biệt là các loại cây trồng dài ngày như hồi, trám, quýt, hồng, đào, lê, thông, cà phê, chè, và các cây lấy gỗ…

Đặc điểm địa hình:

Địa hình ở Lạng Sơn chủ yếu là đồi, núi thấp, độ cao trung bình là 252 m so với mực nước biển, nơi thấp nhất là 20 m, cao nhất là đỉnh Phia Mè thuộc khối núi Mẫu Sơn 1.541 m. Địa hình được chia thành 3 tiểu vùng, vùng núi phía Bắc (gồm các núi đất xen núi đã chia cắt phức tạp, tạo nên nhiều mái núi có độ dốc trên 350), vùng núi đá vôi (thuộc cánh cung Bắc Sơn – Văn Quan – Chi Lăng – Hữu Lũng có nhiều hang động sườn dốc đứng và nhiều đỉnh cao trên 550 m), vùng đồi, núi thấp phía Nam và Đông Nam bao gồm hệ thống đồi núi thấp xen kẽ các dạng đồi bát úp, độ dốc trung bình 10 – 250…

Dân số:

Dân số của tỉnh Lạng Sơn là 731.887 người (điều tra dân số 01/04/2009)); có 7 dân tộc anh em, trong đó người dân tộc Nùng chiếm 42,97%, Tày chiếm 35,92%, Kinh 16,5%, còn lại là các dân tộc Dao, Hoa, Sán Chay, H’Mông…

Tài nguyên thiên nhiên:

  1. Tài nguyên đất

Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 830.521 ha, có 3 loại đất chính, đất feralit của các miền đồi và núi thấp (dưới 700), chiếm trên 90% diện tích tự nhiên, đất feralit mùn trên núi cao (700 – 1.500 m), đất phù sa (9.530 ha), đất than bùn, đất nông nghiệp, cây đặc sản, cây dược liệu, cây lâm nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng là 68.958 ha, chiếm 8,3% diện tích đất tự nhiên trong đó đất trồng lúa nước là 38.876 ha.

  1. Tài nguyên rừng

Diện tích đất lâm nghiệp có rừng là 277.394 ha, chiếm 33,4% diện tích đất tự nhiên, trong đó, rừng tự nhiên 185.456 ha, rừng trồng 91.937 ha. Diện tích đất chưa sử dụng, sông, suối, núi, đá là 467.366 ha, chiếm 43,02% diện tích đất tự nhiên. Như vậy, tiềm năng về đất còn rất lớn cho việc thúc đẩy phát triển sản xuất nông – lâm nghiệp, đặc biệt là phát triển nông nghiệp trong những năm tới.

  1. Tài nguyên khoáng sản

Theo số liệu điều tra địa chất cho thấy, tài nguyên khoáng sản trên địa bàn Lạng Sơn không nhiều, trữ lượng các mỏ nhỏ, nhưng lại khá phong phú, đa dạng về chủng loại như than nâu ở Na Dương (Lộc Bình); than bùn ở Bình Gia; phốtphorit ở Hữu Lũng; bôxít ở Văn Lãng, Cao Lộc; vàng ở Tân Văn, Văn Mịch (Bình Gia); vàng sa khoáng ở vùng Bản Trại, Đào Viên (Tràng Định); đá vôi, cát, cuội, sỏi có ở hầu hết các nơi trong tỉnh với trữ lượng lớn và đang được khai thác để sản xuất vật liệu xây dựng, thạch anh ở vùng Mẫu Sơn (Lộc Bình); quặng sắt ở Chi Lăng và một số loại khác như măng gan, đồng, chì, kẽm, thuỷ ngân, thiếc,… chưa được điều tra, đánh giá trữ lượng./.

Điều kiện kinh tế, xã hội Tỉnh Lạng Sơn

  1. Điều kiện kinh tế Dân số, năm 2012 của Lạng Sơn khoảng 745 nghìn người. Trong đó nam là 372 nghìn người, chiếm 49,95% tổng dân số cả tỉnh; nữ là 373 nghìn người chiếm 50,05 %. Dân số khu vực thành thị 143,3 nghìn người chiếm 19,22 % tổng dân số; dân số khu vực nông thôn 602,1 nghìn người chiếm 80,7%.

Cơ cấu dân số tỉnh Lạng Sơn trẻ, nguồn lao động khá dồi dào. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2012 là 490,6 nghìn người tăng 2,38 % so với năm 2011; trong đó lao động nam chiếm 50,16%, nữ chiếm  49,84%. Cơ cấu lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 78,05%; khu vực công nghiệp – xây dựng chiếm 4,65 %; khu vực dịch vụ chiếm 17,3%

Các ngành và địa phương đã triển khai nhiều chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn nhằm giải quyết việc làm tại chỗ và cung cấp lao động cho các khu vực công nghiệp.

Giao thông vận tải: Lạng Sơn là một trong các tỉnh miền núi phía bắc có mạng lưới giao thông phân bố tương đối đều có thể sử dụng cả đường sắt, đường bộ và đường thủy.

– Đường sắt liên vận quốc tế từ Hà Nội đến Đồng Đăng – Lạng Sơn và cửa khẩu biên giới Việt Trung với chiều dài 165 km là một trong những lợi thế của Lạng Sơn.

– Đường bộ Lạng Sơn phân bố khá đều trên địa bàn tỉnh với tổng chiều dài là 2.828 km, mật độ 0,35km/km2, trong đó có các quốc lộ: 1A (nối Lạng Sơn – Hà Nội 154 km); 1B (Đồng Đăng – Thái Nguyên 105 km, chạy qua các huyện  Văn Quan, Bình Gia, Bắc Sơn, nối tiếp với Bắc Cạn và thành phố Thái Nguyên), 4A (Lạng Sơn – Cao Bằng 66 km qua huyện Văn Lãng, Tràng Định nối với Cao Bằng); 4B (dài 80 km nối Lạng Sơn với Quảng Ninh qua huyện biên giới  Đình Lập, Lộc Bình); Quốc lộ 31 (Đình Lập – Bắc Giang dài 61 km); quốc lộ 279 (Bình Gia – Thái Nguyên dài 55 km). Các đường tỉnh lộ dài 1.350 km và đường huyện dài 974 km. Đường bộ Lạng Sơn đã tới được tất cả các thị trấn huyện lỵ, cửa khẩu, chợ biên giới và 226 xã, phường của tỉnh.

– Đường thủy: Một số đoạn của sông Kỳ Cùng, từ khu vực Lộc Bình qua thành phố tới Văn Lãng và Tràng Định. Khối lượng vận chuyển hàng hóa còn nhỏ.

Thủy lợi và cấp nước : Thủy lợi ở Lạng Sơn là một trong những ngành được quan tâm sớm và được đầu tư khá nhiều vốn, nhằm phát triển các công trình phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Tổng số các công trình đã xây dựng là 3.170 trong đó có 34 công trình hồ đập nước lớn từ 100ha trở lên. Tổng năng lực công trình có thể tưới cho 38.838 ha. Các công trình thủy lợi phục vụ được nhiều nhất cho vụ mùa 22.927 ha.

Hệ thống điện: Lạng Sơn là một trong những tỉnh miền núi những năm vừa qua đã cố gắng vượt bậc trong việc kéo lưới điện quốc gia tới tất cả 11 huyện, thị trong tỉnh, tới các cửa khẩu và chợ đường biên. Đến nay Lạng Sơn đã có hệ thống lưới điện phân bố rộng khắp và tương đối đồng bộ từ 110KV đến 35KV và 10 KV. Tổng chiều dài lưới điện đã có 451,6 km. Tổng dung lượng điện cung cấp cho cả tỉnh là 27.000 KVA. Sản lượng điện thương phẩm tăng nhanh qua từng năm.

Mạng lưới thông tin liên lạc: Mạng lưới thông tin liên lạc là một trong những lĩnh vực sớm được đầu tư, đổi mới với tốc độ phát triển nhanh, đồng bộ và hiện đại. Các công trình xây dựng, lắp đặt thiết bị xong đã được đưa ngay vào khai thác, sử dụng có hiệu quả, phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Mạng viễn thông kỹ thuật số hiện đại được kết nối bằng cáp quang, truyền viba tới 11/11 huyện, thành phố, 100% xã, các cửa khẩu tỷ lệ sử dụng đạt 12,6 điện thoại cố định/100 dân. Mạng bưu cục của tỉnh được tổ chức chặt chẽ, nên công văn, thư tín, điện tín hàng ngày vẫn đến tận các bản làng vùng cao. Hệ thống phát thanh, truyền hình được đầu tư xây dựng.

Các công trình phục vụ dân sinh: Các công sở ở khu vực thành phố, thị trấn, huyện lỵ được đầu tư xây dựng khẩn trương với việc sửa sang, quy hoạch, hệ thống đường sá, cấp nước… Hệ thống trường học, bệnh viện, các khu vui chơi, giải trí công cộng được đầu tư xây dựng mới toàn bộ; được cải tạo và nâng cấp.

  1. Điều kiện xã hội – văn hóa

Dân tộc: Giống như các tỉnh miền núi phía Bắc, Lạng Sơn là tỉnh có các dân tộc ít người chiếm số đông (84,74 % tổng số dân của tỉnh). Là nơi chung sống của nhiều dân tộc anh em, trong đó người Nùng chiếm 43,9%, người Tày 35,3%, người Kinh chiếm 15,3%, tập trung phần lớn ở các thị xã, thị trấn; người Dao chiếm 3,5 %, dân tộc Hoa, Sán Chay, Mông và các dân tộc khác chiếm  khoảng 1,4 %.

Giáo dục: Đến nay Lạng Sơn đã củng cố, phát triển được hệ thống giáo dục đào tạo hoàn chỉnh từ giáo dục mầm non đến phổ thông trung học, từ giáo dục từ xa đến trung học chuyên nghiệp, hướng nghiệp dạy nghề, tiểu học bán trú đến phổ thông dân tộc nội trú; từ trường công lập, dân lập đến trường tư thục…

Năm 2012 duy trì vững chắc kết quả 100% số xã đạt chuẩn phổ cập tiểu học – xóa mù chữ; phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; duy trì, củng cố và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục THCS của 226/226 xã/ phường. Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia được quan tâm: có 99 trường. Năm học 2012- 2013 có 127.036 học sinh phổ thông; có 5.323 giáo viên tiểu học, 4.294 giáo viên trung học cơ sở và có 1.849 giáo viên trung học phổ thông.

Các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và trường dạy nghề trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn vẫn tiếp tục công tác tuyển sinh. Các trường được duy trì củng cố và phát triển, chất lượng đào tạo đã được nâng lên, đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội.

Y tế và chăm sóc sức khỏe dân cư: Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực. Toàn tỉnh có 210/226 xã đạt tiêu chuẩn quốc gia về y tế xã, đạt tỷ lệ 92,9 %; đạt 22,16 giường bệnh/ vạn dân; 8,4 bác sỹ/vạn dân.

Thể thao: Lạng Sơn có môn võ múa sư tử cổ truyền trong hội lồng tồng của đồng bào Tày, Nùng; Ngoài ra còn có môn bắn nỏ; kéo co, đánh yến (tức din, tức diến); ném còn, đánh khăng… các môn thể thao hiện đại như bóng đá, bóng bàn, cầu lông, bóng chuyền… cũng khá phát triển. Mạng lưới trung tâm thể dục thể thao đã được mở rộng đến tận các huyện, thị, xã, phường, cơ quan, xí nghiệp, công nông trường v.v.. đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu thể thao của nhân dân trên địa bàn tỉnh.

Đời sống vật chất, tinh thần của người Tày, Nùng:

– Nhà ở: Người Tày Lạng Sơn chủ yếu làm nhà sàn, một số nơi có nhà đất, có nơi có nhà nửa sàn, nửa đất; người Nùng cũng ở nhà sàn, nhưng quy mổ thường nhỏ hơn, đơn giản về kết cấu; người Nùng phổ biến ở nhà đất (trình tường, lườn chiên)…

–  Trang phục: chủ yếu là cắt may từ vải bông tự dệt có nhuộm chàm; với nhiều kiểu cách khác nhau. Đặc trưng nữ giới Tày có trang phục áo dài (slửa lì); nữ giới Nùng cũng có áo dài năm thân như Tày nhưng khác về hoa văn, cách thắt lưng, thân áo ngắn hơn; Vì vậy người Tày được các dân tộc khác gọi là cần slửa lì- người áo dài; người Nùng là cần slửa tẩn – người áo ngắn.  Đặc trưng nữ giới Nùng còn có áo ngắn (Nùng cúm cọt, phàn slình) với các hoa văn, họa tiết khác biệt. Áo của nam giới Tày là áo ngắn bốn thân, xẻ ngực; trước kia còn mặc áo năm thân dài đến gối, có thắt lưng trang trí; nam giới Nùng chỉ có áo ngắn bốn thân, xẻ ngực (chất kháu)…

– Ẩm thực cổ truyền: các loại xôi, bánh (xôi màu, xôi chám; bánh chưng; bánh dày, bánh ngải; bánh tro – pẻng dứt, pẻng đắng; bánh trôi; khẩu sli; pẻng khô…; khẩu mẩu); măng đắng luộc, rau ngót rừng xào, canh măng; măng nhồi (mảy nhừng);… canh nấm (bjoóc đin, bjoóc pjào); các món ăn chế biến từ cá (cá nướng, cá sấy); từ thịt ( vịt quay, lợn quay, khau nhục, chân giò nhồi, gà tần…).

– Đồ uống: người Tày ở một số nơi có tập quán dẫn nước từ khe bằng ống tre để uống và sinh hoạt; người Nùng có tục nấu cháo loãng để ở bếp, nhất là vào mùa hè. Rượu là thứ đồ uống phổ biến ở dân tộc Tày, Nùng. Đồng bào nấu rượu bằng gạo, ngô (lẩu sliêu); rượu nếp ủ trong hũ (lẩu van);

– Hát dân ca Tày, Nùng: Hát then (Tày, Nùng), pựt; hát sli sloong hàu; sình làng (Nùng); hát lượn slương (Tày); cỏ lẩu; đồng dao và trò chơi trẻ em; phương ngôn, tục ngữ; hát quan lang;… hát ru; câu đố dân gian; truyện kể Tày Nùng.

– Tín ngưỡng, tôn giáo: Thờ cúng tổ tiên; thờ các vị thần khác ở trong nhà: (Choòng cai của người Nùng; hay gian thờ tổ tiên của người Tày có một khám thờ rất linh thiêng, đặt bên trên bàn thờ tổ tiên đó là nơi thờ Phật Bà Quan Âm (Quan Âm Bồ Tát) và Hắc Hổ Huyền Đàn, là hai vị thần rất linh thiêng, có thể giúp gia đình trừ được tà ma); thờ Bà mụ; thờ Táo quân; thờ tổ sư thầy Tào, thầy Mo, thầy Then. Thờ các vị thần của bản: Miếu (thó); một số nơi có đình thờ thành hoàng, …

– Những nghi lễ chính trong năm: Tết Nguyên đán (chiêng, vằn nèn, Kin chiêng); Hội Lồng tồng (hội xuống đồng); Tết Thanh minh (tảo mộ, chạp mả 3/3 âm lịch); Tết Đoan ngọ  5/5 âm lịch, hay còn gọi là diệt sâu bọ (khả mốc mèng); Lễ cúng thần ruộng, vía trâu; Tết trung thu (rằm tháng tám); Tết cốm và cơm mới vào tháng chín và mười âm lịch; Tết 14 tháng 7 (nèn bươn chất slíp slí);… Tết đông chí.

Nghề thủ công mỹ nghệ ở Lạng Sơn: Nghề trồng hồi; nghề trồng bông, dệt vải và thổ cẩm.Lạng Sơn – Vùng danh lam thắng cảnh: Những điều kiện thiên nhiên ưu đãi đã tạo nên cho Lạng Sơn nhiều danh lam thắng cảnh hấp dẫn cho con người. Đốc trấn Ngô Thì Sỹ  từ thế kỷ XVIII đã tìm cho Lạng Sơn tám cảnh đẹp, ông gọi là Trấn doanh bát cảnh đó là:

–   Quán trọ Đoàn thành,

–   Phố chợ Kỳ Lừa,

 –   Chân núi Thành Tâm,

–   Bến đá Kỳ Cùng,

–   Suối đá Nhị Tam Thanh,

–   Hang động Chùa Tiên,

–   Thôn xóm Hoành Đường,

–   Chòi canh Dương Trấn.

Các di tích, danh lam thắng cảnh tiêu biểu: trên địa bàn Thành phố Lạng Sơn có Quần thể du lịch Nhị Tam Thanh, núi Tô Thị, thành Nhà Mạc; hang động Chùa Tiên, giếng tiên; Chùa Thành (tên chữ: Diên Khánh tự);  Đền Kỳ Cùng (tên chữ: Kỳ Cùng Đại Vương từ); Đền Tả Phủ (tên chữ: Tả Phủ linh từ); Đền Cửa Tây (tên chữ: Ngũ Nhạc từ); Đền cửa Đông (tên chữ: Đông Môn linh từ). Đền Bắc Lệ (tên chữ:  Bắc Lệ linh từ; ở Xã Tân Thành Huyện Hữu Lũng); Đền Mẫu Đồng Đăng (thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc); Đình Nông Lục (ở thôn Nông Lục, xã Hưng Vũ huyện Bắc Sơn)… Ngoài ra Lạng Sơn còn có nhiều di tích lịch sử, văn hóa khác như: Di tích khảo cổ, Cụm văn hóa Bắc Sơn; Di tích lịch sử Khu Chi Lăng; di tích lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh; Di tích lưu niệm về đồng chí Hoàng Văn Thụ; di tích lưu niệm về đồng chí Lương Văn Tri; Cụm di tích Khởi nghĩa Bắc Sơn ./.


1. Thành phố Lạng Sơn

2. Huyện Cao Lộc 

3. Huyện Văn Lãng 

4. Huyện Tràng Định

5. Huyện Lộc Bình 

6. Huyện Đình Lập 

7. Huyện Văn Quan 

8. Huyện Bình Gia

9. Huyện Bắc Sơn 

10. Huyện Chi Lăng 

11. Huyện Hữu Lũng  

     


     

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây